Vô thường. Hai từ
ấy thôi, mỗi lúc được nói lên là khiến cho những người có mặt gợi nhớ cảm giác
gì thật rụng rời và mất mát.
Ngày xưa, mỗi lần tôi
nghe hoặc nhớ nghĩ nhiều về vô thường, trong tôi cũng trào dâng cảm giác bất
an, muốn chạy trốn, muốn vứt bỏ tất cả, thấy như mọi nguồn sống trong mình phút
chốc bị chiếm đoạt, phút chốc tất cả như bị tê liệt, và phút chốc thấy ta trở
thành tên nô lệ thật trớ trêu cho thân phận vô thường. Lúc đó, tôi chỉ là một
chú bé cỏn con long nhong cùng lớp học.
Vô thường là một cái gì
rất thật, rất hiện hữu, rất "thường" trong kiếp sống này. Nhìn vào
đâu ta cũng dễ dàng bắt gặp. Vô thường trong mẹ trong cha. Vô thường trong ông
bà tổ tiên. Vô thường trong từng loài từng vật. Vô thường trong chính ta. Vô
thường làm cho mình mất đi tất cả.
"Vô thường làm cho
mình mất đi tất cả", đó là cái nhìn thô sơ của tôi trong những ngày thơ
dại. Vì cái nhìn cạn cợt đó, tôi đâm ra khổ đau, cuống cuồng, cố gắng níu giữ
mọi thứ vào đáy sâu của chiếc rương tâm thức và bo bo giữ như những báu vật kỉ
niệm, cố gắng ôm tất cả vào lòng để chúng đừng thất lạc. Nhưng đã là vô thường
rồi, làm sao mà cất giữ cho được. Cái rương tâm thức kia cũng đâu có chịu đứng
yên một chỗ để ta cất giữ và nắm bắt hết những gì mình muốn. Vạn vật đều vô
thường hết, cảm giác lòng tôi lại trống trơn khi nằm yên một góc khuất nào đó
mà gặm nhấm cái giờ phút mình không còn lại gì từ mình từ người từ vũ trụ, mất
hết. Ủa, tại sao lúc đó mình lại không nghĩ được thêm một bước nữa nhỉ, rằng
"vô thường làm cho mình có tất cả".
Thế rồi tôi phát tâm xuất
gia, cũng từ lí do về những giằng co của cõi vô thường. Tôi không chịu nổi đời
sống nhạt nhẽo của tôi mỗi ngày, học, chơi, ngủ, phá phách, vô tích sự. Nhìn
những nấm mộ mọc lên ngày càng nhiều từ nghĩa địa phía sau lưng nhà, tôi không
chịu nỗi cái viễn cảnh một hôm tôi cũng là tay sai của những nấm mộ. Tôi nghĩ,
đi tu rồi mình sẽ thoát khỏi nợ vô thường. Thế Tôn sẽ cho tôi đời sống không bị
vô thường chi phối, nội trong một tuần thôi, hay cùng lắm là nửa tháng, thế nào
tôi cũng đạt được giải thoát cho coi.
Nhưng tôi đã lầm to rồi.
Làm gì có sự chạy trốn trong thế giới này. Xuất gia rồi, một năm, hai năm, năm
năm, mười năm, tôi càng ý thức rõ hơn vô thường là một thứ gì rất thật, có mặt
khắp mọi nơi trong mọi lúc. Vậy thì nỗ lực tu tập để làm gì? Đâu thoát được gì
đâu? Có khi tôi đâm ra ghét vô thường, ghét những gì cứ bị vô thường chi phối.
Nhưng tôi vẫn mãi phải sống và trân tráo nhìn nó suốt không thôi. Tôi đã sử
dụng hai từ này, vô thường, như một công án để trầm tư.
Theo thời gian, trong tận
sâu tâm thức tôi, có cái gì gợi mở, để một ngày mưa tôi thấy chúng vỡ òa đầy
xúc động. Cơn vô thường như biến thành những giọt nước mưa tưới tẩm và nuôi
dưỡng muôn vạn loại.
