
Sau một quá trình
kinh nghiệm về khổ đau, về bản chất của cuộc đời và con người, lời tuyên bố đầu
tiên của Ðức Phật rằng: "Con người và thế giới, bản chất của nó là Duyên
sinh Vô Ngã, chúng không có tự tính, chúng là vô thường, đoạn diệt " đã
gây chấn động đến đỗi kinh hoàng và sửng sốt trong lịch sử tôn giáo và triết
học lúc bấy giờ.
Cách đây hơn hai ngàn sáu
trăm năm, vào ngày trăng tròn tháng Vesàkha, Ðức Phật của hành tinh người, đã
ra đời với một sứ mệnh thiêng liêng: "Một
chúng sanh duy nhất, một con người phi thường ra đời vì hạnh phúc của số đông,
vì lợi ích của số đông, vì lợi ích và hạnh phúc của chư Thiên và loài
người".
Sau một quá trình kinh
nghiệm về khổ đau, về bản chất của cuộc đời và con người, lời tuyên bố đầu tiên
của Ðức Phật rằng: "Con
người và thế giới, bản chất của nó là Duyên sinh Vô Ngã, chúng không có tự
tính, chúng là vô thường, đoạn diệt " đã gây chấn động đến đỗi kinh hoàng và
sửng sốt trong lịch sử tôn giáo và triết học lúc bấy giờ. Giữa những trào lưu
triết học vô cùng phức hợp của thế giới, quan niệm cho rằng nguồn gốc đầu tiên
của sự sống hoặc là do Thượng đế, hoặc là do Brahma, hoặc là do các hợp chất
của nước, lửa, không khí v.v... Tất cả quan điểm đó, dưới ánh sáng của khoa học
vật lý hiện đại, đều tỏ ra ít thuyết phục, dù rằng quan niệm được bắt nguồn từ
cơ sở của vật chất hay ý thức. Nhưng, riêng đối với giáo thuyết Duyên sinh - Vô
ngã (Paticcasamuppàda - Annatta), tính thuyết phục của nó đã thu hút các nhà
vật lý học hiện đại một cách hấp dẫn. Học giả Egerton C.Bapitst, trong cuốn
"Khoa học tối thượng của Ðức Phật" (Supreme Science of the Buddha) đã
phát biểu rằng: "Khoa học không thể đưa ra một sự quyết đoán nào, nhưng
Phật giáo có thể đương đầu với sự thách thức của nguyên tử lực, vì kiến thức
siêu việt của Phật giáo bắt đầu nơi, mà ở đó, khoa học kết thúc. Và đây là một
chứng minh rõ ràng cho những ai đã từng nghiên cứu về Phật giáo. Chẳng hạn,
xuyên qua thiền định, những cấu trúc nguyên tử có thể được tìm thấy và được cảm
nhận".
Nhìn chung, qua lăng kính
Duyên sinh - Vô ngã, mọi hiện hữu ở cuộc đời này là hư vọng vì bản chất của nó
là tương duyên. Sẽ không có bất kỳ một thứ vật chất nào tồn tại một cách độc
lập mà không kết hợp với những điều kiện chung quanh có thể được tìm thấy trong
phòng thí nghiệm của ngành vật lý lượng tử. Ngược lại, ở đó, thế giới này, quả
như lời Ðức Phật dạy, là vô tự tính. Vật chất từ thực thể chẳng khác gì những
làn sóng điện trong không gian, và bản thân của các làn sóng điện ấy cũng không
có thực, vì nó là sự kết thành của muôn ngàn hạt tử, rồi bản thân của mỗi hạt
tử cũng như thế; và rốt cuộc thì không thể tìm được một hiện hữu nào để gọi là
"sự sống đầu tiên hay cái chết cuối cùng", vì tất cả đều là sự kết
hợp và phản ứng của các hợp chất mà Ðức Phật gọi là Duyên khởi, hay Duyên sinh.
Có lẽ đây là lý do tại sao kinh "Trái tim" được mở đầu bằng câu:"Khi
tiến sâu vào nguồn mạch của tuệ giác siêu việt, người tỉnh thức bình yên soi
sáng như thực rằng tự tính của năm hợp thể đều là chân không, liền thoát ly mọi
khổ ách".
Trở lại với tiến trình
phân tích của các nhà vật lý học, giáo thuyết Vô ngã thực sự được sáng tỏ qua
một quá trình nghiên cứu của ngành vật lý hiện đại. Năm 1909, Leo Baekeland,
một kỹ sư Hoa Kỳ gốc Bỉ-Flamand, từ hóa chất phénol C6H6O và formol CH2O, đã
kéo ra chất dẻo đầu tiên, nhân tạo và do tổng hợp, mà bằng sáng chế ghi dưới
danh hiệu ngày nay quen thuộc và gần như lỗi thời: "Bakélite" (dẫn
xuất từ tên người khai sinh ra nó, nhờ nó ông ta trở thành bất tử).
