Ba nguồn năng lượng Niệm, Định, Tuệ có khả năng vớt mình ra
khỏi thế giới của hệ lụy. Nhưng cái gì đã ngăn không có cho mình sử dụng ba
nguồn năng lượng đó? Đó là sự bận rộn. Sự bận rộn là trở ngại lớn nhất của
người tu.
Cái Học người tu
Kính thưa đại chúng,
Hôm trước chúng ta có nói đến chánh niệm như một năng lượng
mà mỗi người trong chúng ta đều có khả năng chế tác. Công dụng của chánh niệm
là nhận diện, trước hết là nhận diện một cách đơn thuần. Ví dụ như khi ngồi,
chúng ta biết rằng chúng ta đang ngồi; năng lượng cho mình biết mình đang ngồi
đó là chánh niệm. Khi đang đi, mình biết là mình đang đi; năng lượng cho mình
biết mình đang đi đó là chánh niệm. Trong khi bực bội, gắt gỏng mà mình biết là
mình đang bực bội, gắt gỏng, thì năng lượng cho mình biết là mình đang bực bội,
gắt gỏng đó là chánh niệm. Mình đang còn sống mà biết rằng mình đang còn sống,
đó là chánh niệm. Có nhiều người đang sống nhưng không biết là mình đang sống;
đến khi sắp chết rồi, họ mới biết là họ chưa bao giờ từng sống hết. Niệm là một
trong ba nguồn năng lượng mà người tu phải chế tác. Người nào không biết chế
tác ba nguồn năng lượng đó thì không phải là người tu, dầu là người tu trong
truyền thống Đạo Bụt hay trong truyền thống Cơ Đốc giáo. Ba nguồn năng lượng
này trong Đạo Bụt gọi là “Tam Vô Lậu Học”. Đó là Niệm, Định, Tuệ. Có khi chúng
ta nói: Giới, Định, Tuệ. Nhưng tại Làng Mai chúng ta biết rằng Giới chẳng qua
là Niệm mà thôi.
Chữ Học trong “Tam Vô Lậu Học” có nghĩa là rèn luyện, là
công phu tu tập; nó không có nghĩa là chất chứa kiến thức như ngoài đời. Chúng
ta phải phân biệt chữ Học trong đạo Bụt với chữ Học ở ngoài đời. Học ngoài đời
tức là dùng trí năng để thu thập kiến thức, còn chữ Học trong đạo Phật có nghĩa
là thực tập, công phu, rèn luyện. Chữ Học này được dịch từ chữ “siksa” (như
trong siksamana) nghĩa là thực tập. Những người Sa di ni, sau một thời gian
thực tập, được trao cho sáu giới Siksamana (Thức Xoa Ma Na), tức là sáu Học
Pháp để thực tập, rèn luyện. Tiếng Anh gọi “siksa” là “training”, chứ không
phải “learning”. Khi chưa thành công, vẫn còn thực tập thì gọi là “Hữu Học”.
Khi thực tập thành công rồi, thì gọi là “Vô Học” – “Vô học” không có nghĩa là
không biết gì hết. Ngoài đời, “vô học” có nghĩa là “không có educated, không có
học vấn”. Trong khi đó, chữ “Vô Học” trong đạo Phật lại có một giá trị rất lớn,
nghĩa là người đã thực tập xong rồi, đã rèn luyện xong rồi, khỏi phải thực tập
nữa, gọi là “Vô Học”.
Ý nghĩa của chữ Học là như vậy. Cho nên, đi học Kinh điển
trong trường Trung cấp Phật học hay trong Học viện Phật giáo, cái học đó không
phải là chữ Học này. Cái học đó là thâu thập kiến thức còn cái học này là áp
dụng điều mình hiểu trong đời sống hằng ngày. Học đây là thực tập. “Tam Học”
được gọi là “Three Trainings” chứ không phải là “Three kinds of learning”.
“Vô Lậu” có nghĩa là thoát ra khỏi vòng hệ lụy. Mình đi vòng
vòng trong thế giới của hệ lụy, sầu thương, giận hờn, tuyệt vọng, tham đắm. Đôi
khi mình gắng leo lên, được một chút thì rớt trở lui lại trong cái vòng đó.
Mình thoát ra không được, xa lìa không được. Thế giới của hệ lụy, của khổ đau,
của phiền giận, của hận thù… gọi là thế giới “Hữu Lậu”. Thoát ra được rồi thì
mình có tự do lớn, không bao giờ còn muốn rơi trở lại trong thế giới hữu lậu
nữa. Đó gọi là “Vô Lậu”. Vô lậu là không bị rơi vào trở lại, không bị lọt vào
trở lại.
Năng lượng nào vớt mình ra khỏi thế giới hệ lụy? Đó là ba
loại năng lượng: Niệm, Định và Tuệ. Tinh ba của đạo Bụt là ba nguồn năng lượng
này. Nếu mình không có đủ ba nguồn năng lượng này, thì đừng nói đến chuyện vượt
thoát ra khỏi thế giới hệ lụy. Đời sống hằng ngày của mình là để chế tác ba
nguồn năng lượng đó.
Ba Nguồn Năng Lượng
Nguồn năng lượng đầu tiên là Niệm. Niệm tức là năng lượng
giúp cho mình biết cái gì đang xảy ra: Đang đi, biết mình đang đi; đang ngồi,
biết mình đang ngồi; đang ăn, biết mình đang ăn; đang thở, biết mình đang thở.
Riêng về chuyện thở thôi, Đức Thế Tôn đã dạy rất nhiều. Một Kinh nói về hơi thở
có tên là “Quán Niệm Hơi Thở”. Khi mình thở vào, thì biết là mình đang thở vào.
Khi mình thở ra, thì biết là mình đang thở ra. Khi mình thở vào có hạnh phúc,
thì biết là mình đang thở vào có hạnh phúc. Chữ “An Ban Thủ Ý” (Anapanasati) có
nghĩa là như vậy. Sati có nghĩa là Niệm. Còn “anapana” là “hơi thở vào, hơi thở
ra”. Ý thức được hơi thở vào hơi thở ra, gọi là “anapanasati”. Ngày xưa Tổ Tăng
Hội dịch “Anapanasati” là “An Ban Thủ Ý”. “Thủ ý” tức là ý thức được, lấy tâm
ý, lấy chánh niệm mà nhận diện rằng: “À, mình đang thở vào. À, mình đang thở
ra”.