Trong truyền thống đạo
Phật, ta nghe từ vô thường xuất hiện một cách thường xuyên. Từ đây, có rất
nhiều người khẳng định Phật giáo là bi quan, yếm thế, thụ động, không có tinh
thần xây dựng và ru ngủ con người trong đêm trường tối tăm, là con đường của
tuyệt vọng và vực thẳm. Nói như vậy thì oan uổng cho đức Thế Tôn quá. Mà đến
bây giờ, vẫn còn rất nhiều người mang quan niệm đó, và cánh cửa đi vào an vui
tự tại gần như đóng hẳn lại cho những ý thức hệ không vượt thắng tri giác sai
lầm.
Vô thường là một sự thật,
là một chân lý, là một nhân chứng rõ rệt hằn ghi trên vạn hữu. Có ai có thể
chối cải sự thật đó? Ai có thể tìm ra được hiện tượng gì không bị vô thường chi
phối? Trong giáo lý nào không thấy ở đó tiếng nói vô thường, chúng ta có quyền
nghi ngờ và xét xem có phải là giáo lý đức Phật dạy hay không. Vô thường là một
trong ba ấn tín xác nhận đó rõ ràng là giáo pháp của đức Phật. Hai ấn tín còn
lại gồm Vô ngã và Niết bàn. Đó gọi là Tam pháp ấn.
Vô thường tức là trạng
thái chuyển biến liên tục của vạn vật, trong đó có thân thể và tâm thức của
chúng ta. Chúng ta phải có sự chuyển biến, phải có sự thay đổi thì chúng ta mới
có sự lớn lên. Một bào thai không bị vô thường thì bào thai đó mãi hoài cứ nằm
trong bụng mẹ, bào thai đó mãi hoài không ra khỏi bụng mẹ để thành một đứa trẻ,
để lớn lên, để trưởng thành và để hoại diệt. Một rừng cây không chịu tuân theo
luật vô thường thì mãi mãi chúng là những hạt mầm, hay mãi mãi chúng chỉ là một
cây non, sẽ không bao giờ có những cánh rừng trưởng thành và sẽ không bao giờ
chúng có khả năng tạo nên sự tiếp nối cho những thế hệ tiếp theo. Một
Angulimala không vô thường thì Angulimala mãi mãi là một tên giết người không
ghê rợn với đôi bàn tay luôn vấy máu, và Angulimala đó sẽ không có khả năng để
chuyến hóa thành một chàng tu sĩ mà tình thương bao trùm lên tất cả loài vô
tình lẫn hữu tình, Angulimala đó sẽ hoàn toàn không có khả năng tu tập để trở
thành một đệ tử nổi tiếng trong các công hạnh tu tập. Vậy thì vô thường đáng
mừng thầm, đáng hân hoan hay là nơi để mình trở về thở than, để tìm tin sống
tuyệt đoạn?
Có một mùa thu, tôi đi
học trên đường Lê Duẩn ở Huế, bỗng tôi phát hiện ra bao nhiêu là lá vàng đang
chạy chơi trên đường cùng những tia nắng mai, đang thả mình từ hai hàng cây,
đang cố đậu lại trên cành giữa vài sợi sương mỏng, cảnh tượng ấy thật diễm
hoàng. Và mỗi ngày đi tôi đều thấy con đường ấy rất mới. Một đêm ngồi thiền,
cảnh tượng những chiếc lá vàng mùa thu ấy tràn về, và tôi bắt đầu quán chiếu.
Những chiếc lá ấy từng chỉ là những mầm non, từng là sự kết hợp mầu nhiệm của
ánh sáng, của nước, của đất, của không khí, của những người trồng cây, cảu bao
nhiêu thế hệ đi trước nữa... Chính sự luân chuyển trong vô thường đã làm chúng
biểu hiện. Biểu hiện chỉ là biểu hiện, biểu hiện không có nghĩa là đến lúc đó
chúng mới có mặt. Thật tế chúng đã có mặt từ bao giờ rồi. vũ trụ này sửa soạn
có mặt thì chúng cũng đã nhen nhóm thành hình.
