Quyển sách này gióng lên những lời kêu gọi thống thiết:
“Chết” là việc lớn nhất của đời người, chỉ có y cứ vào Phật pháp mới có được sự
nhận thức chính xác mới có được sự lợi ích triệt để đối với người chết.
Con người vốn do tâm thức và thể xác hòa hợp thành, tâm thức
không biến hoại nhưng thể xác thì biến hoại tuân theo quy luật sanh lão bệnh
tử. Mỗi khi tâm thức rời khỏi thể xác hơi thở không còn hơi ấm tiêu tan đời
sống chấm dứt gọi là chết, sự thật thể xác có chết nhưng tâm thức thì không
mất.
Khi hơi thở người bệnh không còn nữa tâm thức không phải lúc
đó đã rời khỏi thể xác. Vậy ngay khi người bệnh chấm dứt hơi thở tâm thức bao
lâu thì rời khỏi thể xác? Nhanh lắm là ngay sau khi mới chết chậm lắm là một hai
ngày. Trên thực tế trường hợp nhanh và chậm rất ít xét chung là khoảng từ mười
đến mười hai giờ đồng hồ thần thức sẽ rời khỏi thể xác. Đôi khi người bệnh đã
chấm dứt hơi thở trong khoảng một vài ngày đột nhiên sống lại việc đó do hai
nguyên nhân. Một là thần thức chưa rời khỏi thể xác hai là thần thức đã rời
nhưng nhập trở lại.
Căn cứ trên thực tế đã xảy ra, vì thế chúng ta đối với việc
lớn lâm chung ngàn vạn lần nên thận trọng. Người đời nhận thức sai lầm cho rằng
người bệnh sau khi hơi thở chấm dứt là chết, ngay đó bèn khám nghiệm tử thi va
chạm khiến người bệnh phải chịu vô vàn sự thống khổ. Nhân đây, quyển sách nhỏ
này sẽ cung cấp các kiến thức thông thường khi lâm chung, để kêu gọi mọi người
trong xã hội đối với việc trước và sau khi chết cần nên để ý và làm cho đúng
pháp.
Thể xác thì biến hoại nhưng tâm thức không bao giờ mất. Gia
đình nên chú trọng tâm thức của người chết, cần làm cách nào để thần thức không
thống khổ; cần làm cách nào để có sự an tịnh; thần thức có những nhu cầu gì;
cần tiếp dẫn thần thức đi về thế giới nào; cần làm việc gì để thần thức có lợi
và tránh những việc gì gây tổn hại cho thần thức... Các vấn đề nêu trên là vô
cùng quan trọng.
Người đời tuy có kiền thức sâu rộng nhưng đối với việc lớn
lâm chung thì hoàn toàn không biết. Họ thường bảo: “Con người khi hơi thở chấm
dứt là chết, chết là hết là đoạn diệt đó là lẽ tự nhiên”. Họ chỉ lo làm cách
nào để tang ma to lớn, mọi người khen ngợi mà chẳng quan tâm đến sự lợi ích của
người chết. những nhận thức của việc làm nông nỗi này khiến người chết vô cùng
bi ai thống khổ, việc làm như thế không phải là người có trí tuệ.
Họ không biết hơi thở tuy không còn nhưng thần thức người
chết vẫn chưa rời thể xác, người chết không chỉ còn ở trạng thái hấp hối có cảm
giác mà cảm thọ của họ lúc này tột cùng đau đớn như rùa bị lột mai. Do đó,
trước khi thần thức chưa rời thể xác người bà con cần đặc biệt quan tâm, nên
đem những lời Phật pháp khai thị, với âm thanh trong trẻo dịu dàng để an ủi
người bệnh khiến cho tâm họ được an lạc và có chỗ quy hướng.
Cho nên khi người bệnh vừa mới chấm dứt hơi thở, bà con
không được di chuyển thân thể không được bi ai khóc lóc khiến thần thức người
bệnh phải bi lụy. Đồng thời phải nên để tâm suy nghĩ giờ này thần thức đang ở
đâu? Cần biết thần thức sẽ tùy theo nghiệp lực thiện ác để cảm thọ cảnh giới
khổ đau hay hạnh phúc nào? Cần làm cách nào để tiếp độ thần thức ra khỏi ba cõi
đạt đến sự an vui Niết bàn tịch tịnh? Những việc này người đời hoàn toàn không
hay biết.
Người đời không biết lúc nào thần thức rời khỏi thể xác;
không biết xót thương nỗi thống khổ của người chết; không biết tác dụng của
việc cứu độ; không biết tẩm liệm đúng cách thức... Nói cách khác, đối với nguời
chết việc cần làm thì họ không làm việc không nên làm thì họ lại làm, có thể
nói không quá đáng đó là hạng người điên đảo không trí. Đối với vấn đề quan
trọng “Chết” họ quy về thái độ bàng quang không hay biết, đã phụ ơn bà con lại
phụ ơn hiếu đạo, chỉ làm cho xong việc cam tâm biến thành nhận thức sai lầm,
như thế người sống đối với người chết há không phải là quá lạnh lùng hay sao?
Nhân đây, quyển sách này gióng lên những lời kêu gọi thống
thiết: “Chết” là việc lớn nhất của đời người, chỉ có y cứ vào Phật pháp mới có
được sự nhận thức chính xác mới có được sự lợi ích triệt để đối với người chết.
Các vị nhân sĩ nếu có chỗ nào hoài nghi nên thân cận các vị pháp sư để thưa
hỏi, không những giải nghi mà còn nâng cao tầm nhận thức làm kiên cố tín tâm.
Sự việc liên quan đối với người chết chúng ta không thận trọng hay sao? Nay tôi
đem các yếu điểm của việc trước và sau khi lâm chung xin biện giải một cách rõ
ràng.
I. Hơi thở tuy chấm dứt nhưng thần thức vẫn chưa rời thể xác
Người bệnh sau khi hơi thở chấm dứt nhưng thần thức vẫn chưa
rời thể xác nên họ vẫn còn tri giác. Phải trải qua một thời gian đến khi toàn
thân lạnh hẳn thần thức rời thể xác ngay đó mới được gọi là chết.
Sau khi chấm dứt hơi thở trước khi thần thức chưa rời thể
xác, thời điểm này tâm thức vô cùng thống khổ. Bởi do cảm thương thân phận đã
chết mà rơi nước mắt; cũng nhân tham luyến thế gian thương yêu vợ con tài sản
mà khó buông bỏ; hoặc nhân tâm nguyện chưa thành đột nhiên cái chết đến mà bi
ai sầu não; hoặc nhân oan ức chưa bày tỏ mà không chịu nhắm mắt, vì thế vào
thời điểm này là thời điểm mà mọi sự bi ai khổ não chồng chất. Nếu thể xác bị
người sống xê dịch hoặc nghe tiếng kêu khóc, há chẳng làm cho thần thức muốn
rời thể xác nhưng không rời được cảm thọ nỗi đau đớn vô vàn. Người sống nỡ nào
lại nhẫn tâm như thế để làm hại người chết hay sao?
Người đời phần nhiều không hay biết cho rằng con người khi
hơi thở chấm dứt là chết, do sự ngộ nhận này mà kết thành đại họa. Cho nên với
những việc làm có hại bà con và con cháu hiếu thuận không thể không biết để
tránh.