Vì vậy, người tu là phải biết nhận diện. Nhận diện những gì
đang xảy ra trong cơ thể của mình gọi là Niệm Thân. Nhận diện những cảm thọ của
mình: vui, buồn, hay không vui không buồn; dễ chịu, khó chịu, hay không dễ chịu
- không khó chịu, thì đó gọi là Niệm Thọ. Chúng ta có 51 tâm hành: buồn, giận,
hy vọng, sầu, khổ… những tâm hành bất thiện, những tâm hành thiện, và những tâm
hành trung tính; mỗi khi tâm hành nào phát hiện thì mình nhận diện nó. Khi giận
thì mình biết là mình giận, khi buồn thì mình biết là mình buồn, khi tham đắm
thì mình biết là mình tham đắm, khi thảnh thơi thì mình biết là đang thảnh
thơi. Đó là nhận diện tâm hành hay Niệm Tâm.
Kinh dạy về niệm thân, gọi là “Kinh Niệm Thân”
(Kayagatasati). Hơi thở thuộc về thân, cho nên niệm hơi thở thuộc về niệm thân.
Trở về nhận diện những gì xảy ra trong cơ thể gọi là niệm thân. Khi có khả năng
niệm thân rồi, thì mình sẽ có khả năng niệm thọ. Những cảm thọ: dễ chịu, khó
chịu, vui, buồn xảy ra trong người mình, mình đều nhận diện được hết. Năng
lượng giúp cho mình nhận diện đó là chánh niệm, mindfullness, tiếng Pali là
sati, tiếng Phạn là smrti. Khi 51 tâm hành tuần tự phát hiện mà mình nhận diện
ra được, thì đó gọi là niệm tâm. Niệm tâm có nghĩa là niệm tâm hành. “Citta
samskara” là tâm hành. Trong truyền thống của mình, có ít nhất là 51 tâm hành:
tham, sân, si, mạn, nghi, kiến, phẫn, hận, phú, đố, tật, san, cuống, siểm, hại,
kiêu, v.v… (tâm sở bất thiện); tín, tàm, quý, vô tham, vô sân, vô si, cần,
khinh an, bất phóng dật, bất hại, v.v… (tâm sở thiện). Mỗi khi một tâm hành
xuất hiện thì mình phải có khả năng nhận diện: “Ah, Good morning!”, “Hello, I
know you!”, “Ta biết anh là ai!” Đó gọi là nhận diện đơn thuần; và người tu
phải làm được chuyện đó.
Đối tượng thứ tư của sự nhận diện là Pháp. Pháp này không có
nghĩa là giáo pháp. Pháp này có nghĩa là những đối tượng của nhận thức, những
đối tượng của tri giác. Tri giác là một danh từ tâm lý học, tiếng Anh gọi là
perception, danh từ Phật học là tưởng. Tưởng tức là “samjna”, tri giác. Thí dụ
mình nhìn lên cái bảng trắng, thì cái bảng trắng này là một pháp, đối tượng của
tri giác. Khi mình nhìn trời xanh, thì trời xanh là đối tượng của tri giác. Khi
mình nhìn một sư em của mình, biết đó là sư em của mình, thì đó là đối tượng
của tri giác, của tưởng. Khi tri giác đó đúng thì không sao, nhưng khi nó sai,
thì đó là vọng tưởng. Vọng tưởng tức là không nhận diện được thực tại: trắng mà
cho là đen, đúng mà cho là sai, khổ mà tưởng là vui, vui mà tưởng là khổ. Nhận
thức đảo ngược với thực tại gọi là vọng tưởng điên đảo. Điên đảo nghĩa là lộn
ngược lại, tiếng Anh là upsidedown.
Đối tượng của chánh niệm gồm bốn lĩnh vực, tiếng Pali là
“Patthana”, dịch là Xứ. Bốn lĩnh vực của chánh niệm gọi là “Tứ Niệm Xứ”(The
Four Foundations of Mindfulness).
Niệm, Định, Tuệ là tinh ba của sự thực tập. Hễ có Niệm là
bắt đầu có Định. Ví dụ như khi nhìn bông hoa này, mình ý thức “À, đây là một
bông hồng. Bông hồng màu vàng”. Mình nhận diện được cái bông hồng màu vàng này,
thì tự nhiên mình chú tâm vào nó. Vì vậy, trong Niệm có mầm mống của Định. Và
nếu mình liên tục chú tâm tới đối tượng đó, thì Định sẽ càng lúc càng mạnh.
Niệm chuyên chở Định. Khi Định có mặt rồi, thì trong lòng Định có Tuệ. Định
chuyên chở Tuệ. Trong Kinh Pháp Bảo Đàn có một câu có ý rất hay; Tổ nói rằng:
“Định và Tuệ, đừng tưởng đó là hai cái. Định tức là Tuệ”. Ví dụ như Định về vô
thường, Định về vô ngã, Định về tương tức đều chính là Tuệ. Câu trong Kinh Pháp
Bảo Đàn đó cho chúng ta thấy rằng trong Định đã có sẵn Tuệ rồi. Thành ra đừng
có dùng Định để đi tìm Tuệ. Cứ an trú trong Định và làm cho Định hùng hậu, thì
Tuệ sẽ tự nhiên hiển lộ và phát triển.
Cố nhiên, nếu trong Niệm có Định, thì trong Niệm cũng có
Tuệ. Nếu trong Định có Niệm, thì trong Định cũng có Tuệ. Một cái chứa đựng được
cả ba cái, gọi là “tương dung”. Nhìn vào trong một cái mình thấy có cả ba cái.
Hễ có chánh Niệm là bắt đầu có Định và có Tuệ. Thí dụ khi mình thở vào và có ý
thức: “À mình đang thở vào”, thì ngay trong hơi thở vào đó, mình có luôn cả
Niệm, Định, và Tuệ. Đó đã là Giác Ngộ rồi. Tuệ tức là Giác Ngộ. Cho nên, giác
ngộ không phải là cái gì phải đi kiếm xa lắm. Hễ thở vào một hơi mà biết là
mình đang thở vào hơi đó, an trú được trong hơi thở vào đó, thì hơi thở vào đó
có đủ Niệm, Định, và Tuệ. Và, cứ như vậy mà đi tới thì Niệm, Định, Tuệ sẽ lớn
lên. Hạnh phúc càng ngày càng lớn, tự do càng ngày càng lớn. Khi mình đi thiền
hành mà mình ý thức được tròn đầy bước chân, tâm không suy nghĩ gì hết, những
bước chân của mình hoàn toàn nằm trong chánh niệm, thì mỗi bước chân như vậy có
mang theo cả Niệm, Định, và Tuệ. Điều đó có nghĩa là Tam Vô Lậu Học có ngay
trong từng hơi thở, từng bước chân. Công phu là chỗ đó. Cứ làm cho miên mật thì
sẽ thoát khỏi cái vòng hệ lụy mà mấy ngàn năm, mấy ngàn kiếp nay mình chưa
thoát ra được.