Chúng ta sinh ra và đã
nghe bao nhiêu người nói đến vô thường. Vô thường được tiếp nối trong tâm thức
ta từ dòng máu huyết thống tổ tiên, thử hỏi ta đã bao giờ đàng hoàng ngồi để
suy gẫm thật kỹ về điều này chưa? Hay ta chỉ nghe, chỉ nhìn phớt qua cuộc đời rồi
cũng triết lý "đời là vô thường" như những chú vẹt? Nếu
chưa thì ta phải làm, tùy từng trình độ mà ta sẽ thấy nó sâu sắc hay nông cạn,
nhưng ít nhất nó sẽ sâu hơn là khái niệm ta chỉ nghe và nói theo từ những người
khác. Vô thường không phải là một sản phẩm mà ta có thể nhìn thấy bộ mặt thật
của nó từ khái niệm hay từ người khác. Chúng ta chỉ thật sự thấm nhuần khi tự
thân quán chiếu và tìm ra "bản lai diện mục" của nó.
Đức Phật đã không ru ngủ
cuộc đời, không khiến cuộc đời chết oan uổng trong mộng mị, không hứa hẹn một
nếp sống an vui trong kiếp sống xa xôi nào hay là sau khi bước chân vào cõi
chết. Vì thế đức Phật đã nói sự thật. Tất-đạt-đa đã dám đối diện với sự thật và
bắt gặp sự mầu nhiệm của sự thật mà trước đây đã nhiều lần vị Thái tử này muốn
chạy trốn. Vô thường là một sự thật. Khổ đau là một sự thật. Vạn vật nương nhau
để cùng tồn tại, đã có mặt hết lòng cho nhau là một sự thật. Thái tử đã nhìn
thấy ánh sáng, và đã thành bậc toàn giác, vượt lên sự trói buộc của những tri
giác sai lầm, hòa vào sự thật và dung thông với sự thật. Mà sự thật này, đức
Phật thấy, nó có mặt trọn vẹn và mầu nhiệm trong hết thảy chúng sanh, nhưng
chúng sanh vì mê mờ mà đã không nhận ra và đã không thể sống với, giống hệt như
một gã hành khất có viên ngọc vô giá nơi chéo áo mà không hề nhận ra để sử
dụng. Và đức Phật quyết định thuyết pháp, quyết định chỉ cho chúng sanh thấy
viên ngọc vô giá đó đang có trong mình.
Bài pháp đầu tiên Thế Tôn
tuyên thuyết đã nói về sự thật của khổ, những nguyên nhân khiến khổ có mặt, sự
hạnh phúc tự do khi thoát khỏi khổ và con đường diệt khổ để đạt được sự tự do
hạnh phúc đó. Và sự thật khổ có mặt là do ta không thấy sự vận hành của các
hiện tượng tức là không thấy được vô thường, cho nên khi thương yêu nhau mà
phải xa nhau, khi ghét nhau mà phải đối mặt, khi sinh, già, bệnh, chết xuất
hiện, khi ước mơ điều gì mà điều đó lại không thể thành tựu... thế là ta khổ
đau. Đó là những con sóng lớn nhấn chìm ta xuống vực thẳm của tang thương. Thế
là ta khổ? Mà tại sao lại khổ? Vì trong tâm thức ta, ta đã đặt để những quy ước
sống và không muốn thay đổi. Ta muốn thương yêu nhau thì mãi mãi phải được ở
bên nhau. Đã ghét nhau rồi thì quyết phải cự tuyệt không muốn chạm mặt. Ta
không được già. Người thân ta không được chết. Ta cầu ước cái gì thì cái đó
phải được thành tựu. Mà làm gì có sự đặt để của thế giới cực lạc như vậy trong
cuộc đời này với tâm thức này. Ngọc Hoàng Thượng Đế e rằng cũng không hưởng
được đời sống như vậy. Ước muốn một đời sống như vậy thì chẳng biết "thiểu
dục tri túc" chút nào cả. Và nghĩ như vậy là đi ngược lại với hiện hữu của
cuộc đời. Những thứ bị vô thường chi phối mà chúng ta cứ cho rằng nó là thường.