Lấy việc xê dịch thể xác người chết mà nói, chỉ cần người
bệnh vừa mới chấm dứt hơi thở ngay đó bi ai khóc lóc hoặc sờ mó cơ thể mà kêu
gào, hoặc tự ý chuyển đổi thế nằm, hoặc trước khi thân thể chưa lạnh hẳn mà vội
tắm rửa thay quần áo, hoặc tiêm thuốc hồi dương, hoặc tiêm thuốc đề phòng thân
sình thúi, hoặc mới chấm dứt hơi thở đã tống vào nhà xác, hoặc ngay trong ngày
đã tẩm liệm, hoặc mới hai ba ngày đã hỏa táng ...Tất cả những việc làm tàn nhẫn
này, vì thần thức chưa rời thể xác nên người chết vẫn còn cảm giác vẫn phải cảm
thọ tận cùng của sự thống khổ. Người sống làm các việc như thế tác hại đối với
người chết không nhỏ khiến họ lâm chung thống khổ đọa lạc, thế là từ chỗ thương
yêu mà trở thành tàn hại như thế không đáng sợ hay sao.
Không biết rằng lúc thần thức chưa rời thể xác, người chết
vẫn có sự thống khổ đồng như người sống. Người sống còn có thể kêu la cầu cứu
kháng cự lại; còn người chết lúc này tuy vô cùng đau khổ nhưng không có cách
nào kêu cứu kháng cự khiến họ nổi tâm sân hận. Người thế gian không hiểu một số
vấn đề bình thường khi lâm chung khiến dẫn đến một số hậu quả bi thảm như thế
há không đau đớn lắm sao. Người bệnh do sự thống khổ nên sanh tâm sân hận khiến
thần thức đọa lạc trong ác thú, thế mà kẻ làm con hiền cháu thảo vẫn cứ dửng
dưng không hay không biết.
Nhân đây tôi xin kêu gọi mọi người, với người bệnh sau khi
mới chấm dứt hơi thở trước khi thần thức chưa rời thể xác, trong khoảng thời
gian từ mười đến mười hai giờ đồng hồ, phòng người bệnh nên duy trì sự yên lặng
không có các việc chuyển động như trên đã nói, để bảo hộ thần thức người chết
được yên tịnh và an ổn. Tư thế người bệnh nằm nên để tự nhiên không được xê
dịch.
Sau khi toàn thân lạnh hẳn, chúng ta lấy vải cũ nhúng vào
nước nóng rồi áp vào các bộ phận cong rút của cơ thể khiến cho mềm mại. Còn bằng
trong khoảng thời gian trước mười đến mười hai giờ đồng hồ, chúng ta không nên
dùng tay thăm dò hơi nóng không được để mèo chó va chạm, trong phòng bệnh không
được nói chuyện tạp hoặc khóc lóc. Cần vận dụng trong khoảng thời gian này có
biện pháp cứu độ hướng dẫn thần thức người bệnh hướng đến cảnh giới an lạc làm
cho họ được vãng sanh Tịnh độ hưởng thọ mọi điều vui, đây là trách nhiệm của
người bà con cũng là việc làm đúng hiếu đạo của con cái đối với người quá cố.
II. Thần thức lúc nào mới rời thể xác
Thần thức rời thể xác nhanh hay chậm cùng với nghiệp lực con
người tạo ra có mối quan hệ trực tiếp. Nói một cách đơn giản, người nghiệp lực
cực thiện hay cực ác cho đến người được vãng sanh thì thần thức rời thể xác rất
nhanh. Còn hạng phổ thông bình thường việc thần thức rời thể xác chậm hơn. Ví
như người khi sống có tâm hiếu dưỡng cha mẹ nhân từ bất sát giúp đời cứu
người...bởi nghiệp nhẹ nên khi chấm dứt hơi thở, thần thức trực tiếp sanh về
cõi lành (Nhân đạo, Thiên đạo). Lại hạng người khi sống nham hiểm độc ác ngỗ
nghịch bất hiếu sát sanh hại vật... do vì nghiệp nặng nên khi mới chấm dứt hơi
thở, thần thức trực tiếp sanh về cõi ác (Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh).
Còn người sanh tiền phát tâm niệm Phật lâm chung mong cầu từ
lực Phật tiếp độ; hoặc tu thiền định chứng Vô sanh pháp nhẫn đã ra khỏi Tam
giới. Hạng người đó sẽ biết trước giờ chết, thân không bệnh khổ tâm không phiền
não vui vẻ niệm Phật hoặc nhập định mà rời thể xác, trực tiếp vãng sanh Tịnh độ
hay chứng đắc Thánh quả hưởng thọ vô lượng điều vui. Còn lại hạng người phổ
thông bình thường nghiệp lực không thuộc cực thiện hay cực ác, thần thức rời
thể xác sẽ chậm hơn. Thời gian nhanh và chậm có khác nhau, do đó ước định từ
khoảng mười đến mười hai giờ đồng hồ sau khi người bệnh chấm dứt hơi thở là
vậy.
Sau khi thần thức đã rời thể xác trước khi chưa thọ thân quả
báo đời sau, trong khoảng thời gian này thần thức sẽ thọ thân trung ấm. Có
người sau khi thọ thân trung ấm chỉ qua một hai ngày thì thọ thân quả báo đời
sau có người một hai tuần thọ thân quả báo đời sau, nhưng tối đa là bảy tuần
quyết định sẽ có chỗ cho thần thức thọ sanh.
Nói chính xác, chỗ thần thức rời thể xác là phần lạnh sau
cùng của cơ thể, nhưng tối kỵ việc dùng tay thăm dò hơi nóng trên thân thể
người chết. Vì thế, từ khoảng mười đến mười hai giờ đồng hồ là có liên hệ tình
hình như bài trên đã nói. Nhưng nên xem thời tiết nóng hay lạnh hoặc địa phương
có thích nghi hay không thích nghi, rồi ước lượng khả năng mà đem thời gian
thăm dò hơi nóng người chết co lại hoặc kéo dài một chút đều có thể được.
III. Thần thức rời thể xác đi về đâu
Không gian không ngằn mé gọi là vũ, thời gian không cùng tận
gọi là trụ. Ở trong khoảng vô cùng vô tận của vũ trụ, tất cả thần thức đều có
sự tiếp xúc với các cảnh giới mà cảnh giới đó cũng vô lượng vô biên. Nói khái
quát, cảnh giới Thánh nhân có bốn cảnh giới phàm phu có sáu. Tâm thể của mười
cảnh giới này vốn đồng, nhưng vì sự mê ngộ nhiễm tịnh của mỗi loài bất đồng mà
hình thành phàm Thánh, giải thoát hay trói buộc ngàn muôn sai biệt. Đây là nói
việc làm Thánh hay phàm, hoặc hưởng thọ khoái lạc giải thoát tự tại, hoặc lãnh
thọ thống khổ nghiệp chướng trói buộc đều do tự tâm cảm thành tự tâm là chủ tể.
Nhưng nay là thời Mạt pháp nếu hoàn toàn nương vào tự lực mà
mong cầu chứng ngộ, vạn người tu khó được một hai người. Chúng sanh thời nay
phần nhiều si ám mê nhiễm hư vọng điên đảo nghiệp trọng phước khinh chướng thâm
huệ thiểm, như thế thì không mãi mãi trôi lăn trong Tam giới hay sao?
Đức Thích Ca Thế tôn nhân đó xót thương nên đặc biệt mở ra
pháp phương tiện, chỉ bày pháp môn niệm Phật rất đơn giản mà dễ thành tựu. Ngài
dạy rằng ở thế giới Tây phương có đức Phật A Di Đà, vị Phật đó nguyện lực rộng
lớn, không luận là người thượng trí hay kẻ hạ ngu người hiền lương hay kẻ độc
ác, chỉ cần hồi đầu hướng thiện phát tâm tín sâu nguyện thiết thành khẩn xưng
niệm Nam mô A Di Đà Phật một lòng cầu nguyện vãng sanh thế giới Cực lạc, khi
mạng chung Phật và Thánh chúng sẽ đến tiếp dẫn. Người đó ở trong khoảng một
niệm liền được vãng sanh, vĩnh viễn thoát ly nỗi thống khổ luân hồi mãi mãi thọ
hưởng sự an vui thắng diệu.