Khả Năng Buông Bỏ
Ba nguồn năng lượng Niệm, Định, Tuệ có khả năng vớt mình ra
khỏi thế giới của hệ lụy. Nhưng cái gì đã ngăn không có cho mình sử dụng ba
nguồn năng lượng đó? Đó là sự bận rộn. Sự bận rộn là trở ngại lớn nhất của
người tu.
Khi đọc lại tiểu sử của Tổ Nhất Định, người khai sinh ra
chùa Từ Hiếu, mình thấy có một điểm son. Điểm son của Tổ Nhất Định không phải
là Ngài được làm Tăng Cang nhiều chùa Vua. Điểm son của Ngài không Phải là Giới
Đao Độ Điệp, được Vua và các quan sùng kính, rồi được làm trụ trì hết chùa này
đến chùa kia. Điểm son của Tổ Nhất Định là tới cái tuổi suýt soát sáu mươi thì
Ngài cương quyết thoát ra. Ngài đã tìm cách xin với Vua để trả hết tất cả những
ngôi chùa kia để về núi Dương Xuân, dựng một cái am ở một mình, với bà mẹ. Một
người được trọng vọng, được cung kính, có nhiều lợi lộc, quyền danh như vậy, mà
chỉ trong vòng một niệm là buông bỏ được, thoát ra được. Đó là điểm son của Tổ
Nhất Định. Cố nhiên là lên đồi Dương Xuân, Ngài chỉ cất một cái am tranh thôi.
Ngài đi với hai người đệ tử, hai thầy trẻ mới thọ đại giới. Ba thầy trò cuốc
đất trồng khoai. Hồi đó, ở xung quanh chùa Từ Hiếu hoang vu lắm, không phải như
bây giờ. Có nhiều vị quan trong triều đình nhớ Ngài và tìm lên. Thấy Ngài sống
cực khổ quá, họ tội nghiệp. Trong khi đó, Ngài hạnh phúc quá chừng. Chưa bao
giờ Ngài hạnh phúc như vậy. Tại vì Ngài đã buông bỏ tất cả. Ngài được sống một
mình với hai người đệ tử, cuốc đất trồng khoai, và được sống với bà mẹ “chuối
ba hương, xôi nếp một, đường mía lau”. Các quan xin với Ngài để lập chùa cho
“có tiện nghi”. Ngài nói: “Thôi thôi, tiện nghi tôi có quá nhiều rồi. Chính tôi
đi kiếm cái này”. Và Ngài cương quyết không cho các quan lên lập chùa. Cúng
dường cái gì Ngài cũng trả lại hết. Điểm son của Tổ Nhất Định là chuyện đó. Và
mình, con cháu Từ Hiếu, phải hãnh diện là mình có một vị thầy như vậy: Vất công
danh, phú quý, địa vị dễ dàng như vất một đôi dép cùn. Cái đó là điểm son của
Ngài, chứ không phải là cái làu thông tam tạng Kinh điển, hay những chức vị và
sự sùng kính của Vua và các quan. Đến ngày giỗ Tổ, để xưng tán công hạnh của Tổ
thì phải nói điểm đó.
Đi trở lui trong lịch sử, mình thấy có nhiều chuyện tương
tự, và mình rất lấy làm hãnh diện vì chư Tổ đã làm được những chuyện đó.
Thực Tập Thả Bò
Có một mùa xuân, Bụt đi khất thực với bốn năm mươi thầy. Đó
là một buổi sáng rất đẹp. Ông trưởng giả kia ra lệnh cho tất cả các công nhân
của ông đem bò ra cày ruộng. Ông ta có đến ba ngàn con bò và bao nhiêu là công
nhân để cày ruộng. Trưởng giả có nghĩa là ông nhà giàu, có rất nhiều đất ruộng,
và nhất là có nhiều bò. Ngày xưa, tài sản của một người được đo bằng bò hơn là
bằng đất ruộng. Ở Texas, hay các miền đồng rộng mênh mông ở bên Mỹ, ngày xưa,
ai sở hữu những đàn bò lớn nhất thì chứng tỏ người ấy là người giàu nhất. Những
chủ nông trại giàu nhất có rất nhiều cowboys (tức là người chăn bò). Họ chăn bò
bằng ngựa. Vì bò nhiều quá, làm sao mà chăn bằng một chú bé với một cây roi
được! Năm bảy con bò hay vài chục con bò thì còn chăn bằng cây roi được, chứ cả
bảy ngàn hay hai mươi ngàn con bò thì làm sao mà chăn bằng một cây roi được!
Phải có nhiều cowboys cưỡi ngựa thì mới có thể chăn bò được. Buổi sáng đó, Bụt
đi khất thực, ôm bình bát đi với các thầy, thì thấy ông nhà giàu, đại trưởng
giả kia đem ba ngàn con bò ra để cày ruộng. Ruộng nhiều lắm. Thấy Đức Thế Tôn
với các thầy đi chậm rãi, ung dung, ông hơi tức, nói: “Mình làm việc như vậy mà
mấy cái ông thầy chùa này không làm ăn gì hết, mà cũng không có ích lợi cho xã
hội”. Khi mới bắt đầu học chủ thuyết cộng sản, người ta cũng ưa nghĩ như ông đó
lắm. Người ta nói: “Mấy ông thầy tu là cái thứ ăn không ngồi rồi, chỉ tiêu thụ
mà không có sản xuất. Các giới trí thức chẳng có ích lợi gì cả. Chỉ có lao động
mới là quan trọng thôi. Lao động là vinh quang!” Chúng ta đã đi qua cái giai
đoạn say mê chủ nghĩa Mác-xít này và chúng ta đã biết điều đó. Những người trí
thức “tiểu tư sản” đã được mỉa mai như thế này: “Ôi, cái trí thức của anh hả?
Không bằng một cục phân. Cục phân kia người ta bón ruộng được, làm thành lúa
được. Còn cái trí thức của anh? Không có nghĩa gì cả”. Đã có lúc những đảng
viên Đảng Cộng Sản, những người chủ trương chủ thuyết cộng sản, đã nói như vậy,
đã quan niệm như vậy. Nhưng Việt Nam bây giờ đã thay đổi, và thay đổi vượt mức
rồi. Việt Nam bây giờ thấy rằng cái làm cho người ta giàu là chất xám. Trong
công nghệ thông tin, mình thấy rất rõ ràng rằng chất xám nhiều thì giàu nhiều,
không phải phân nhiều mà giàu nhiều, hay bò nhiều mà giàu nhiều. Cái ông trưởng
giả đó, ông khinh khỉnh. Ông là nhà tư bản mà ông cũng khinh khỉnh như là nhà
vô sản. “Chúng tôi đem bò, đem ách, đem cày chúng tôi cày ruộng. Chúng tôi gieo
hạt, chúng tôi bỏ phân, chúng tôi tưới tẩm, và chúng tôi có ăn. Mấy thầy không
làm gì hết mà mấy thầy cũng đòi ăn bình bát bự như vậy!” Chê trách Đức Thế Tôn.