Những gì nhờ nhân duyên kết hợp hình thành thì cũng sẽ vì nhân duyên mà tan rã,
tức là vô ngã, vậy mà ta cứ đinh ninh hay khư khư cho rằng nó có một cái ngã
bất biến. Đó chính là nguyên nhân của khổ đau, và đó chính là điều chúng ta
phải quán chiếu cho thật sâu sắc. Quán chiếu là việc làm hết sức quan trọng để
cho ta nhìn thấy sự thật, là việc làm cần thời gian, cần có một sự chú tâm nhất
định. Rồi gút thắt sẽ được mở ra, và người quán chiếu sẽ nhìn thấy những thứ
xưa nay chưa từng thấy dù điều đó luôn hiện hữu, sẽ dựng lại những gì bị chúng
ta đốn ngã, sẽ mở ra những tâm thức khoáng đạt đầy hiểu biết mà lâu nay do sai
lầm ta đã đóng kín cánh cửa sự thật đó. "Cửa bất tử sẽ mở ra cho những
ngời nào đi đến", Thế Tôn đã từng tuyên bố như vậy.
Đi tu rồi, người tôi nhớ
thương và lo lắng nhất là mẹ. Mẹ tôi là một người mẹ Việt Nam , một người đã hy
sinh, đã tận tụy với đời sống. Mẹ đã sống vì ba, vì những đứa con. Mẹ lấy đó
làm đời sống cho mẹ. Mẹ lấy đó làm hành phúc hay nỗi buồn suốt cuộc đời mẹ. Mẹ
hóa thân trọn vẹn trong cuộc đời của ba, của các con mẹ. Trong mẹ có những tố
chất điềm tĩnh nhưng cũng chứa nhiều những tâm thức lăng xăng bận rộn với công
việc. Mẹ luôn ngủ sau và dậy trước. Ở chùa rồi, mà lâu lâu tôi cứ lo lắng cho
bệnh tình của mẹ, cứ hỏi lòng không biết mẹ có được sống bình yên hạnh phúc hay
không. Và nỗi sợ lớn nhất tôi nhận diện ra, là tôi sợ mẹ tôi chết. Nỗi sợ ấy có
khi chạy thẳng cả vào trong giấc ngủ, khiến tôi hốt hoảng giật mình sau mỗi cơn
mộng mị. Lội sâu vào lời dạy đức Phật, dần dần tôi thấy rõ hơn, có tâm lo lắng
ấy cũng tốt, nhưng mà chưa đủ. Tôi lo cho mẹ tôi, mà trong thời gian ngồi lo
lắng đó, có biết bao nhiêu bà mẹ trên đất nước Việt Nam , bao nhiêu bà mẹ trên
cuộc đời đã nằm sâu trong lòng đất lạnh, tại sao ta không hề thấy có sự quan
tâm nào? Hay tại vì tôi nghĩ họ không phải là mẹ của tôi, mà chỉ có một người
mẹ của tôi mới là mẹ của tôi? Nghĩ như vậy thì tôi không hiểu chút gì về vô
thường và vô ngã hết trơn.