Nhân đây, tôi xin diễn bày pháp cứu độ trước và sau khi lâm
chung ứng dụng vào thời điểm nguy ách này. Ngoài việc không được xê dịch cơ thể
không bi ai khóc lóc ra bà con và bạn bè ở trong phòng bệnh nên giữ yên lặng để
tâm và cảnh an tịnh, nên vì người bệnh mà đồng thanh xưng niệm Phật hiệu A Di
Đà để dẫn dắt thần thức người bệnh nghe danh hiệu Phật, sanh lòng hoan hỷ,
trong tâm duyên theo tiếng niệm Phật, tâm cảnh người bệnh sẽ khai sáng có cảm giác
an toàn một lòng cầu sanh nước Phật, quyết định được vãng sanh thế giới Tây
phương Cực lạc.
IV. Người bệnh cần nên có nhận thức
Tất cả các pháp trong thế gian đều do nhân duyên mà sanh
huyễn hóa mà có. Bởi do nhân duyên hư vọng hòa hợp mà có sanh, nhân duyên hư
vọng biệt ly mà có diệt. Duyên tụ thì huyễn có duyên tán thì huyễn không. Cho
nên tất cả các pháp từ xưa đến nay chẳng khác nào như bóng trên mặt nước, cảnh
hiện trong gương, lửa xẹt điện chớp, tợ như nhậm mắt thấy hoa đốm giữa hư
không. Thân tứ đại này vốn bọt bèo huyễn chất không bền, già suy bệnh chết khổ
không vô thường. Đó là quy luật tất nhiên của sanh diệt biến dị đổi dời trong
sát na không dừng. Cho nên cuộc đời con người rốt cùng cũng có một điểm cuối,
thế gian chỉ là quán trọ ven đường ta chỉ là kẻ lữ khách tạm nghỉ chân đôi chút
mà thôi.
Đời người vài mươi năm, không những đã ở trong vòng danh lợi
vật dục, được mất hơn thua, hội hợp chia ly, oán tắng ái biệt, thiên tai hỏa
hoạn, sanh kế bức bách, phiền muộn lo toan, thù địch oán đối mà còn đời đời
kiếp kiếp bỏ thân này lại thọ thân khác, nhân quả nối tiếp kiếp mãi xoay vần
không thoát ngoài tứ sanh, trầm luân ngũ thú, trong cảnh huyễn sống huyễn chết
vạn khổ chồng chất, thân tâm huyễn thọ sự thống khổ như thế nhưng chưa bao giờ
có sự tỉnh ngộ.
Nên nghĩ tất cả các pháp trong thế gian đều là sanh diệt vô
thường, đều là mộng huyễn không thực. Lại nghĩ nỗi thống khổ của ba ác đạo dễ
vào mà khó ra, cõi người thì trược ác, phước trời thì dễ hết nhưng nghiệp nhân
mỗi khi đã tạo khó mà tránh khỏi. Giả sử bị trầm luân trong ba cõi thì uổng thọ
sanh tử luân hồi không có hạn kỳ. Vì thế chúng ta nên tinh tấn nhanh chóng hồi
đầu, đem tất cả việc nhà thảy đều buông bỏ, đối với các pháp đều không tham
luyến mà một lòng quy hướng về với Phật A Di Đà cầu nguyện vãng sanh thế giới
Cực lạc.
Mỗi niệm mỗi niệm đều kiên cố đến khi mạng chung nhất định
sẽ được Phật hiện thân đưa tay tiếp dẫn. Nghĩa là đức A Di Đà Phật cùng với
Thánh chúng đồng đến đón tiếp, trong khoảng khảy móng tay liền được vãng sanh
thế giới Di Đà thanh tịnh. Từ đây siêu phàm nhập Thánh thần thông tự tại thọ
mạng không cùng, ra khỏi Tam giới thoát hẳn sanh tử, đây là hạng người có đại
trí tuệ. Hoặc như mạng sống chưa hết thì nhờ công đức niệm Phật, quyết định
tiêu trừ tội chướng thọ mạng thêm bền.
Nếu thấy bệnh tình của mình mỗi ngày mỗi nặng nên dặn dò phó
thác mọi việc cho người nhà, như có người nào đến thăm đều xin họ vì mình niệm
Phật không nên cùng họ nói chuyện tạp. Công đức niệm Phật là bất khả tư nghì.
Kinh nói: “Niệm một câu A Di Đà có thể tiêu trừ các tội nặng trong nhiều kiếp
sanh tử. Niệm một câu A Di Đà Phật, trên thấu đến trời Hữu đảnh dưới chí đến
ngục Phong luân, chúng sanh nhiều như cõi vi trần thảy đều hưởng thọ sự lợi
ích”. Do đó, công đức niệm Phật có thể siêu thoát quỷ thần có thể cứu độ được
thân trung ấm. Nếu khi bệnh nặng thấy các oan hồn quỷ dữ đến khủng bố, hoặc
biến thành các cảnh ưa thích để dụ dỗ, lúc đó chỉ nên thành khẩn niệm A Di Đà
Phật, tà ma quỷ dữ nghe tiếng niệm Phật có thể siêu thoát hoan hỷ mà đi. Nhân
đây, nhờ niệm Phật mà oán kết được hóa giải nghiệp chướng sớm tiêu trừ, bản
thân rất thuận lợi vãng sanh thế giới Cực lạc.
Người niệm Phật là hoàn toàn nương nhờ vào nguyện lực đại bi
của Phật A Di Đà nhiếp thọ. Vì thế nếu chúng ta một lòng xưng danh hiệu Phật
thì trong ao thất bảo ở Tây phương có hiện ra một đóa hoa sen đề tên họ chúng
ta, ngày kia khi chúng ta mạng chung sẽ thát sanh trong đóa sen đó. Nếu ở Ta bà
này niệm Phật tinh tấn không giải đãi thì hoa sen ở Tây phương phóng ra bốn tia
sắc báu ngày càng thêm rực rỡ. Thế giới Cực lạc sự thanh tịnh thù thắng trang
nghiêm vi diệu, lầu các đều do bảy báu tạo thành, các báu kỳ dị thanh nhã hương
khiết, ao báu nước bát công đức tẩy trừ tâm cấu bẩn, nhạc trời thường trỗi
không đánh tự kêu, khí hậu không nóng không lạnh điều hòa thích nghi, cơm ăn áo
mặc tùy ý hiện bày, chim báu rực rỡ hót ra diệu âm diễn nói lý khổ, không, vô
thường, vô ngã, gió hiu hiu thổi cây báu giăng bày đều diễn nói vô lượng pháp
âm vi diệu, sáu căn thanh tịnh không có các khổ, mọi trần lao cấu nhiễm tự
nhiên tiêu trừ, trí tuệ thâm tiến đạt sâu thực tướng, thần thông tự tại mạng
sống không cùng không còn các khổ chỉ hưởng thọ các điều vui .