Ngài cười và nói: “Nè ông trưởng giả, ông không biết đó, chúng tôi cũng có cày,
cũng có bừa, cũng có gieo giống, cũng có gặt hái như các ông vậy”. Ông trưởng
giả hỏi: “Đâu? Quý vị cày bừa cái gì đâu? Đất đâu? Hạt giống đâu? Bò đâu?” Đức
Thế Tôn đáp: “Tâm chúng tôi là ruộng, hạt giống là những thiện căn mà chúng tôi
gieo hằng ngày. Xã hội nếu không có những hoa trái của sự tu học thì sẽ đau khổ
vô cùng, tệ nạn xã hội sẽ tràn lan. Vì vậy, chúng tôi cũng có ruộng, cũng có
cày. Chánh niệm, định, tuệ là những cái cày của chúng tôi. Và chúng tôi chỉ
gieo những hạt giống tốt, gặt hái hiểu biết, thương yêu, tha thứ v.v... Xã hội
rất cần đến sự gieo trồng của chúng tôi”. Cũng may là nhà triệu phú này có một
chút thông minh nên đã hiểu và phục Ngài. Khi đó đã gần trưa, sắp đến giờ ăn
trưa. Ông ta mới đem phần cơm rất sang của mình ra cúng dường Bụt. Ông nói:
“Xin các thầy ngồi lại, tôi xin cúng dường”. Bụt nói: “Chúng tôi thuyết pháp
đâu phải là để đổi thức ăn này. Xin cám ơn ông”. Rồi Ngài xá chào và đi. Đó là
câu chuyện ghi lại trong Kinh.
Trong một câu chuyện khác, cũng có dính líu đến bò: Hôm đó
Đức Thế Tôn đang ngồi trong rừng Đại Lâm ở thành phố Vasali. Thầy trò vừa mới
thọ trai xong, sắp pháp đàm, thì có một bác nông dân đi ngang qua, hớt hơ hớt
hải. Bác này không giàu bằng ông trưởng giả ở trên kia. Bác chỉ có ba con bò
thôi, nhưng mà bác khổ lắm. Bác hớt hơ hớt hải hỏi Đức Thế Tôn: “Này thầy, thầy
có thấy mấy con bò của tôi chạy ngang qua đây không?” Đức Thế Tôn hỏi: “Bò
nào?” “Thầy ơi, quý thầy ơi, chắc tôi chết quá đi! Tôi chỉ có ba con bò mà
không hiểu tại sao sáng nay chúng bỏ chạy đi đâu mất hết”. Tại sao bò bỏ chạy?
Nguyên do gì mà bò bỏ chạy? Ngày xưa làm chú tiểu ở chùa Từ Hiếu, tôi đã bị bò
bỏ chạy một lần rồi. Ngày xưa tôi đã đi chăn bò. Chùa nuôi bò không phải là để
lấy sữa hay ăn thịt đâu! Chùa nuôi bò với mục đích duy nhất, các bạn Tây phương
nghe đừng cười, đó là để lấy phân thôi. Chúng tôi cần phân bò để trồng rau. Mỗi
buổi sáng tôi gánh hai cái giỏ rất lớn và đem cuốn “Tì Ni Nhật Dụng Thiết Yếu”
đi lên núi. Sau khi tìm chỗ cho bò ăn cỏ rồi thì phải lấy liềm cắt lá. Cắt lá
gọi là lá bổi. Cắt bổi nhận cho đầy hai cái giỏ rồi mới ngồi dưới gốc thông đem
Kinh ra học. Lá bổi cắt là để thay rơm, vì đồng ruộng xa lắm (chùa thì ở trên
núi). Chúng tôi phải lấy lá đó trải chuồng cho bò nằm. Mỗi ngày phải trải thêm
lá mới để cho bò nằm. Phân bò sẽ được trộn chung với lá bổi. Cứ một tuần hay
mười ngày chúng tôi vô dọn, cào hết các thứ vừa phân vừa lá đó gom thành đống
để ủ thành phân bón. Từ đó chúng tôi trồng sắn, trồng khoai, trồng rau, trồng
đủ thứ hết. Mục đích của nuôi bò là để có phân thôi. Dù con bò có sinh ra con
bê, có sữa đi nữa thì cũng không được lấy sữa của bò. Ngày xưa có quan niệm:
sữa là để dành cho con bò con; nếu mình tranh ăn với con bò con thì mình không
phải là người lớn. Đó là quan niệm của chùa ngày xưa: Không có lý mình như vậy
mà giành ăn với con bò con sao? Có một bữa, hai con bò của tôi, không biết tại
sao không chịu ăn cỏ. Hình như trời mưa làm cho nó nhột. Hình như là đến mùa ái
tình của nó cho nên có một năng lượng gì trong người thúc đẩy nó chạy đi; chạy
đi để tìm người yêu. Là chú điệu 16-17 tuổi, tôi đâu có hiểu được cái chuyện
đó, đâu hiểu được tâm lý, sinh lý của bò. Cho nên, tôi không biết tại sao nó
chạy. Nó chạy xuống An Cựu luôn. Và tôi sợ mất bò, về thế nào cũng bị thầy rầy
nên nó chạy, tôi chạy theo. Hai chân bị sướt gai, chảy máu mà phải chạy theo
hai con bò. Sau này lớn lên tôi mới biết nó chạy là vì năng lượng tình dục của
nó. Bị mưa rơi làm nhột, rồi bị tiếng gọi của ái tình vọng lên, thành thử nó bỏ
chạy. Không biết mấy con bò của ông nông dân này chạy vì lý do đó hay vì lý do
khác, nhưng ông tìm không được. Và ông than thở với Đức Thế Tôn: “Bạch Thầy,
chắc tôi chết quá! Chỉ có ba con bò thôi mà nó bỏ đi hết. Và tôi có hai sào hạt
mè, vậy mà năm nay sâu ăn hết một trăm phần trăm. Chắc tôi chết quá! Chắc tôi tự
tử quá!” Đó là cái giọng của những người thất vọng. Đức Thế Tôn thấy thương
hại. Ngài nói: “Bác nè, chúng tôi ngồi đây lâu rồi, mấy giờ đồng hồ rồi nhưng
không có thấy con bò nào đi ngang qua đây hết. Bác đi tìm về phía bên kia coi
thử. Chúc bác may mắn!” Bác nông dân cảm ơn Đức Thế Tôn rồi đi về hướng Đức Thế
Tôn chỉ. Sau khi bác nông dân đi rồi, Bụt quay lại nhìn các thầy, mỉm cười nói:
“Mấy thầy! Mấy thầy có biết rằng mấy thầy may lắm không? Mấy thầy đâu có bò đâu
mà sợ mất!” Khi đọc ngang Kinh này tôi rất thích. Vì vậy, ở Làng Mai, mình xây
dựng một phương pháp thực tập gọi là “thả bò”.