Năm 1939, hãng Du Pont de
Nenmours rêu rao phóng ra thị trường một loại sợi "rắn chắc như thép,
thanh tú như mạng nhện, và sáng lóng lánh. Một nữ trang hoàn toàn hóa học, kéo
ra từ ... than, không khí và nước", mà các bà, các cô sẽ dùng làm vớ. Ðó
là ni lông mà ngay năm 1940, họ phải xếp hàng cả đêm ở New York để mua, trước
khi quân đội Ðồng Minh năm 1945 thả dù xuống Âu châu cho giới phụ nữ. Kỹ sư
Wallace Hume Carothers, người khai sinh ra ni lông, lại yếu tim, nên ngay sau
khi hoàn tất nguyên tắc, đã xa lánh cõi đời ngay từ năm 1937.
Thừa thắng xông lên, một
loạt sợi tổng hợp nhân tạo hóa học xuất hiện: polyêthylen không vỡ năm 1948,
polycarbonat nhựa năm 1953. Chất polycarbonat, trong suốt, rắn chắc như kim
loại, đã được dùng để làm mũ bảo hộ cho đầu phi hành gia Armstrong, năm 1969,
khi ông ta tản bộ trên mặt trăng. Plexiglass dùng làm mái che (cockpit) máy bay
khu trục, formica ở trong bếp, trong phòng khách, polystyren dùng làm mặt nạ
chống hơi ngạt, bao bì, cách điện, silicon trong nhớt máy, trong sơn, ... Người
Pháp tiêu thụ mỗi năm 4 triệu chất dẻo nhưng thải ra 1,3 triệu tấn.
Niềm hãnh diện, tự hào
của công nghệ hóa học là dễ hiểu, và lợi nhuận thu vào là phần thưởng xứng
đáng. Nhưng mặt khác, bình tĩnh mà xét, như trên vừa trình bày, tất cả các chất
dẻo cơ bản hợp bởi các nguyên tử Carbon, Hydrogen, Oxygen, Nitrogen. Với bốn
nguyên tố này có thể hóa hợp thành hàng tỉ chất hợp, phức tạp hay đơn giản.
Phân tích chúng thì chỉ thấy rút cục một tập hợp C, một tập hợp H, một tập hợp
O và một tập hợp N. Phân tích những nguyên tử đó thì thấy chúng hợp bởi điện tử
và hạt nhân. Ðiện tử cho tới nay không ai phân tích được thêm nữa (nó thật là
cơ bản). Còn hạt nhân, dù là của C, của H, của O hay của N, cũng hợp bởi proton
mang điện dương, neutron trung hòa, liên hệ với nhau qua hạt trung gian gọi là
meson pi. Phân tích được proton hay neutron, sẽ thấy chúng hợp bởi quark up,
quark down và gluon. Meson pi cũng họp bởi một quark up và một đối quark up
(giống hệt quark up nhưng mang điện ngược dấu) hay một quark down và một đối
quark down.
Nhưng điện tử âm có thể
gặp điện tử dương, cả hai biến đi mất để cho năng lượng. Quark và đối quark có
thể cho meson pi, nhưng meson pi dương và meson pi âm có thể biến đi mất để cho
gluon là một dạng của năng lượng.
Tóm lại, các chất dẻo, dù
là Bakelit đã dùng làm ống nghe điện thoại, chỗ tay cầm của bàn là, dù là ni
lông may thành quần áo (hãng Du Pont de Neumours phải mất tám năm, dùng 230
chuyên viên dưới quyền điều khiển của Wallace Hume Carothers, mới phát minh ra
ni lông), dù là polyêthylen đựng yaourt hay chế tạo thành chậu, dù là
polycarbonat dùng làm mũ bảo hộ, dù là plexiglas, polystyren, formica dùng làm
đủ thứ đồ vật, ... hóa ra không có thật. Ðảo lại, năng lượng biến thành quark,
điện tử, rồi thành proton, neutron, rồi thành các nguyên tố, rồi thành thiên hà
trong đó có sao, hành tinh, vệ tinh, sao chổi, sau đó có thực vật, động vật,
con người ... nhưng, như vừa chứng minh ở trên, có thể tan rã được, biến đi
mất, thành phi vật chất.
Tóm lại, có thể nói rằng
giáo thuyết Vô ngã qua cái nhìn của các nhà vật lý học hiện đại, là triết lý
sinh động của Ðạo học Ðông Tây. Vì về mặt tâm linh, nó khai phóng con người
vươn tới sự tối thiện mà Ðức Phật gọi là năng lực giác ngộ vốn có tại mỗi con
người. Về mặt khoa học, Vô ngã soi sáng như thực bản chất của mọi hiện hữu; cho
dù đó chỉ là hiện hữu của một làn sóng điện. Do đó, thông qua giáo thuyết Vô
ngã, giới khoa học nhìn rõ bản chất của mỗi thực thể (Vô ngã tính) trong mọi
cấu trúc vật lý.
GS Nguyễn Chung Tú
Sài Gòn 1997
(NSGN 05/97)
Sài Gòn 1997
(NSGN 05/97)
0 nhận xét:
Đăng nhận xét