Hạng người sau khi chết chỉ mong bà con vì mình làm Phật sự
để siêu thoát, hoặc làm đám lớn cho dễ xem mà không biết khi sống nương vào bản
thân tu học để cầu giải thoát chứng Thánh đạo là dễ, còn sau khi chết nương vào
bà con làm công đức để cầu siêu thoát là khó. Giả sử bà con, con cái có tâm chí
thành cung kính mời các vị cao Tăng đến làm Phật sự, lễ bái sám hối cầu Phật
gia bị tất cả công đức đó trong bảy phần người chết chỉ hưởng được một phần,
sáu phần công đức còn lại là thuộc về người sống cho đến thuộc về người xuất
gia làm Phật sự.
Vì thế trước khi lâm chung, người bệnh nên vì bản thân mình
mà làm tất cả mọi công đức, lúc đó bản thân sanh tâm hoan hỷ, tâm chí thành,
tâm sám hối, tâm niệm Phật, bản thân đã biết rõ nương vào sức gia bị sẽ đạt
được sự lợi ích rất lớn, rất dễ cứu độ. Tốt nhất là khi thân thể còn khỏe mạnh
cố gắng phát tâm tu phước huệ, tụng kinh lễ sám, trai giới niệm Phật. Hiểu rõ
được lẽ thật của vũ trụ nhân sanh, phát nguyện lớn lập chí lớn, tu Thánh đạo
thành Thánh quả. Nhưng khi lâm chung có người khác trợ niệm lẽ đương nhiên là
vô cùng cần thiết.
Nên mở máy niệm Phật, người bệnh phải giờ giờ phút phút lắng
nghe niệm theo hoặc lắng nghe niệm thầm. Nếu tai người bệnh thường huân tập
tiếng niệm Phật, khí lực sẽ tỉnh lại có thể tịnh hóa thân tâm tăng trưởng duyên
lành, trưởng dưỡng Thánh thai, trong ruộng tám thức thường gieo giống đạo. Lâm
chung lại được người khác trợ niệm trợ thành việc lớn vãng sanh, thực là trong
khi bệnh không thể thiếu người bạn đồng tu tịnh nghiệp.
V. Người bà con cần nên nhận thức
Nếu người bệnh bệnh tình quá nặng khó lành thuốc thang vô
hiệu, gia đình nên mời các vị thiện tri thức đến khai thị cho người bệnh. Thiện
tri thức nên đến trước người bệnh mà nói: “Cuộc đời vốn là khổ, không, vô
thường, vô ngã, chỉ có thế giới Tây phương Cực lạc là cực kỳ trang nghiêm thanh
tịnh. Con người dù giàu sang phú quý nhưng trong nháy mắt đã thành không. Cõi
Tây phương thì sự khoái lạc vô cùng. Bà con nay sẽ vì ông mà đối trước Tam bảo
lễ Phật sám hối, tụng kinh niệm Phật, bố thí phóng sanh ngõ hầu tăng trưởng
phước đức cho ông”.
Giả sử người bệnh vui mừng phát tâm niệm Phật cầu vãng sanh,
cảm giác có sự an toàn tâm có chỗ quy hướng thì khuyến khích họ buông xả tất cả
chuyên tâm nghe theo tiếng niệm Phật của người trợ niệm, hoặc chuyên tâm nghe
theo Phật hiệu. Tâm người bệnh lắng nghe tiếng niệm Phật phải như con thơ nhớ
mẹ một lòng quy hướng về Phật A Di Đà, lấy tín sâu nguyện thiết thành khẩn niệm
Phật làm tư lương để cầu vãng sanh thế giới Cực lạc. Người bà con lại nên chí
thành khẩn thiết vì người bệnh mà niệm Phật trợ niệm, cầu Phật lực gia hộ người
bệnh nếu mạng sống chưa hết thì bệnh tình thuyên giảm tiêu trừ tật bệnh thọ
mạng thêm dài, còn bằng mạng sống đã hết thì nhờ sức Phật tiếp dẫn sớm được
vãng sanh. Nếu người bệnh do nghiệp chướng phát hiện mà sanh tâm chán ghét
tiếng niệm Phật, lúc đó người bà con nên tụng vài ba bộ kinh Địa tạng, hoặc
niệm danh hiệu Nam mô đại nguyện Địa tạng vương Bồ tát thì người bệnh có thể
nghiệp chướng tiêu trừ sanh lòng ưa thích niệm Phật.
Người bà con không nên ở trước mặt người bệnh có nét ưu sầu
thảm não để tránh người bệnh sanh khởi tình cảm luyến ái. Âm điệu niệm Phật
không nên xen lẫn bi ai để tránh người bệnh dẫn khởi tâm sầu thương mà mất
chánh niệm. Bà con nhất định không được khóc lóc chỉ là tăng thêm tình ái trói
buộc phiền não thống khổ, thậm chí làm cho người bệnh bực mình mà sanh tâm sân
hận do tâm sân hận mà đọa ác đạo, như thế há chẳng làm sai lạc việc lớn vãng
sanh của người bệnh hay sao.
Người bệnh khi sắp lâm chung bà con nếu có ăn thịt uống rượu
không nên để cho người bệnh thấy, nếu không người bệnh dễ mất chánh niệm sẽ đọa
vào Tam đồ ác đạo.
Nếu người bệnh hơi thở đã chấm dứt, do vì thần thức chưa lìa
thể xác nên lúc đó cơ thể người chết vẫn còn cảm giác, các vị lương y, người
thăm viếng cần có thái độ cẩn thận nên nghe theo lời yêu cầu của gia đình.
Trong thời gian mười đến mười hai giờ đồng hồ cần giữ sự yên lặng, đồng thời
nên cung cấp khí lạnh hoặc nước đá để khí hậu phòng bệnh được mát mẽ. Lúc này
cơ thể người bệnh không được di chuyển, không được đụng chạm các vật trong
phong. Đến như tư thế người chết nên để nằm tự nhiên sau đó dùng vải cũ nhúng
nước nóng áp vào tay chân người chết thì cơ thể có thể mềm mại như khi sống.
Phòng bệnh phải tuyệt đối yên lặng không được cười giỡn nói
chuyện tạp, nếu trước khi người bệnh chấm dứt hơi thở chưa kịp mời thiện tri
thức đến khai thị thì lúc này mời ngay vị thiện tri thức đến bên tai người chết
lớn tiếng khai thị (nội dung khai thị như đoạn trước). Tâm người chết còn có sự
hiểu biết nhờ khai thị khiến họ có chỗ quy hướng tâm có nơi nương tựa. Bà con
và bạn bè nên chia ban luân phiên niệm Phật, trước niệm đủ sáu chữ Hồng danh
khoảng mười phút sau đó chuyển sang niệm bốn chữ Hồng danh “A Di Đà Phật” mỗi
câu mỗi chữ phải rõ ràng phân minh.
Tốt nhất là mọi người nên hòa theo tiếng niệm Phật trong máy
của pháp sư, trong tâm liền nghĩ tưởng cầu nguyện Phật A Di Đà từ bi phóng
quang tiếp dẫn. Tiếng niệm Phật không được gián đoạn khiến cho thần thức người
bệnh nghe được câu Phật hiệu liên tục rõ ràng, mới có thể sanh tâm hoan hỷ cảm
ứng được nguyện lực của Phật, mà theo Phật vãng sanh thế giới Cực lạc. Có điều
khi trợ niệm trong phòng bệnh nên tránh làm phiền nhiễu đến những người bệnh
khác.