Tổ Nhất Định có bao nhiêu con bò rất mập, rất quý. Đến lúc
muốn thả thì Ngài thả. Danh lợi, quyền hành... tất cả những cái đó thả một cái,
và trở thành con người tự do. Mình hãy trở về coi thử mình còn có bao nhiêu con
bò. Từ lâu nay mình nghĩ rằng: Nếu không có mấy con bò này chắc tôi chết quá!
Nếu không có mấy con bò này đời tôi sẽ không còn gì nữa! Ai dè, sự thật là:
chính vì những con bò đó mà mình lận đận, lao đao, quanh quẩn trong cái vòng hệ
lụy này. Mình không thoát ra được chính là vì bò. Nhưng những con bò ở bên
ngoài đó tương đối dễ thả, bò ở bên trong mới khó thả. Có những cái làm cho
mình lận đận, lao đao, hệ lụy suốt đời. Vậy mà mình không có can đảm buông bỏ.
Vì mình có cảm tưởng rằng buông bỏ rồi thì mình không còn gì hết, và mình sẽ
không có hạnh phúc. Ai dè, sự thật là nếu buông bỏ được thì mình mới bắt đầu có
hạnh phúc.
Tặng phẩm dâng đời
Ngày xưa, khi còn trẻ, khi xướng câu “Bồ Tát thanh lương
nguyệt. Du ư tất cảnh không”, tôi có rất nhiều sự biết ơn. Có bốn câu:
Bồ Tát thanh lương nguyệt.
Du ư tất cảnh không,
Chúng sanh tâm cố tịnh
Bồ đề ảnh hiện trung.
“Thanh lương” tức là trong và tươi mát. “Bồ Tát thanh lương
nguyệt”. Vị Bồ Tát như là mặt trăng trong và mát. Nếu anh muốn làm Bồ Tát thì
anh phải có hai chất liệu đó: trong và mát (thanh lương). Không trong và không
mát thì sức mấy làm Bồ Tát được, dầu là Bồ Tát xuất gia hay Bồ Tát tại gia.
Hình ảnh một vị Bồ Tát có đầy đủ sự trong sáng và tươi mát là hình ảnh tuyệt
vời. Hai chất liệu đó là tặng phẩm rất đẹp cho cuộc đời. Tu là mình muốn tặng
cho đời những cái gì đẹp nhất, phải không? Cái gì đẹp nhất để mình tặng cho
đời? Con người mình, nếu trở thành vị Bồ Tát, có đầy đủ sự trong sáng và tươi
mát, thì đó là tặng phẩm lớn nhất cho cuộc đời. Mình tự hỏi mỗi ngày mình có
chế tác được sự trong sáng và tươi mát đó hay không?
“Bồ Tát thanh lương nguyệt. Du ư tất cảnh không”. “Du” tức
là đi chơi, du hành. Mình đi đâu cũng là đi chơi. Đi Hà Nội cũng là đi chơi, đi
qua Làng Mai cũng là đi chơi, đi Thái Lan cũng là đi chơi, đi Singapore cũng là
đi chơi, đi Xóm Hạ cũng là đi chơi, đi Xóm Thượng cũng là đi chơi, đi vô thiền
đường cũng là đi chơi, đi vô nhà bếp cũng là đi chơi. Không vội vã, relax,
“từng bước chân thảnh thơi”[1]. Đó là sự tự do. Đó là dấu hiệu của một vị Bồ
Tát đích thực: Có sự trong sáng, có sự tươi mát, và có rất nhiều tự do. “Du” là
đi chơi, rong chơi. Rong chơi ở đâu? “Ư ” là ở đâu. “Tức cảnh không” là không
gian không có lằn mé, không có biên giới, nghĩa là tự do tuyệt đối. Mình có thể
gọi tên nó là giải thoát, là thảnh thơi. Hình ảnh của nó là không gian bát
ngát. Thơ, nếu đúng thật là thơ, thì phải làm bằng hình ảnh. Nếu muốn làm thơ,
thì đừng nói thẳng, mà phải dùng hình ảnh. Ví dụ muốn diễn tả mình buồn, thì
đừng nói: “Tôi buồn quá!” Nói vậy không phải là thơ. Mình nói: “Chiều hôm nay
mây xám giăng trong hồn tôi”, dùng hình ảnh, thì đó là thơ. Ở đây nói về tự do,
nhưng không dùng danh từ tự do, mà nói: Mặt trăng đi chơi trong không gian
không có lằn mé. Đó là bức họa đẹp nhất mình có thể vẽ về một vị Bồ Tát hay một
vị Bụt. Phật Thích Ca cũng là một vị Bồ Tát. “Bồ Tát thanh lương nguyệt. Du ư
tức cảnh không”. Thơ mà làm đến mức đó thì gọi là thơ thần, thơ thánh. Hãy
tưởng tượng, hay không cần tưởng tượng, một bữa khuya, trên con đường từ cư xá
của mình đi ra thiền đường, mình dừng lại nhìn lên trời, thấy một vầng trăng
rất trong sáng, rất tươi mát, xung quanh có không biết bao nhiêu là không gian.
Không gian đó tượng trưng cho sự tự do.
Người tu mà không có không gian, không có tự do, không có sự
thảnh thơi, thì đâu có khác với người đời. Người đời họ hệ lụy, họ ràng buộc,
họ không có thì giờ để thở, không có thì giờ để ăn, không có thì giờ để đi
những bước chân thảnh thơi. Mình vô chùa mà mình cũng như vậy, thì mình đâu
khác gì người thế gian!