Sự tác ý của tôi rộng lớn
hơn từ đó. Mỗi lần tụng kinh, ngồi thiền, mỗi lần chia sẻ Phật pháp với một
nhóm người nào, tôi đều tác ý tôi đang làm việc đó cho mẹ cho ba, cho hết thảy
ba mẹ trên thế gian này, tại vì một kiếp nào xa xôi, tôi cũng từng là con cháu
của họ. Đó là điều tôi tiếp nhận và tin tưởng chắc chắn được từ con mắt tuệ của
đức Phật. Như thế thì khi mẹ còn sống, tôi sẽ sống hết lòng. Và rồi sau này dù
mẹ có ra đi, tôi cũng không quá khổ đau hay hối hận vì đã không làm được gì báo
đáp thâm ân nhũ bổ, tỗi đã sống hết lòng khi mẹ còn có mặt. Từ đó, một sự thật
kỳ diệu nữa lại xuất hiện, tôi nhận ra mẹ, ba, người thân của tôi không bao giờ
chết, họ sẽ tiếp tục sống dưới những hình thức khác trong dòng chảy vô thường
này. Chúng ta thấy vô thường rồi, thì mỗi phút chúng ta sẽ sống thật ý nghĩa và
có mặt với đời sống hết lòng hơn. Vì vô thường, nên biết đâu khi thức dậy, ta
sẽ không còn có cơ hội nói lời cảm ơn, nói lời xin lỗi, nói lời yêu thương hay
nhìn họ trọn trái tim được thêm một lần nào nữa. Chúng ta sẽ ý thức giá trị của
hiện tại và an trú với hiện tại nhiều hơn, không còn dong ruổi nhiều cùng quá
khứ và hão huyền chạy nhảy theo những sóng nắng mơ hồ tương lai. Hiện tại mới
là sự sống.
Thấy vô thường, vô ngã
như vậy chẳng những không mất mác gì mà còn cho ta cơ hội sống lớn lao và tròn
đầy hơn nhiều. Ai bảo đó là cái nhìn và cách sống bi quan, yếm thế, rơi vào vực
thẳm của tuyệt vọng được nữa.
Cái thuở ấu thơ ấy, tôi
hay nghêu ngao hát "quê hương mỗi người chỉ một, như là chỉ một mẹ
thôi" bằng cái cách đủ nghĩa của hăng say và tỏ ra thích thú lắm.
Ôi, quan niệm như vậy thì
đâu có đúng. Cái thấy đó được tưới tẩm trong mỗi cá nhân thì dễ đưa tới chia
rẽ, chiến tranh và đánh nhau lắm, đời sống tự nhiên sẽ nghèo nàn và mất hẳn
tính vô lượng của nó. Tại sao ông tác giả nào đó lại không phát triển cái thấy
của mình rộng ra mà viết để cổ động mọi người hát "quê hương là toàn vũ
trụ, như mẹ có mặt mọi nơi", thế mới là cái nhìn tuệ giác và ta mới tiếp
nhận hết gia tài giàu có mà ta có quyền được thừa kế và sử dụng chứ. Quê hương
rõ ràng là chùm khế ngọt, là con diều bay giữa trời tự do, là con đường đi học
nở đầy hoa dại, là những đêm trăng bình đẳng chiếu soi mà không thuộc về riêng
ai... Mà quê hương cũng rõ ràng là toàn thể vũ trụ. Vũ trụ bao la đã góp tay
tác thành, đã cùng nhau hội tụ huyết lực sinh ra cái khế cây cau, làm nên con
đường cánh diều, tạo dựng con ong con bướm, bụi tre chiếc cầu. Quê hương đâu
của riêng ai hay đâu là duy nhất.
"Cái này có mặt vì
cái kia có mặt, cái này diệt vì cái kia diệt" nằm trong ý nghĩa đó, rất
thật, rất rõ ràng chứ không phải chỉ là lời xác quyết suông mà chưa được thực
chứng qua quá trình tu tập của bậc giác ngộ. Đó không hề là mĩ từ, không hề lạm
ngôn, không hề ảo tưởng. Đó là sự thật, là điều hoàn toàn ta có thể cảm nhận
được và sống với. Lớn lên, những lời dạy đầy kinh nghiệm yêu thương và trí tuệ
của đức Phật đã cho tôi cái nhìn rộng rãi đó.
Núi Thứu bao giờ vẫn còn
Phật điềm tọa thuyết pháp. Đức Phật cũng từng ghé thăm núi đồi Kim Sơn. Vô
thường và Vô ngã và Niết Bàn và cái nhìn sâu sắc ba pháp ấn đã chứng minh cho sự
thật đó.
Đồi Kim Sơn, 02-07-2011
0 nhận xét:
Đăng nhận xét