Một niệm sau cùng khi lâm chung là thời điểm quyết định cho
việc siêu thăng hay đọa lạc. Một niệm sau cùng nếu là niệm lành thì sanh về
cảnh giới nhân thiên, một niệm sau cùng nếu là niệm ác thì đọa lạc vào cảnh
giới Tam đồ, một niệm sau cùng nếu là niệm Phật thì vãng sanh về cảnh giới Tây
phương. Một lòng niệm Phật là tâm lực, nguyện lực tiếp độ chúng sanh là Phật
lực, sự cảm ứng là pháp lực. Ba lực bất khả tư nghì này dung hợp vào trong một
câu Hồng danh, Phật A Di Đà sẽ tự nhiên trong tâm niệm Phật mà hiện thân tiếp
dẫn, cho nên nếu tâm niệm sau cùng khi lâm chung là niệm Phật, người đó liền
theo Phật vãng sanh về thế giới Cực lạc. Nhân đây, mục đích của bà con và bạn
bè trợ niệm niệm Phật là hy vọng một niệm sau cùng của người bệnh là niệm Phật,
theo Phật vãng sanh. Vì thế giờ phút lâm chung chúng ta trợ duyên người bệnh
niệm Phật tức có sự diệu dụng thù thắng vô cùng.
Sau khi người bệnh chấm dứt hơi thở từ mười đến mười hai giờ
đồng hồ, không luận là có vãng sanh hay không người trợ niệm đều nên luân phiên
tiếp tục niệm Phật. Nếu thần thức người chết đã vãng sanh thì nhờ công đức niệm
Phật có thể tăng cao phẩm vị. Nếu người chết do mất chánh niệm không được vãng
sanh thì thần thức người chết ở trong khoảng thời gian bảy ngày, hoặc chậm lắm
bảy tuần nhờ công đức trợ niệm mà càng mau siêu thoát. Bởi vì thân trung ấm
người chết vốn phiêu phiêu không định khổ sở trăm bề không nơi nương tựa. Trong
thời gian sau khi chết đến bảy tuần, thân trung ấm ở trong mỗi niệm mỗi niệm
luôn mong ngóng người bà con cốt nhục vì mình mà tạo phước làm công đức để cứu
bạt khổ nạn. Vì vậy lúc này người bà con, một mặt nên liên tục thay ban niệm
Phật khiến thân trung ấm nghe được tiếng niệm Phật mà được siêu thoát, giống
như kẻ đói khát mà được uống nước cam lồ; một mặt cung thỉnh các bậc cao Tăng
tụng kinh niệm Phật để cầu nguyện thần thức người chết mau được siêu thoát.
Người bà con nên vì vong linh mà rộng tu phước huệ hồi hướng cho họ được tiêu
trừ nghiệp chướng sớm được vãng sanh Tịnh độ.
Nếu người chết khi sanh tiền chưa từng biết Phật pháp, hoặc
căn bản vốn không tin Phật pháp nhưng vì thân trung ấm hiện đang rơi vào cảnh
khốn khổ nên họ rất mong ngóng được cứu độ. Do đó trong bảy tuần thất tiến vong
là thời gian có thể chuyển hóa tâm thức mê lầm của họ. Ở trong thời gian quá độ
nghiệp báo một đời chưa rõ ràng này người bà con nên vì người chết mà làm các
công đức, vận dụng tâm chí thành tha thiết hồi hướng công đức cho người chết.
Mục đích là chuyển hóa định nghiệp đọa lạc Tam đồ ác đạo của họ thành nhân tố
vãng sanh Tịnh độ vĩnh viễn hưởng thọ mọi sự an lạc.
Sau khi mạng chung người bà con nên ở trong thời gian bảy
tuần vì người chết mà tu tạo các công đức, bố thí phóng sanh cứu giúp kẻ nghèo
đói, cúng dường Tam bảo lễ bái sám hối tụng kinh niệm Phật, cầu Phật gia bị
khiến người chết xa lìa nghiệp chướng vãng sanh Tịnh độ. Bà con và con cái nên
lấy sự hiếu thuận sâu nặng và công đức chí thành tha thiết để niệm Phật, như
thế hai bên kẻ sống người chết mới có sự cảm ứng mới có thể làm cho người chết
cảm được công đức cứu độ.
Người chết thăng trầm trong khổ đau hay hạnh phúc trách
nhiệm đó hoàn toàn tùy thuộc vào bà con. Tốt nhất là người bà con nên tránh đi
tất cả những việc làm không có ý nghĩa mà chuyển thành những công đức cứu giúp
kẻ nghéo khó... Vì thế không nên tẩm liệm những đồ quý giá, không cần phát tang
to làm đám lớn, không nên tụ tập ăn uống linh đình, không nên quá chú trọng đến
hình thức mà điều quan trọng là làm sao cho người chết đạt được sự lợi ích chân
thật.
Trong thời gian bốn mươi chín ngày gia đình nên ăn chay niệm
Phật đồng thời cữ ngũ tân và cấm tuyệt sát sanh. Tang lễ đều nên cúng chay dọn
chay cần làm các công đức để người chết tiêu trừ nghiệp chướng, sớm vãng sanh
về thế giới thanh tịnh của Phật A Di Đà. Như thế người bà con không những đạt
được phước đức vô lượng mà còn có thể cảm được thiện thần thường theo bên mình
ủng hộ.
Cúng tế vong linh nên lấy việc niệm Phật làm chính bà con và
bạn bè đều nên tham gia niệm Phật. Niệm Phật cứu độ người chết công đức rất lớn
rất dễ làm rất tinh tế và có sự lợi ích chân thật. Có điều những người tham gia
niệm Phật nên tránh ăn mặn uống rượu và cữ ngũ tân.
Các chùa Thiện đạo, chùa Pháp vân, Hoa nghiêm Liên xã ở
thành phố Đài bắc đều có cho thỉnh máy niệm Phật, gia đình nên thỉnh về để mọi
người hòa theo tiếng niệm Phật của pháp sư trong máy mà niệm. Muốn cho người
chết đạt được sự lợi ích, gia đình ngoài việc tu tạo các công đức còn nên ngày
đêm chia ban luân phiên niệm Phật, sao cho tiếng niệm Phật không gián đoạn,
mong cầu Phật tiếp dẫn thần thức người chết vãng sanh Cực lạc. Chớ nên đốt giấy
tiền vàng mã và chôn cất các vật dụng của người chết. Làm như thế chính là hy
vọng người chết đọa lạc vào trong cảnh giới Nga quỷ. Gia đình cần nên nhớ điều
này.
VI. Việc làm của nhà mai táng cần có sự cải tiến
Sau khi thần thức rời khỏi thể xác ngoại trừ những người có
nghiệp lực cực ác hay cực thiện, hoặc vãng sanh Thánh đạo đều không phải trải
qua giai đoạn thân trung ấm, còn lại hạng người phổ thông bình thường phần
nhiều đều phải thọ thân trung ấm. Nay tôi xin nói rõ tình hình tại sao có một
số người đã chết rồi mà sống lại, mong các vị để tâm tham khảo.
Thân trung ấm không nơi nương tựa phiêu phiêu không định,
trong giai đoạn sau khi đã chết nhưng chưa có chỗ thọ sanh, hoặc chấp thân này
là ta mà lấy đó làm đối tượng để thọ sanh, nếu tử thi chưa hoại có thể hồi
dương trở lại. Có một số người hốt nhiên chết bất đắc kỳ tử nếu thọ mạng chưa
đáng chết trong thời gian bảy ngày dưới âm ty trả về cũng có thể sống trở lại.
Lại có một số người vì phán đoán sai lầm, lúc người bệnh
đang còn tình trạng hấp hối tâm chưa rời khỏi thể xác, thế mà người sống đối xử
quá đáng với họ hoặc lập tức đem tử thi tống vào nhà xác, hoặc ngay trong ngày
đã vội tẩm liệm, cho đến khi bệnh tình người đó giảm họ khỏe lại nhưng người
khác vì không biết mà cho rằng người này chết rồi sống trở lại. Liên quan đến
vấn đề người chết đi sống lại không những có ghi trong sách vở mà trong các
bệnh viện, nhà mai táng đều có xảy ra cảnh người chết đi sống lại. Vì thế đối
với việc lớn lâm chung chúng ta cần nên đặc biệt thận trọng.