Ba yếu tố của người tu là: Trước hết, phải trong sáng, không
có những cái u ám của sự lo sợ, buồn phiền, hận thù, dục vọng. Thứ hai là phải
có sự tươi mát của người có nhiều từ bi, hỷ xả. Yếu tố thứ ba là tự do, là
không gian. Quý vị tu để làm gì? Quý vị tu không phải là để sanh về Thiên Quốc,
hay sanh về tịnh độ. Quý vị tu là để có thêm sự trong sáng, có thêm sự tươi
mát, và nhất là để có tự do. Tự do đó không phải là ở ngoài đi vào. Tự do đó là
từ trong đi ra. Bụt và các vị Bồ Tát có rất nhiều tự do. Tự do càng nhiều thì
hạnh phúc càng lớn. Hình ảnh của vị Bồ Tát là mặt trăng tròn đang đi ngang qua
khung trời bao la rộng lớn. Tự do quá nhiều. Tự do nhiều như vậy thì hạnh phúc
làm sao mà đo lường cho được?
Một bước thảnh thơi
Vì vậy, mỗi bước chân, mỗi hơi thở của mình phải đem lại cho
mình tự do. Chuyện này không phải là chuyện nói chơi, hay lý thuyết. Tự do thì
tôi muốn đó, nhưng mà làm sao để có tự do? Hay là mình chỉ nói tự do thôi? Sự
thật là khi mình bước một bước chân, tùy theo cách mình bước mà mình có tự do
hay không có tự do. Một bước chân có thể buông bỏ tất cả, một ngàn con bò, hai
ngàn con bò, ba ngàn con bò... Một bước chân thôi, buông bỏ hết. Cái đó là
thiền hành. Đâu cần phải tu tám năm, hay mười năm mới làm được, chỉ cần đi một
bước chân thôi, đi trong ý thức sáng tỏ. Mình muốn vượt thẳng ra khỏi cái thế
giới hệ lụy mà lâu nay mình bị chìm đắm, trói buộc. Một hơi thở, một bước chân
thôi có thể đưa mình ra khỏi liền. Bởi vì hơi thở đó có Niệm, Định, và Tuệ.
Bước chân đó cũng có Niệm, Định, và Tuệ.
Chớ đợi ngày mai
Có ông thầy nọ có một người đệ tử. Hai người ở trong cái
chùa rất là bận rộn. Chùa thành phố, thành ra bận rộn lắm. Không biết đó là
thành phố nào? San Francisco hay là San Jose? Paris hay là Melbourne? Chùa chỉ
có một ông thầy và một người đệ tử. Hôm đó, người đệ tử mới nảy ra một ý kiến,
tôi gọi là “crazy idea”: “Bạch thầy, bữa nào thầy trò mình tổ chức đi picnic
một bữa đi”. Tây phương họ thích đi picnic lắm. Picnic là chuẩn bị thức ăn,
chuẩn bị đồ rồi đi chơi một ngày, khỏi làm gì hết. Ông thầy nói: “Hay lắm, hay
lắm! Good idea!” Ông thầy chịu chơi. Ông thầy thấy rằng đệ tử của mình nó cần
đi picnic, mà chính bản thân mình cũng cần đi picnic nữa. Không phải là ông
thầy không thấy được sự thật đó. Đi chơi một ngày và buông bỏ hết, để chơi
thôi. Hai thầy trò cùng đồng ý với nhau rồi thì còn gì hạnh phúc hơn nữa! Nhưng
mà ngày mai đi picnic không được. Ngày mốt đi picnic cũng không được. Ngày kia
đi picnic cũng không được. Tuần này đi picnic không được, tuần tới đi picnic
cũng không được. Cuối cùng, mấy năm trôi qua mà hai thầy trò chưa bao giờ có cơ
hội để đi picnic hết. Đó là chuyện của ai vậy? Chuyện của hai thầy trò đó hay
là chuyện của mình? Cho đến một ngày kia, hai thầy trò đi ngang thành phố thấy
người ta đông ơi là đông, cờ xí, kèn trống rất nhiều. Thầy mới hỏi: “Nè con, họ
làm cái gì vậy? Con ra coi họ đang làm cái gì vậy”. Đó là một cái đám ma. Người
đệ tử đi ra một hồi, về báo cáo: “Bạch thầy, họ đang đi picnic!” Nếu mình không
đi picnic hôm nay, thì đám ma của mình là cái picnic duy nhất của đời mình. Đó
là câu chuyện thật xảy ra giữa một ông thầy và một đệ tử ở Tây phương, nhưng
Đông phương cũng có thể xảy ra như vậy. Câu chuyện đó cũng không phải là câu
chuyện của người khác; nó có thể là câu chuyện của mình.
Vì vậy, mình phải có cơ hội nhìn lại xem thử mình có đang đi
trên con đường ngày xưa mình đã phát nguyện đi hay không, hay là mình đã, đang
rẽ qua một con đường khác. Khi chúng ta đọc lại hành trạng của chư Tổ, chúng ta
thấy mình có thể tự hào đã có những bậc thầy có khả năng buông bỏ, có khả năng
đạt đến tự do.
Tập lìa thói cũ
Ở Làng Mai có truyền thống mỗi tuần có một ngày làm biếng.
Có người hỏi: Tại sao dùng chữ làm biếng? Không hay gì hết! Phải nói đó là ngày
nghỉ ngơi, day-off! Không biết day-off là off cái gì? Rất khó. Cái ngày đó gọi
là ngày gì? Và trong hai chục năm nay đã có rất nhiều bạn bè đến làm áp lực để
mình bỏ cái danh từ “làm biếng” đi. Họ nói mình dùng: “ngày nghỉ ngơi”, “ngày
thực tập cá nhân” (personal practice), hay là “ngày không làm gì hết” (day-off)
chứ dùng chữ “làm biếng” thấy không có vẻ đạo đức gì hết! Nhưng mà thầy trò ở
đây đã ráng phấn đấu để giữ lại được cái chữ “làm biếng”, “lazy day”. Tại vì
làm biếng khó lắm! Làm biếng, không làm gì hết là rất khó, vì mình đã có tập
khí luôn luôn làm cái gì rồi. Ở Tây phương, nghiện rượu gọi là “alcoholic”; có
chương trình gọi là “12 steps program” để giúp người ta thoát khỏi tập khí gọi
là uống rượu đó. Hiện giờ có một chữ mới gọi là “workaholic”. “Workaholic” là
nghiện làm việc, tức là không làm việc chịu không nổi, ngã lăn ra chết liền.
Lâu nay mình coi chuyện nhàn hạ là bất thiện, không làm gì hết là tội lỗi. Vì
vậy, phải luôn luôn làm cái gì. Ông bà tổ tiên mình đã trao truyền cho mình tư
tưởng đó: “Nhàn cư vi bất thiện”. Con đừng nên bao giờ nhàn cư. Nhàn cư là bất
thiện. Con phải luôn luôn làm cái gì để cho ngày mai. Vì vậy cho nên bận bịu
suốt ngày trở thành tập khí. Hai tay mà ở không, không làm gì thì khó chịu vô
cùng; phải đi tìm cái gì để làm mới được. Nhất là chuyện mình nghĩ rằng phải
làm, phải sản xuất để có đồng ra đồng vào. Chuyện này đã trở thành tập khí
không phải chỉ nơi một người, một gia đình, mà ở cả làng, cả xóm, cả tỉnh, cả
nước. Tất cả mọi người đều bận rộn, và trở thành một đặc tính của nền văn hóa
bây giờ. Tất cả đều bận rộn. Người nghèo bận rộn đã đành, mà người giàu “nứt đố
đổ vách” cũng bận rộn không kém, có khi còn bận rộn hơn nữa. Người nghèo nói
rằng: “À chừng nào mình có được từng này lợi nhuận thì đủ, có thể ngưng được”.
Nhưng khi tới đây thì thấy: Tại sao không tăng thêm mức lợi nhuận? Tới đây rồi
vẫn thấy không đủ, vẫn tiếp tục đi như vậy hoài. Tại Làng Mai mình có tổ chức
một khóa tu cho các nhà doanh thương. Mình thấy rằng những nhà doanh thương khó
có bao giờ ngừng lại được. Trong đầu của họ cứ nghĩ làm sao để thành công hơn,
để giàu hơn..., và họ không bao giờ ngừng lại được. Họ không có thì giờ cho họ.
Họ không có thì giờ cho vợ, cho con, cho người thương. Những nhà doanh thương
giàu có rất tội nghiệp! Đầu óc ngày đêm chỉ nghĩ đến chuyện: Không biết trong
thị trường chứng khoán hôm nay cổ phần của mình tăng giá trị lên hay là sụt
xuống? Trong khi vị Bồ Tát có biết bao nhiêu là không gian thì người này không
có chút không gian nào hết. Tất cả thân, khẩu, ý của ông ta đều xoay về hướng
thị trường chứng khoán, xem nó lên hay là nó xuống. Rất tội nghiệp! Giàu mà khổ
vô cùng: Không có tình thương, không có sự nhàn hạ.
Vì vậy, ngày làm biếng của Làng Mai mình phải thực tập cho
nghiêm chỉnh. Khi gặp nhau tại Làng Mai, thay vì hỏi “Sư anh có mạnh không? Có
vui không?”, thì mình hỏi: “Sư anh hôm nay làm biếng có khá không?”. “Làm biếng
khá” nghĩa là biết tận hưởng những giây phút của mình. Thật sự, ngày làm biếng
nếu mình thực tập thành công thì có ảnh hưởng rất tốt cho các ngày không gọi là
ngày làm biếng. Trong ngày làm biếng mình thực tập như thế nào để an trú sâu
sắc trong từng giây phút. Ngày làm biếng, mình cũng phải tắm giặt, cũng phải
viết thư, cũng phải ăn cơm, cũng phải đi cầu, cũng phải chải răng; nhưng mà
mình tắm giặt, viết thư, đi cầu, chải răng như thế nào để có hạnh phúc ngay trong
khi làm những việc đó. Thành công trong ngày làm biếng thì những ngày theo thời
khóa mình cũng có thể làm được như vậy: Ngồi thiền cũng hạnh phúc, đi thiền
hành cũng hạnh phúc, chấp tác ngoài vườn cũng hạnh phúc, làm việc trong bếp
cũng hạnh phúc... Luôn luôn có sự tươi mát, có sự trong sáng và có rất nhiều
không gian thảnh thơi. Giá trị của người tu nằm ở chỗ đó. Nếu không có ba phẩm
chất đó thì tu làm gì?
Nền văn minh của chúng ta có thể gọi là nền văn minh của sự
bận rộn. Sự bận rộn đã trở thành một nhà tù giam hãm tất cả chúng ta. Nếu muốn
thoát khỏi nhà tù đó, thì nhất thiết phải có ba loại năng lượng: Niệm, Định và
Tuệ. Mình cầu chúc cho mọi người có thể nương vào Niệm, Định, Tuệ để thoát khỏi
cái nhà tù bận rộn đó. Được như vậy thì mới có hạnh phúc chân thật. Hãy nhìn
vào một vài người mà người ta thường ao ước, mong cầu, ví dụ như Tổng thống
Bush, là người có quyền hành rất lớn. Trở thành tổng thống Mỹ là giấc mơ của
rất nhiều người trai trẻ bên Mỹ. Chưa nếm mùi đó thành ra họ không biết. Ăn
không ngon, ngủ không yên, lo lắng suốt ngày suốt đêm, ác mộng suốt đêm về tình
trạng Iraq: Khạc không ra, nuốt cũng không vô, ngày nào cũng có những thanh
niên chết bên đó. Mình có đánh đổi đời sống của một ông thầy tu để lấy đời sống
của một ông tổng thống hay không? Nếu mình làm giám đốc của một hãng xưởng lớn,
thì suốt ngày mình phải lo lắng, bận rộn, không có một giây phút nào để nghỉ
ngơi, không có hạnh phúc, không có thì giờ để thở, để đi những bước chân thảnh
thơi... Khi mình làm một ông thầy tu, khi mình làm một người thực tập, thì mình
có rất nhiều cơ hội, và mình phải có hạnh phúc ngay trong giây phút hiện tại.