Nhân đây, sau khi người bệnh chấm dứt hơi thở cho đến lúc
tẩm liệm bà con đối với cơ thể người chết phải giờ giờ phút phút để tâm theo
dõi, không luận thần thức đã rời thể xác hay chưa thảy đều nên đối xử như người
đó đang còn ở trạng thái hấp hối. Đối với việc tắm rửa thay quần áo người chết
cho đến quá trình tẩm liệm người bà con cần phải trực tiếp trông xem. Tóm lại,
từ khi người chết chấm dứt hơi thở cho đến lúc tẩm liệm bà con không được rời
khỏi tử thi, nên thực tâm hiếu đạo “Theo hầu ở bên đích thân tẩm liệm”, đây là
đạo lý muôn thuở. Nếu cho rằng nay là xã hội công nghiệp nên bỏ bớt các thủ tục
rườm rà gây trở ngại, nhưng đâu có thể cho rằng xã hội công nghiệp là đem thân
thể cha mẹ chết chưa lạnh mà tống vào nhà xác hay nơi mai táng rồi không đoái
hoài sao?
Các thành phố lớn trên thế giới đều có thiết lập nhà mai
táng, gia đình người chết đối với mọi việc làm của nhà mai táng không nên quá
tin tưởng khiến đang tâm làm cho người chết bị ngược đãi. Một số gia đình chỉ
biết đem tử thi giao cho nhà mai táng, bản thân không quan tâm không để ý đến
việc người chết phải chịu biết bao sự thống khổ. Gia đình và người phúng điếu
chỉ quan tâm đám ma cho rình rang, người chết áo mũ cho chỉnh tề để tẩm liệm...
mà không chú ý đến các việc trước và sau khi đưa tử thi vào quan tài. Vì để hợp
tình hợp lý đúng với sự hiếu đạo, hết thảy quá trình trước khi chết cho đến lúc
tẩm liệm gia đình nên trực tiếp giám sát để tránh cho người chết khỏi phải chịu
sự thống khổ; “Theo hầu ở bên đích thân tẩm liệm” là truyền thống văn hóa đạo đức
của người Trung hoa là hiếu đạo luân thường cố hữu của con người.
Gia đình người chết nếu cho rằng cần nên tuân thủ theo các
việc làm của nhà mai táng gia đình khỏi phải trực tiếp giám sát, đây quả thật
là đại đại bất hiếu là hoàn toàn không phù hợp với tập tục tốt đẹp xưa nay của
người Trung hoa. Nếu như nhà mai táng tự làm mà không có lương tâm nghề nghiệp
đây không phải là tổn hại cho người chết lắm sao? Con cháu hiếu thuận há không
cần cảnh giác mà yên tâm sao? Huống còn chạy theo một số hủ tục, có một vài nhà
mai táng trước khi tẩm liệm họ dùng dao mổ bụng tử thi lấy nguyên phần ruột bên
trong rồi độn mạt cưa vải cũ vào. Hoặc dùng dao kéo mổ tử thi để tiện việc tẩy
trùng. Cách đây mấy năm có một nhà mai táng ở xứ nọ bị gia đình khởi tố vụ
cưỡng dâm xác chết.
Phàm các việc làm tàn bạo thảm hại này căn bản là do gia
đình khi đưa tử thi vào không trực tiếp giám sát mọi việc làm của nhà mai táng.
Còn nhà mai táng như thế chẳng khác nào cảnh Địa ngục ở trần gian? Nếu người
chết thần thức chưa rời thể xác lúc này người chết vẫn còn có cảm giác như đang
hấp hối, việc xử lý tử thi một cách tàn bạo của nhà mai táng há không phải là
lò mổ hay sao? Tóm lại, không luận thần thức đã rời thể xác hay chưa với người
chết chúng ta không được đối xử ngược đãi họ, nên lấy sự hiếu đạo của con người
mà đặc biệt thận trọng việc này. Nhà mai táng ở các địa phương, việc làm của họ
tuy không tận tình nhưng nếu gia đình trực tiếp giám sát quyết họ sẽ làm đúng
quy củ.
Nhà mai táng là nơi mà tất cả mọi người đều phải trải qua, đây
là công việc chung của xã hội; nhằm để tiêu trừ tội ác duy trì và bảo hộ sự
hiếu đạo của con người, do đó mọi người không nên có tâm xem thường. Nhân đây,
nhà mai táng ở các nơi nên mời các vị hiền nhân văn sĩ đóng góp các ý kiến để
cải tiến, ngõ hầu kiến lập nội quy mô phạm cho mình. Tôi xin lược một vài ý
kiến đối với các việc làm của nhà mai táng hiện nay mong các vị lưu tâm xét kỹ.
1. Tất cả mọi sự sinh hoạt cho đến phòng ốc, khuôn viên...
của nhà mai táng chỗ nào còn thiếu thốn, người dân trong địa phương và chính
quyền sở tại cần tạo điều kiện quan tâm giúp đỡ để cảnh quang được sạch đẹp.
2. Đối với người chết tuyệt đối không được làm các việc làm
trái với sự hiếu đạo của con người.
3. Quá trình xử lý người chết của nhà mai táng nên công khai
không được bí mật ngược đãi, gia đình người chết cần phải trực tiếp giám sát
mọi việc làm của nhà mai táng đối với người chết.
4. Nếu gia đình có những ý kiến không đồng tình với việc làm
của nhà mai táng trong quá trình xử lý người chết, nhà mai táng nên nghiên cứu
cải thiện.
5. Nên lấy nguyên tắc phù hợp với sự hiếu đạo của con người
để xử lý.
6. Trước khi tẩm liệm nên mời gia đình đến giám định mọi
việc làm đối với người chết lấy đó làm nguyên tắc. Tại các thành phố lớn nên
thiết lập thêm các nhà mai táng tăng thêm các bàn thờ vong để gia đình tiện
việc cúng tế. Kêu gọi mọi người cần thực hành hiếu đạo “Theo hầu ở bên đích
thân tẩm liệm”. Vì sự tiến bộ của xã hội nhà mai táng cần phải có đầy đủ nội
quy mô phạm.
VII.Sau khi chết bảy ngày mới cử hành hỏa táng
Việc hỏa táng có liên quan đến mùa nóng mùa lạnh không đồng,
mùa lạnh trong bảy ngày xác chết vẫn chưa biến hoại nếu chưa quá bảy ngày mà đã
hỏa táng sẽ xảy ra một số vấn đề; một là sợ thần thức chưa hoàn toàn rời khỏi
thể xác; hai là lỡ có trường hợp người chết rồi hồi dương trở lại. Vì thế với
mùa lạnh nên để sau bảy ngày tốt nhất là sang tuần thứ hai mới cử hành hỏa
táng.
Mùa nóng xác chết rất mau sình thối có thể quyết định sớm
hơn. Một số nơi người chết mới chấm dứt hơi thở hai ba ngày liền cử hành hỏa
táng, đây là việc làm vô cùng nguy hiểm và tàn nhẫn cần phải thận trọng. Người
xưa từng nói: “Từ ba đến bảy ngày có khi thần thức vẫn chưa rời thể xác”, câu
nói này là chỉ một số trường hợp đặc biệt nhưng chúng ta cũng nên lấy đó để
cảnh giác.
VIII. Mọi ý muốn của mình nên dặn dò trước cho gia đình
Người lớn tuổi trong gia đình đừng nên cho rằng bàn luận về
chuyện sống chết là không vui vẻ rồi kiêng kỵ mà không bàn luận, việc liên quan
tới vấn đề trước và sau khi chết rất có sự lợi hại cho bản thân. Chết là vấn đề
lớn mà mọi người không một ai có thể tránh khỏi, con cháu trong gia đình khi
đến tuổi trưởng thành cũng đều phải hiểu rõ vấn đề sống và chết này.
Thời gian chóng qua tuổi thơ nháy mắt đã già yếu nên con
người khi tuổi còn trẻ cần đem bản văn này để mọi người trong gia đình cùng
tham khảo, mọi ý muốn của mình trước và sau khi lâm chung phải dặn dò rõ ràng
với con cháu đó là thượng sách. Đối với một số người trẻ tuổi với việc sống
chết họ không chút để tâm, người lớn nếu không đem những chủ trương của mình
dặn dò trước với con cháu thì đến lúc lâm chung trong tâm tuy còn minh mẫn
nhưng miệng không thể nói được, con cháu nếu xử lý các việc không như ý tâm sẽ
khởi phiền não, thần thức sẽ oan uổng chịu phải những sự khổ nạn.
IX. Nhân tự lực và duyên tha lực
Lâm chung niệm Phật cầu vãng sanh Tịnh độ cần có đầy đủ nhân
tự lực và duyên tha lực. Tự lực là chánh nhân để vãng sanh Tây phương, tha lực
là trợ duyên để vãng sanh Tây phương. Nhân và duyên hòa hợp mới có sự cảm ứng
thành tựu việc lớn vãng sanh.
Xét về phương diện tự lực, người nào khi bình thường có niềm
tin về thế giới Cực lạc tin có Phật A Di Đà, ước nguyện được sanh về thế giới
Cực lạc, ước nguyện được thấy Phật A Di Đà. Một lòng chí thành niệm Phật cầu
sanh về Tịnh độ cầu thấy Phật A Di Đà. Câu câu chữ chữ từ tâm mà phát từ miệng
mà khởi rồi vào trong tai, mỗi niệm mỗi niệm tương tục không có gián đoạn. Âm
điệu hòa nhã nhu nhuyến tiếng niệm Phật khẩn thiết chí thành. Niệm niệm có đủ
tâm mong cầu câu câu đều nguyện vãng sanh Tịnh độ, cầu Phật từ bi nhiếp thọ
mong Phật thương xót duỗi tay cứu độ.
Đức Di Đà thương nhớ chúng sanh chẳng khác nào như mẹ nhớ
con, chúng sanh nào có tâm tín nguyện trì danh nhớ Phật niệm Phật như con nhớ
mẹ, hai đàng có sự thương nhớ sâu nặng không lúc nào ngăn cách tất có sự cảm
ứng lẫn nhau người đó quyết sẽ được Phật nhiếp thọ. Không luận cảnh duyên thuận
nghịch hay khổ vui ngay cảnh đó đều tuyệt hẳn ngoại duyên tâm không theo cảnh
mà chuyển, ở trong mọi lúc mọi nơi đều chuyên cần trì danh niệm Phật thâu nhiếp
cả sáu căn tịnh niệm nối nhau. Lâu ngày công phu sẽ thuần thục, đến khi lâm
chung mới có thể buông bỏ mọi duyên đề khởi câu Phật hiệu. Lâm chung nếu chánh
niệm hiện tiền tức sẽ được Phật tiếp dẫn, như trong khoảng khảy móng tay liền
được vãng sanh về thế giới Cực lạc.
Người bệnh khi lâm chung người khác vì họ mà niệm Phật trợ
niệm, một là có thể trợ giúp người bệnh đề khởi tâm niệm Phật, hai là có thể
trợ giúp người bệnh sám hối nghiệp chướng. Nếu nghiệp chướng của họ tiêu trừ
thì hoa sen báu và Thánh chúng tất cả mọi thắng cảnh Tịnh độ tự nhiên hiện
tiền.
Người nào khi lâm chung có được tâm tín sâu nguyện thiết, có
được tâm khẩn thiết chí thành niệm Phật như bình thường, người đó một niệm sau
cùng là niệm Phật đó là nhân tự lực.
Người nào khi bình thường không có tâm tín sâu nguyện thiết
chí thành niệm Phật, hoặc tuy có tâm tín sâu nguyện thiết chí thành niệm Phật
nhưng công phu chưa được thuần thục, đến lúc lâm chung gặp được thiện tri thức
khai thị mà sanh tâm hoan hỷ, sanh tâm chánh tín phát nguyện cầu sanh, tâm chí
thành niệm Phật đó cũng là nhân tự lực.
Đức A Di Đà thệ nguyện sâu rộng độ khắp các loài chúng sanh,
thế giới Cực lạc thanh tịnh trang nghiêm đó là duyên tha lực.
Thiện tri thức khéo khai thị khiến người bệnh sanh tâm chánh
tín, buông bỏ mọi duyên trần một lòng niệm Phật cầu sanh Tịnh độ. Gia đình và
liên hữu vì người bệnh mà niệm Phật trợ niệm, từ khi chấm dứt hơi thở cho đến
mười hay mười hai giờ đồng hồ, lại không chuyển dịch cơ thể không bi ai khóc
lóc đó cũng là duyên tha lực.
Nếu người nào khi lâm chung nhân tự lực và duyên tha lực cả
hai đều đầy đủ thì sẽ có sự cảm ứng lẫn nhau, người đó nhất định sẽ được Phật
tiếp dẫn, niệm trước vừa lâm chung niệm sau đã có mặt ở Tịnh độ. Nếu ai có sự
ứng hợp nhân và duyên như trên thì vạn người niệm Phật vạn người vãng sanh.
Người nào thường ngày tuy có tâm tín nguyện niệm Phật nhưng
đến lúc lâm chung vì bệnh khổ bức bách khiến tâm niệm Phật không đề khởi được,
để rồi khởi lòng tham luyến tình ái dục niệm thế gian cho đến vợ con tài sản, ý
niệm tham luyến này buông không xuống, trường hợp này là không có nhân tự lực.
Người nào nếu lúc lâm chung chẳng có thiện tri thức đến khai
thị cũng không có ngưới niệm Phật trợ niệm, lại gặp gia đình không biết mà
chuyển dịch cơ thể bi ai khóc lóc phá hoại chánh niệm, trong tâm người chết vô
cùng phiền muộn nhưng không thể mở miệng nói được, do đó sự thống khổ phiền
muộn càng tăng, trường hợp này cũng là không đủ duyên tha lực.
Người nào khi lâm chung có đủ nhân tự lực nhưng thiếu duyên
tha lực, hoặc khi công phu niệm Phật thuần thục không cần phải người khác niệm
Phật trợ niệm nhưng vì gia đình không biết mà chuyển dịch cơ thể bi ai khóc lóc
khiến phá hoại chánh niệm, trường hợp này là có nhân mà không có duyên cũng
không thể vãng sanh.
Người nào nếu khi lâm chung chỉ nương vào duyên thiện tri
thức khai thị gia đình niệm Phật trợ niệm, không bị chuyển dịch cơ thể không bi
ai khóc lóc nhưng bản thân vì bệnh khổ bức bách , hoặc tâm bị trói buộc vào sự
tham luyến tình ái dục niệm thế gian vợ con tài sản mà buông không xuống, vì
thế tâm tín nguyện niệm Phật không đề khởi được, trường hợp này là có duyên mà
không có nhân cũng không thể vãng sanh.