Chẳng ở đâu xa
Tổ Lâm Tế đã thỉnh một tiếng chuông rất lớn. Nếu quý vị từng
học Lâm Tế Lục, quý vị sẽ thấy rằng đời sống của Tổ Lâm Tế cũng như giáo lý của
Ngài là một nhân bản luận rất hào hùng. Tổ không muốn mình ngồi đó để ăn những
cái bánh vẽ, Tổ muốn mình có hạnh phúc, có tự do, có giác ngộ lập tức trong
giây phút hiện tại. Pháp môn thiền đi của Làng Mai là trực tiếp lấy nguồn cảm
hứng từ Tổ. Tổ nói: “Thần thông là khi mình đi trên mặt đất” (Địa hành thần
thông). Đi như thế nào để mỗi bước chân đem lại giác ngộ, giải thoát và hạnh
phúc. Đi như vậy giúp mình đi vào Phật địa, tịnh độ. Tịnh độ hay Phật địa nằm
trong từng bước chân. Tổ Lâm Tế còn nói: “Quý vị đi tìm Bụt hả? Quý vị đi tìm
Tổ hả? Bụt là cái gì? Tổ là cái gì?” Hồi đó người ta đang mê cái gọi là “Tổ sư
thiền”. Gặp được Tổ, Tổ nói một câu là mình giác ngộ liền, vì vậy mình đi tìm
Tổ. Gặp được Bụt, ngồi bên Bụt thì giác ngộ liền. Vì vậy, có nhiều người chuyên
môn đi bán Bụt, bán Tổ: “Tôi có Bụt thật. Tôi có Tổ thật. Anh tới đây, tôi bán
cho”. Nhưng đó chỉ là bánh vẽ, không phải thật. Tưởng tượng vẽ một cái bánh
chưng, rồi nói: “Anh ăn cái này đi!” Làm sao no được? Trong Kinh Bách Dụ, Đức
Thế Tôn có nói chuyện này: Có một anh đó bị bệnh. Ông thầy thuốc nói: “Bệnh của
anh, nếu ăn chim trĩ thì hết”. Ông thầy thuốc bận quá, nói xong câu đó ông phải
đi ngoại quốc. Anh này hiểu lầm, nghĩ rằng lập lại chữ “chim trĩ” như thần chú
thì sẽ lành bệnh. Và anh cứ ngồi đó nói “Chim trĩ, chim trĩ, chim trĩ” suốt
ngày. Không hết bệnh mà còn bệnh thêm nữa. Sau đó có một thiện tri thức nói:
“Cả ngày anh lẩm bẩm cái gì vậy? Tại sao anh cứ ngồi nói “chim trĩ, chim trĩ,
chim trĩ” hoài vậy?” Người bệnh nói: “Tại ông thầy thuốc nói chim trĩ trị hết
bệnh”. “Anh ngốc quá đi, ông thầy thuốc nói rằng anh phải đi tìm con chim trĩ
anh ăn. Anh biết con chim trĩ là như thế nào không? Đưa tôi tờ giấy tôi vẽ cho
để anh biết con chim trĩ là gì”. Và người bạn ngồi đó vẽ ra con chim trĩ: “Con
chim trĩ là con này nè! Anh phải đi tìm con này, ăn cho nhiều thì anh sẽ hết
bệnh”. Anh chàng này vốn không có trí tuệ (hầu hết chúng ta đều như vậy hết),
khi bạn đi khỏi rồi, anh lấy cái kéo cắt hình con chim trĩ đó ra nhai. Không hết
bệnh, anh mới thuê thêm họa sĩ đến vẽ thêm những con chim trĩ khác để ăn thêm.
Suốt mấy tháng cũng không hết bệnh. Một hôm một người bạn khác đến: “Anh làm
cái gì vậy? Anh vẽ cái gì mà nhiều vậy?” “Tôi vẽ chim trĩ. Tôi phải ăn nhiều
mới hết bệnh”. “Anh dại quá đi. Làm sao ăn chim trĩ vẽ mà lành bệnh được? Anh
đi với tôi ra ngoài chợ”. Người này nhất định giúp cho anh thành công. Hai
người ra ngoài chợ, thấy bán con chim trĩ người bạn nói: “Anh phải mua về nấu
cháo”. Và người đó cương quyết giúp anh cho tới nơi tới chốn: Mua về, làm thịt,
nấu cháo, bắt anh ăn ngay trước mặt. Và anh lành bệnh. Chuyện bánh vẽ Đức Thế
Tôn cũng đã có nói tới, không nói bánh mà nói chim trĩ vẽ. Chúng ta suốt ngày
nói Bụt, nói Tổ, nói giải thoát, nói giác ngộ, nói xã hội chủ nghĩa. Tổ Lâm Tế
nói: “Quý vị đi tìm Tổ hả? Bụt là ai? Tổ là ai? Bụt với Tổ chính là quý vị đó!
Đang ngồi trước mặt tôi, đang nghe Pháp đó”. Nếu trong giây phút hiện tại mà
quý vị trở về với quý vị được và làm phát sinh ra Niệm, Định, Tuệ, thì quý vị
đang chính là Bụt, là Tổ, đang sống trong tịnh độ, trong Phật địa. Đừng đi tìm
xa. Ngài nói là mình phải nếm liền cái đó. Ở Làng Mai mình cũng làm như vậy.
Mỗi bước chân nếu có Niệm, Định, Tuệ, thì bước chân đó đưa mình vào ngay trong
tịnh độ, niết bàn, giải thoát. Vấn đề là vấn đề của giây phút hiện tại chứ
không phải là vấn đề ao ước trong tương lai. Phật độ, giải thoát, giác ngộ
không phải là vấn đề tương lai. Đó là vấn đề hiện tại.
Một cụm từ ở trong giáo điển mà phần lớn chúng ta đều không
nhớ là “hiện pháp lạc trú”. “Hiện pháp lạc trú” là phải có hạnh phúc ngay trong
giây phút hiện tại. Chữ “Hiện pháp” có nghĩa là những gì đang xảy ra trong giây
phút hiện tại, mình dịch là “the present moment”. “Lạc” tức là hạnh phúc. Mình
sống, an trú với hạnh phúc ngay trong giây phút hiện tại gọi là “hiện pháp lạc
trú” (drstadharmasukhavihara). Vihara có nghĩa là trú, sukha có nghĩa là lạc,
và drstadharma có nghĩa là hiện pháp. Cái mình đi tìm là tự do, hạnh phúc, giải
thoát. Đi tìm ở đâu nếu không ở trong từng bước chân, trong từng hơi thở, trong
từng bữa ăn sáng? Ăn sáng như thế nào mà trong thời gian ăn sáng đó mình an trú
trong tịnh độ, trong giải thoát, trong tự do, không phóng tâm về tương lai,
không phóng tâm về chỗ nào khác, hoàn toàn thiết lập trong giây phút hiện tại.
Làng Mai là chỗ quý vị tập sống như vậy.
Sống được như vậy vài ba ngày rồi thì về trú xứ của mình,
quý vị cũng thấy tịnh độ, cũng thấy an lạc, cũng thấy giải thoát. Đó là tại vì
quý vị đã biết chế tác ba nguồn năng lượng Niệm, Định, và Tuệ. Chính ba nguồn
năng lượng đó vớt mình ra khỏi thế giới của hệ lụy, và mình không phải đợi tới
giờ phút đám ma thì mới bắt đầu cuộc picnic của mình. Mình phải picnic ngay
trong giây phút hiện tại.
Nguồn: Làng Mai
__________________
Ghi chú:[1] Tên một bài hát của Tịnh Thủy.
(Pháp Thoại của Sư ông Làng Mai, ngày 14.12.2006 tại Xóm
Thượng, chùa Pháp Vân, Làng Mai, khóa an cư kết đông)
0 nhận xét:
Đăng nhận xét