Đức A Di Đà thệ nguyện sâu rộng như vầng trăng sáng tỏ không
chỗ nào mà ánh trăng không chiếu. Chúng sanh phát tâm niệm Phật như ao trong
yên tĩnh không động. Nước ao trong lặng thì bóng trăng tỏ hiện, tâm chúng sanh
thanh tịnh thì chư Phật hiển bày. Người niệm Phật với công phu thuần thục sẽ
cảm thông với Phật, người đó khi lâm chung nương vào nguyện lực của Phật quyết
định sẽ được vãng sanh thế giới Cực lạc.
Kết luận
Chúng ta từ vô thỉ đến nay bởi một niệm bất giác mà chạy
theo ngoại cảnh phan với duyên trần. Bởi sức nhân duyên si vọng huân tập khiến
trong tâm sanh diệt niệm khởi phát sanh các món điên đảo, cho đến toàn chân
thành vọng che đậy chướng ngại bản tánh diệu minh. Do vì tâm sanh nên các pháp
sanh do vì pháp sanh nên các tâm sanh, tâm cảnh níu kéo triển chuyển vô cùng.
Bởi phiền não tham sân si phát từ thân miệng ý tạo thành hữu lậu khởi hoặc tạo
nghiệp, nhân nghiệp mà cảm quả do quả mà nhân khởi, nhân và quả nối nhau không
bao giờ có gián đoạn.
Vì thế chúng sanh đời đời kiếp kiếp bỏ thân này lại thọ thân
khác lưu chuyển không hạn kỳ, mãi mãi trôi lăn nơi biển nghiệp luân chuyển
trong Tam giới. Nhân đây, huyễn hiện thăng trầm nơi sáu thú uổng thọ đại khổ
của thân tâm, sự thống khổ bức bách vô cùng mà chúng sanh không hay không biết.
Nên rõ, nhân vọng chấp mà có sanh vì sanh mà có diệt, sanh diệt gọi là vọng hết
sanh diệt gọi là chân.
Bởi thấu tỏ được lý duyên sanh như huyễn vọng niệm vốn không
mà siêng tu Giới định tuệ để có ngày thể nhập chân như Phật tánh, thấy rõ được
bản thể Bất động chặt đứt được sóng lớn sanh tử. Cũng ngay đây dứt hẳn vọng
tưởng sanh diệt huyễn hóa ngộ nhập thể tánh chân thật bình đẳng nhất như. Nhưng
toàn nương vào sức tự lực để đoạn hoặc chứng chân phản bổn hoàn nguyên, ngõ hầu
đạt mục đích xuất ly Tam giới liễu sanh thoát tử, trừ phi người nào đã trải qua
nhiều kiếp tiệm tu túc thế đã lắm phen huân tập giống đạo, còn không thì tuy
trải qua nhiều kiếp tu hành e rằng vẫn khó có thể chứng ngộ.
Duy có pháp môn Tịnh độ nương nhờ vào từ lực của Phật có thể
đới nghiệp vãng sanh. Chỉ cần chúng sanh nào có tín sâu nguyện thiết chí thànhh
niệm Phật cầu sanh Tịnh độ là đều có thể vượt tắt Tam giới không còn phải thọ
thân đời sau. Cho nên lúc lâm chung niệm Phật cầu sanh thế giới Cực lạc đó là
then chốt để siêu phàm nhập Thánh cũng là đường tắt mau chóng thành tựu Chánh
giác, bỏ con đường tắt này thì không còn con đường nào an ổn hơn. Bởi tín
nguyện trì danh là sanh lộ để liễu sanh thoát tử là phép mầu để thoát khỏi
nghiệp chướng buộc ràng. Lại dùng tịnh duyên tăng thượng mà mau chứng Vô sanh,
tiếp lấy trí lực nguyện lực nhập vào trần lao mà bạt tế quần mê sanh tử.
Xét qua hai môn tự lực và tha lực thì tự lực tu hành phải
nghiệp tận tình không mới phá được vô minh chứng pháp tánh, tất nhiên người tu
phải trải qua nhiều kiếp mới thành chánh giác, việc khó và dễ thành Phật của
hai môn khác xa trời vực. Cổ đức nói: “Chỉ thấy được Di Đà còn lo gì tỏ ngộ”.
Vì vậy, chúng ta chỉ cần được vãng sanh Tịnh độ quyết định sẽ thấy Phật nghe
pháp mở bày Tri kiến Phật. Nếu chứng được Vô sanh pháp nhẫn được Phật thọ ký
thì không khác gì được tăng cao Thánh vị. Từ đây tận cùng vị lai kiếp thường hưởng
thọ pháp lạc, thường ra vào trong mười cõi tuyên dương Chánh pháp, gắng sức tu
hành nỗ lực hóa độ chúng sanh thực hành đạo lớn Bồ đề. Do đây, trong thì chứng
Thánh trí để thoát ly sanh tử ngoài thì diễn bày vạn hạnh để thể nhập vào biển
nguyện. Nhập Niết bàn nhưng không rời bỏ đại bi thường hành phương tiện độ
người nhưng chưa từng ra ngoài bản thể.
Người học Phật nên lập chí nguyện lớn phát tâm Vô thượng Bồ
đề mong cầu chứng được quả vị Vô sanh, sau khi được Phật thọ ký hướng thẳng đạo
lớn Bồ đề, dụng sức trí tuệ bi nguyện đi vào khắp biển khổ trần lao phiền não,
khởi Vô duyên đại từ vận dụng Đồng thể đại bi bình đẳng làm lợi ích khắp tất cả
chúng sanh, lấy Tứ nhiếp tịnh hóa chúng sanh sớm thoát khỏi Ta bà ngũ trược ác
thế mau lên cữu phẩm nơi Cực lạc liên bang. Như thế, rộng độ khắp pháp giới
chúng sanh trải qua cực vi trần số kiếp, viên tu vạn hạnh, viên mãn vạn đức bi
trí song vận trí tuệ cụ túc mà chứng Vô thượng chánh giác, cũng ngay đó gọi là
viên mãn Vô thượng đại Bồ đề. Đó là thành tựu mục tiêu cứu cánh “Thượng cầu
Phật đạo hạ hóa chúng sanh”. Đó là thay thế đức Như lai đảm nhận trách nhiệm độ
thoát chúng sanh lợi khắp các loài hàm thức. Đó là bậc đại trượng phu thực hành
Bồ tát đạo. Đó là chân tinh thần phát huy rực rỡ Đại thừa Phật giáo.
Biên soạn bản văn này chẳng có tánh chất thời gian chẳng có
tánh chất phương sở, chỉ vì tất cả con người ở hiện tại và tận cùng vị lai mà
đề xướng các kiến thức cơ bản trước và sau khi lâm chung. Mong các vị hiền nhân
văn sĩ phổ biến rộng rãi bản văn: “Sự kiện quan trọng nhất trong cuộc đời” này.
Mong cầu ở hiện tại và tận cùng vị lai có bao nhiêu người khi lâm chung đều
được tiêu trừ nghiệp chướng xa lìa phiền não, trở lại nguồn tịnh tâm đồng lên
bờ giác, đều được vãng sanh thế giới Tây phương Cực lạc của đức Phật A Di Đà.
Hoan nghênh các vị hiền sĩ đã đề xướng ấn tống tặng bản văn
này cho người đọc ngõ hầu rộng kết tịnh duyên, triển chuyển lưu truyền khiến
mọi người trong hiện tại và vị lai được hưởng sự lợi ích, công đức này vô lượng
phước đức này vô biên, tổ tiên sớm được siêu thăng con cháu thảy đều được nhân
từ hiếu đạo.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét