Tôi chắc chắn rằng trong thế kỷ tới sẽ trở nên rõ hơn là nơi
gặp gở của khoa học Tây phương và triết học Đông phương sẽ quan tâm đến mối
quan hệ giữa tâm thức (nhận thức) và vật chất trong dạng thức của những chủ đề.
Đó thật sự chính là nơi mà khoa học Đông và Tây có thể gặp gở.
Question Sessions with H. H. the Fourteenth Dalai Lama
Concerning the Kalachakra Initiation
January 22, 1985; March 25, 1985; March 26, 1986
Anh dịch: Alexander Berzin
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển - 02/01/2011
Mục lục
1- Quan Hệ Giữa
Giáo Pháp Thời Luân Và Người Tây Phương
2- Quan Hệ Giữa
Giáo Pháp Thời Luân Và Khoa Học Tây Phương
3- Những Hạt Vi Tế
trong Thời Luân Kim Cương
4- Giáo Pháp Thời
Luân Và Sự Miêu Tả Vũ Trụ
5- Tìm Những Sự
Tương Đồng Xa Hơn trong Thời Luân và
Khoa Học
6- Yêu Thương trong
Ki Tô Giáo và Phật Giáo
7- Xác Nhận Một
Cách Khoa Học, Núi Tu Di có Thật Sự Hiện Hữu Không
8- Giá Trị của Sự Trình
Bày Thời Luân về Vũ Trụ và Thân Thể như Căn Bản cho Việc Tịnh Hóa
9- Thời Luân Kim
Cương và Y Dược Tây Tạng
1- Quan Hệ Giữa
Giáo Pháp Thời Luân Và Người Tây Phương
BERZIN: Người Tây
phương có một mối quan hệ đặc biệt với Giáo Pháp Thời Luân không?
ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA:
Tôi tự hỏi, họ thật sự có không?
Một cách tổng quát, giáo huấn Nhà Phật là vì lợi ích của tất cả chúng
sinh, không phải chỉ cho một số người đăc biệt.
BERZIN: Một số người
có thành kiến về nó.
ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA:
Bây giờ trong vấn đề Thời Luân Kim Cương, nó nói về Shambhala và một
cuộc chiến chống lại những người xâm lược Lalo.
Có thể đã từng có một mối quan hệ quan trọng đối với những ai đã sống
trong thời kỳ được biết nhiều đến những cuộc xâm chiếm của người Hồi với Ấn Độ. Tôi tự hỏi có hay không một sự liên hệ nào
đấy trong phổ quát với những ai sống trong những thời kỳ đó về hiểm họa của
chiến tranh. Nhưng, như cho một mối quan
hệ đặc biệt với người Tây phương chung chung, tôi không biết? Serkong Rinpochey đã nói gì?
BERZIN: Người Tây
phương thích khoa học và kỷ thuật, và Shambhala có liên hệ nhiều đến kỷ thuật
cao. Có lẻ, có một sự liên hệ trong
những dạng thức ấy.
ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA: Vâng, ông có thể nói có một sự liên hệ
thế nào ấy như thế. Nhưng, vấn đề của loại
liên hệ ấy là gì? Có một số tương tự nào
đấy, nhưng có phải là nó không luôn luôn gần gũi đến hoàn cảnh mà con người ở
khắp nơi nói về chiến tranh hay không?
Do vậy, lý do ấy là không chính xác.
2- Quan Hệ Giữa
Giáo Pháp Thời Luân Và Khoa Học Tây Phương
BERZIN: Có mối quan hệ nào giữa Giáo Pháp Thời Luân
và khoa học Tây phương không?
ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA: Tôi có thể nói như thế.
BERZIN: Đôi khi,
Thánh Đức nói về một điểm gặp gở thông thường giữa Phật học và khoa học, có
phải ở trong hình thức của Thời Luân?
ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA:
Không. Không nhất thiết đặc biệt
trong những dạng thức của Thời Luân Kim Cương; một cách phổ thông. Căn bản tin tưởng trong Đạo Phật là nếu điều
gì được hổ trợ bởi lý trí, thế thì chúng ta phải chấp nhận nó; và nếu điều gì
đấy không có lý trí hay vố lý, thế thì không cần phải chấp nhận. Ngay cả những lời của chính Đức Phật cũng
phải được diễn dịch trong một cung cách khác không bóng bẩy nếu chúng vô nghĩa
hay vô lý.
Thí dụ, chúng ta chấp nhận trích dẫn “A” từ Đức Phật, trong
khi chúng ta không chấp nhận trích dẫn “B”.
Tại sao? Vì nếu tính chất có thể
chấp nhận của Đức Phật, chúng ta phải căn cứ trên những từ ngữ khác của Đức
Phật, rồi thì những thứ này sẽ đòi hỏi những từ ngữ khác của Đức Phật [được
thừa nhận] và nó là một sự thoái bộ vô tận, có phải không? Do vậy, trong những dạng thức thực tế, chúng
ta cần phải giải thích một có ngôn từ của Đức Phật chỉ khi có những ý nghĩa có
thể diễn dịch và chỉ chọn lựa những từ ngữ khác khi có thể xác định rõ. Nếu đấy là trường hợp, có nghĩa là ý nghĩa
tối hậu của Đức Phật phải phù hợp với lý trí.
Bây giờ, trong dạng thức của khảo sát khoa học, nếu điều gì
đấy có thể minh chứng như thực tế, thể thì nó được chấp nhận. Hoạt động khoa học trên căn bản ấy, có phải
không? Thí dụ, một nhà khoa học làm một
thí nghiệm và điều gì đấy xãy ra. Rồi
thì, ai đấy tiến hành cùng thí nghiệm và cùng có một kết quả. Tiến trình này thiết lập điều gì đấy như một
sự kiện thực tế. Đấy là hoạt động của
khoa học như thế nào. Vì thế, thái độ
căn bản của khoa học là nếu điều gì đấy là một sự kiện có thể xác minh thực tế,
chấp nhận nó; và nếu nó không thể xác minh, đừng tin tưởng nó.
Đấy cũng là thái độ căn bản của Phật học, có phải không, đặc
biệt trong Đai Thừa. Tôi tự hỏi hệ thống
giáo thuyết Tiểu Thừa thật sự giải thích lời Phật dạy có một sự diễn dịch và
xác định ý nghĩa khác biệt hay không?
Một cách chắc chắn, họ không có.
Trong họ, tất cả lời Phật dạy là xác định rõ ràng một cách cùng
khắp. Tuy thế, hề thống giáo nghĩa Đại
Thừa giải thích hai cách – lời Phật dạy là có thể diễn dịch và một bộ phận là
xác định rõ ràng ý nghĩa.
Nếu đây là vấn đề thừa nhận, thế thì, như tôi đã giải thích,
quyết định những gì là dứt khoát thuộc về lý trí. Nó không thể bị căn cứ trên tín lý. Nếu đấy là trường hợp, thế thì nếu những nhà
khoa học tìm thấy một kết quả cụ thể nào đấy hay chứng minh rằng không có đời
sống tương lai, không có tái sinh – nếu họ có thể chứng minh thật sự điều đó –
chúng ta phải chấp nhận nó như thái độ căn bản của Phật học. Do vậy, sự tiếp cận nền tảng của Phật Giáo là
một mà nó phù hợp với sự thật và lý trí.
Đấy là một điểm.
Bây giờ điều thứ đến, có những sự giải thích đặc thù trên
những điều mà cả Phật học và khoa học nhất trí.
Thí dụ, Phật Giáo thừa nhận rằng tất cả mọi hiện tượng bị điều kiện hóa
hay tác động bởi những hiện tượng khác hoại diệt từ thời khắc này đến thời khắc
khác mà không bao giờ duy trì bất động.
Mọi thứ thay đổi một cách liên tục từ thời khắc này đến thời khắc khác,
một cách vi tế, không bao giờ đứng yên tĩnh.
Những nhà khoa học cũng đồng ý rằng những hiện tượng vật lý thay đổi một
cách vi tế mỗi thời khắc, mà không đứng bất động – đấy là, bởi vì chúng lệ
thuộc trên những nguyên tử - và tuy thế, trên mức độ thô, chúng hiện hữu không
thay đổi. Không phải chứng minh rằng
chúng hiện diện duy trì hình thể chúng như thế, không có bất cứ sự thay đổi
nào: chúng ta có thể thấy điều ấy với đôi mắt của chúng ta. Do vậy, liên hệ đến vấn đề rằng trên mức độ
thô mọi thứ dường như bất động, bất biến, nhưng ở mức độ vi tế chúng không duy
trì tĩnh lặng dù chỉ trong một khắc, khoa học và Phật học nhất trí điều này là
sự thật.
Xa hơn nữa, có sự tương đối; do thế, giáo lý vạn pháp tương
sinh duyên khởi. bất cứ điều gì hiện hữu
được thiết lập như duyên sinh hay trên sự liên hệ đến những thứ khác. Điều này cũng thông dụng giữa hai hệ
thống. Mặc dù các nhà khoa học không
thảo luận những hiện tượng (tĩnh) không động, nhưng họ vẫn đồng ý rằng tối
thiểu với hình tướng hay những điều xãy ra theo thời gian cũng duyên sinh với
những nhân tố khác, thí dụ trên nguyên nhân và điều kiện. Những sự xác chứng này được thiết lập trong
mối quan hệ đến những nhân tố khác hơn chính chúng.
Điều mới nhất mà các nhà khoa học đang thảo luận trong dạng
thức của vấn đề quan tâm đến lý thuyết lượng tử và những hạt vi lượng. Người ta khám phá và đang bắt đầu thấu hiểu
rằng mức độ cực kỳ vi tế này của vật chất được liên kết với sự lĩnh hội một
cách mật thiết. Nói cách khác, tâm thức
nhận thức trình độ này như sự nhận thức đối tượng của nó trở nên liên hệ.
[Thí dụ, thời gian và không gian của một đối tượng liên hệ
đến thời gian và tốc độ của đối tượng và của người quán sát. Phương hướng và tốc độ của người quan sát
liên hệ đến phương hướng và đến tốc độ của đối tượng bị quán sát mà điều ấy ảnh
hưởng sự định lượng của người quán sát đối với vị trí và thời gian/không gian
của đối tượng.]
Khi ông nghiên cứu sóng, đấy là vật chất hay năng
lượng? Từ một cách quán sát, nó là vật
chất và từ một cách nhận thức khác, nó là năng lượng. Đạo Phật gọi mối quan hệ “hai thực tế về cùng
khía cạnh của một hiện tượng” và giải thích nó như hai thứ chia sẻ cùng bản
chất tự nhiên, nhưng biểu hiện như những thứ biệt lập khác nhau một cách nhận
thức.
Vì thế, sự xác định quy ước của sóng như yếu tố hay như năng
lượng là một chức năng định danh của tinh thần.
Điều này hàm ý rằng sự khác biệt giữa yếu tố và năng lượng phải được
thấu hiểu trong dạng thức của người nhận thức [và không vốn dĩ như thế trong tự
đối tượng.] Điều này cho thấy mối liên
kết gần gũi giữa nhận thức và vật chất.
Trong quá khứ, khoa học cổ điển có thể có một số năng lực
bên cạnh vật chất hay không, nó có phải là ý thức hay bất cứ điều gì khác hay
không. Khi chúng ta quan tâm đến vấn đề
này, thế thì, khi bất cứ hệ thống này, không chỉ Phật giáo, thừa khẳng định
những hiện tượng nào đấy là không sai lầm, vấn đề là có hay khong điều gì đấy
là không sai lầm tùy thuộc trên nhận thức; và nhận thức là điều gì đấy nội tại,
chứ không phải ngoại tại. Nhận thức là
điều gặp gở và liên hệ với những đối tượng và điều làm sự định danh việc gì đấy
là sai lầm hay không.
Sự phân định và thảo
luận chi tiết nhất của sự định danh của nhận thức và tinh thần không nghi ngờ
gì nữa được tìm thấy trong Đạo Phật.
Trong Phật Giáo, những truyền thống khác nhau của A tỳ đạt ma (những chủ
đề đặc biệt của nhận thức) giải thích nhiều về ý thức chính (tâm vương) và
những nhân tố tinh thần (tâm sở).
Tantra, đặc biệt là tantra yoga tối thượng (mật điển vô thượng du già),
thảo luận về những ý thức thô và vi tế và mối quan hệ giữa tâm thức và năng
lượng/gió vi tế. Tôi chắc chắn rằng
trong thế kỷ tới sẽ trở nên rõ hơn là nơi gặp gở của khoa học Tây phương và
triết học Đông phương sẽ quan tâm đến mối quan hệ giữa tâm thức (nhận thức) và
vật chất trong dạng thức của những chủ đề.
Đó thật sự chính là nơi mà khoa học Đông và Tây có thể gặp gở.
3- Những Hạt Vi Tế
trong Thời Luân Kim Cương
BERZIN: Có bất cứ
điều gì trong Giáo Pháp Thời Luân có thể phục vụ như một nơi gặp gở cho một
cuộc thảo luận tức thời về những hạt vi tế không?
ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA: Vâng, điều này sẽ là trong dạng thức của
những hạt vi tế. Một cách tổng quát, cho
dù có hay không sự đề cập của Tôn giả Thiên Thân trong A tỳ đạt ma câu xá luận,
trong Giáo Pháp Thời Luân ông có những hạt không gian. Trong không gian trống
rỗng, có những hạt không gian và đấy chính là căn bản thật sự của những hạt
tiến triển thô hơn, đấy là của bốn đại: đất, nước, gió, lửa. Một vũ trụ trước đây biến mất và có một thời
kỳ của không – một cách đặc biệt hơn, có những thời kỳ hoại, theo đấy là những
thời kỳ của không và trong hai mươi thời kỳ trung gian của không, có những hạt
không gian. Theo đấy, trong những thời
kỳ sinh khởi, căn bản cho sự sinh khởi của không gian, gió, lửa, nước, và đất
là những hạt không gian.
BERZIN: Chúng ta
hiểu những hạt không gian như thế nào?
Có phải chúng là sắc [chất]?
ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA:
chắc chắn là như thế này. Luận
Trung Quán và Kinh Đại Bát Nhã thừa nhận
năm loại sắc chỉ trong cội nguồn nhận thức tất cả là những hiện tượng pháp (sắc
chỉ trong nguồn gốc nhận thức của Giáo Pháp).
Đây là những sắc đến từ sự tích tập, đây là những thứ sinh khởi một cách
rõ ràng từ sự tiếp nhận chúng (chẳng hạn như thệ nguyện), những thứ ấy tồn tại trong
những hoàn cảnh thực sự [chẳng hạn như những khoảng cách thiên văn [rất lớn] và
kính hiển vi [rất nhỏ] giữa những vật], đấylà những thứ tưởng tượng một cách
hoàn toàn [chẳng hạn như nhận thức trong mơ], và những thứ từ sự đạt được kiểm
soát những yếu tố.
Đối với những thứ đến từ sự tích tập, chúng được giải thích
như những hạt vi tế và chúng có một hình cầu.
Đây là những thứ chắc chắn đến từ Bát nhã ba la mật đa và, ở đấy những
hạt vi tế là những sắc chất chỉ ở trong cội nguồn nhận thức Pháp. Chúng không thể bằng mắt thường. Tuy thế, chúng là sắc nhưng chỉ có thể được
biết bằng tâm thức. Chúng dạng hình
cầu. Những thứ này không nghi ngờ gì nữa
là những nguyên tử trong thế giới ngày nay của chúng ta. Chúng tất cả hình cầu, có phải thế
không? Chúng dường như thật sự tương tự.
[Chú ý: Sắc [chất] có
hình dáng và màu sắc. Để nói rằng chúng
có màu sắc hàm ý bước sóng thường trên một cái đo phổ, mà nguyên tử hay hạt
có.]
BERZIN: Và những
nguyên tử của không gian?
ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA:
Những gì tôi vừa giải thích là những nguyên tử như được trình bày trong
a tỳ đạt ma, và tôi nghĩ rằng những hạt được giải thích trong Giáo Pháp Thời
Luân thậm chí vi tế hơn thế. Những
nguyên tử a tỳ đạt ma - liên hệ đến bốn
yếu tố: những yếu tố của đất, nước, gió, lửa – chắc chắn tương ứng ở đây với
những hạt đất của Thời Luân. Những thứ
này thường được gọi là những nguyên tử.
Rồi thì, đối với những hạt không gian trong Thời Luân, chúng ta có bốn
hạt hạ nguyên tử vi tế hơn những nguyên tử a tỳ đạt ma. Đối với điều gì là tính tự nhiên căn bản của
chúng (chúng là gì). Tôi không biết một
cách rõ ràng.
Tuy thế, có một điểm liên hệ, trong Tantra Tối Thượng của Di
Lặc. Một cách ngoại tại, có sự tan rả
liên tục của đất, nước, gió, lửa, và không gian; và đối với thế hệ liên tục,
gió, lửa, nước, và đất sinh ra. [chú ý
rằng trong Tantra Tối Thượng không có ‘lửa’].
Một cách ngoại tại, những gì mà những yếu tố phát triển ra là không gian
và những gì chúng tan biến trong không gian.
Giống như thế, nội tại, tính tự nhiên trỗng rỗng của chúng
ta, như một nhân tố Phật tính (một bào thai chứa đựng một Như Lai), từ điều mà
những thứ sinh khởi và được tích lũy lại.
Khi ông áp dụng điều này một cách nội tại đến tâm thức, không gian là
hành vi tinh thần ánh sáng trong suốt, hay tính không của tịnh quang, hay không
gian của tịnh quang.
Giáo Pháp Thời Luân thảo luận không gian bao gồm trong không
gian – như sự tương tục tinh thần, không gian bao gồm trong hạt xanh
dương. Khi người ta có thể nhận ra không
gian này, không gian này chắc chắn có thể được giải thích như một hạt không
gian. Tôi không biết một cách rõ ràng
hay tường tận. Tuy thế, đây là một ít
đặc trưng đặc biệt.
BERZIN: Có phải
những hạt không gian này tĩnh (thường trụ)?
ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA:
chúng có thể thật sự tĩnh không?
Không chúng không tĩnh. Tuy thế,
đối với việc Zijin-nyingpo giải thích trong luận giải của ông, điều ấy sẽ làm
nó chắc chắn hơn không? Tôi không biết.
4- Giáo Pháp Thời
Luân Và Sự Miêu Tả Vũ Trụ
BERZIN: Có lợi ích
không cho những người Tây phương có niềm tin trong Đạo Phật và những người
thích thú trong khoa học nghiên cứu Giáo Pháp Thời Luân? Có lợi ích cho họ không trong việc tìm kiếm
những sự tương quan giữa Giáo Pháp Thời Luân và khoa học?
ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA:
Tôi không thật biết. Giáo Pháp
Thời Luân tự nó giải thích rất nhiều thứ.
Thí dụ, một người như tôi, tôi có sự hấp dẫn trong Thời Luân và tôi có
thể cảm thấy thoãi mãi với nó. Có thể
nói, tôi thích ứng và tương hợp với nó.
Nhưng nếu một số nhà khoa học chỉ đọc thoáng nhanh qua, nó sẽ không thể
biểu lộ thích ứng với tâm thức họ như thế này.
Để bắt đầu, người ta sẽ đón nhận sự trình bày về ngoại, nội, và luân
phiên Thời Luân và điều ấy có thể làm nên nhiều phức tạp và rắc rối. Thí dụ, chương một, Cảnh Giới Thế Gian, giải
thích núi Tu Di và Lục Địa Phương Nam, Diêm Phù Đề. Điều này trở nên hoàn toàn hổn độn. Nó hoàn toàn vô nghĩa, có phải không?
BERZIN: Tôi đã nghe
ngài một lần nào đấy nói rằng Núi Tu Di có thể ở dãy Ngân Hà.
ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA:
Ô, tôi chỉ nói một cách ngẫu nhiên.
Tôi không thật sự cứng nhắc lắm.
Tuy thế trong truyền thống Sakya giải thích một điểm liên hệ
về Thời Luân trong sự phối hợp với giáo huấn ‘con đường cùng với kết quả của
nó’ (lamdray ). Theo sự giải thích này,
tất cả những hiện tượng ngoại tại là hoàn toàn trong thân thể con người. Cung cách an trú [tồn tại] của thân thể con
người là hoàn toàn trong những kinh mạch năng lượng. Cung cách tồn tại của những kinh mạch là
chúng hoàn toàn trong những âm tiết.
[Cung cách an trú của những âm tiết là chúng hoàn toàn ở trong những hạt
năng lượng cấu thành nguồn gốc. Cung
cách an trú những hạt năng lượng cấu thành nguồn gốc là chúng hoàn toàn ở trong
khí năng lượng.] Điểm căn bản cuối cùng
của điều này là [cung cách an trú hay sự tồn tại của mọi thứ] là hoàn toàn
trong tâm thức nền tảng [tàng thức alaya].
[Trong hệ thống lamdray, tâm thức nền tảng liên hệ đến tương
tục nhân của tàng thức alaya, đấy là trình độ tịnh quang vi tế nhất của hoạt
động tinh thần. Nó không liên hệ đến tâm
thức nền tảng như được thừa nhận trong
Duy thức học.]
Vì thế, với tất cả những hiện tượng ngoại tại biểu hiện hoàn
toàn ở trong thân thể con người, rồi thì trên một phía chúng ta có thể thấu
hiểu điều này trong dạng thức của những biểu tượng. Bốn châu (lục địa) và Núi Tu Di là hoàn toàn
ở trong thân thể con người, một cách biểu tượng. Giáo Pháp Thời Luân trình bày điều gì đấy
tương tự như thế. Núi Tu Di là một phần
của xương sống, trong khi những trình độ của tham dục cảm giác (dục giới),
những hình sắc siêu trần (sắc giới), và chúng sinh vô sắc (vô sắc giới) là
những bộ phận của thân thể từ gót chân đến đỉnh đầu.
[Núi Tu Di là xương sống, từ chỗ tiếp giáp với xương mông
đến xương cổ. Dục giới, thế giới tham
dục mở rộng từ gót chân đến một phần ba xương cổ. Sắc giới, thế giới hình sắc siêu trần từ đấy
đến trán, và Vô sắc giới, thế giới không hình thể từ trán đến đỉnh đầu].
Nói cách khác, trong thân thể con người, từ gót chân đến đỉnh đầu, có ba thế
giới luân hồi (tam giới) được giải thích trong Giáo Pháp Thời Luân, đấy là ba
mươi mốt thế giới của trần gian là hoàn toàn.
Do bởi điều ấy, chúng ta có thể nói là thân thể con người chứa đựng
những biểu tượng.
Rồi thì, về phía khác, chúng ta có thể giải thích ba cõi thể
hiện hoàn toàn trong thân thể con người trong một cách khác. Hành vi tinh thần (tâm thức) có nhiều trình
độ thô và vi tế hay phương diện. Thế thì
,t rong quan điểm của tình trạng này, thí dụ, có những cảm nhận thô; và từ
những cảm nhận thô, có cảm nhận thô của khoái lạc.
Thế rồi, như Đại Đệ Ngũ Đạt Lai Lạt Ma đã nói trong Con
Đường Tiệm Tiến Lamrim: Những Hướng Dẫn
Cá Nhân từ Văn Thù Sư Lợi, chúng sinh tiến hành trong những hành vi nghiệp báo
vì việc đạt đến những kinh nghiệm cảm nhận khoái lạc và hạnh phúc. Những ai tìm kiếm sự hiện thực những cảm giác
dữ dội của khoái lạc [bởi hành động tàn hoại] tích tập nghiệp báo không đáng
khen [bị tái sinh một trong những tình trạng tệ hại của tái sinh]. Tuy thế, trong phổ quát, những ai với tư
tưởng chính yếu chạy theo một cảm giác
khoái lạc từ những giác quan xây dựng cho việc tái sinh trên [những thể trạng
tệ hại hay tốt hơn của] thế giới tham dục [tùy thuộc trên việc hoặc là họ hành
động một cách tàn hoại hay xây dựng.]
Rồi thì, có những ai chuyển từ khao khát cho những cảm giác
ngoại tại, mà tìm cầu những cảm giác hỉ lạc nội tại từ tập trung thẩm thấu (tam
muội hay định chỉ) và người tích tập nghiệp báo. Một tâm thức hành động như thế bồi đắp nghiệp
nhân cho việc tái sinh trên những cõi sắc giới, từ thể trạng thứ nhất đến thứ
ba của tinh thần ổn định (sơ thiền đến tam thiền). Nhưng ai khao khát một cảm giác bình đẳng đến
một cách nội tại từ tam muội, vượt khỏi cảm giác khóa lạc, xây dựng nghiệp nhân
cho thể trạng thứ tư của ổn định tinh thần (trên sắc giới – tứ thiền).
Rồi thì, khi sự giải thích những sự khác nhau giữa sắc giới
và vô sắc giới, khi sau khi ngăn chặn sự xuất hiện tất cả mọi hình sắc, chúng
ta thiền quán trên không hay trên bức màn tính không như không gian, và v.v…,
chúng ta xây dựng nghiệp nhân cho việc tái sinh trong một của bốn cõi vô sắc:
thế giới chư thiên của không vô biên xứ, thức vô biên xứ, vô sở hữu xứ, và phi
tưởng phi phi tưởng xứ.
Vì thế, khi chúng ta nhìn vào nó từ một phía, vì có những
trình độ thô và vi tế của hành vi tinh thần, rồi thì, dưới sự ảnh hưởng của tâm
thức nọi tại thô và vi tế này [liên hệ đến những khoái lạc thô và vi tế và
những khát vọng tìm kiếm sau chúng], chúng ta tích tập nghiệp nhân. Dưới năng lực của nghiệp nhân này, ba cõi
luân hồi được thiết lập và hiện hữu.
Điều ấy hiện hữu như thế, rồi thì khi chúng ta nói rằng ba
cõi luân hồi được thiết lập và hoàn thành trong thân thể con người qua những
biểu tượng; sau đó, suy nghĩ về nó trong một cách, chúng ta có thể thấu hiểu
điều này trong dạng thức của sự ảnh hưởng của nghiệp. Tâm thức
hay hành vi tinh thần là một khía cạnh của Phật tính (cội nguồn chuyển
hóa chân thật); và nó dưới sự ảnh hưởng của tâm thức, hay căn cứ trên tâm thức,
mà chúng ta tích tập nghiệp nhân. Từ
đấy, chúng ta có một cách thiết lập thân thể con người. [nói
cách khác, thân thể của thể trạng tái sinh đến từ tâm thức đã có một sự tích
lũy nghiệp nhân cho những kinh nghiệm của thể trạng tái sinh ấy.]
Với [sự thiết lập của thân thể vật lý này từ nghiệp nhân]
như một hoàn cảnh, chúng ta cũng có thể thiết lập [từ Phật tâm bản nhiên tích
tập nghiệp] vị trí vật lý dục giới, mà trong ấy những con người sống chủ
yếu. Không có nghi ngờ gì về đặc trưng
đặc biệt này.
Sự hiện hữu như thế, rồi thì núi Tu Di và v.v… được giải
thích trong Giáo Pháp Thời Luân, trong thực tế, có một ý nghĩa sâu xa hơn. Chúng liên hệ một cách chính yếu đến hoàn
cảnh kham nhẫn của thân thể của một con người của Nam Lục Địa (Diêm Phù
Đề). Sự trình bày của một Diêm Phù Đề
ngoại tại ở đấy trong Giáo Pháp Thời Luân do bởi sự cần thiết cho sự giải thích
sự liên hệ giữa thế giới ngoại tại và nội tại – mỗi biểu tượng của chúng là
tương đương với nhau. Trong ý nghĩa này,
không nhất thiết rằng Núi Tu Di hiện hữu như một quả núi khổng lồ đứng nơi nào
đấy trong thực tế trong một vị trí riêng biệt nào đấy.
BERZIN: Serkong
Rinpoche nói rằng Núi Tu Di trong Giáo Pháp Thời Luân trông giống như nó ngang
qua đầu chúng ta và sắp rơi xuống trên chúng ta. Điều đó liên hệ đến vấn đề gì?
ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA:
Trong A tỳ đạt ma câu xá, Núi Tu Di là vuông và ở đây, trong Giáo Pháp
Thời Luân, nó tròn và phình ra trên đỉnh.
Diêm Phù Đề là tròn ở phần dưới của nó vì thế khi chúng ta nhìn lên phần
đỉnh to rộng hơn của Núi Tu Di, nó hiện hữu lơ lững trên đầu chúng ta. Vì thế, nó trông như nó sắp rơi xuống.
5- Tìm Những Sự
Tương Đồng Xa Hơn trong Thời Luân và
Khoa Học
BERZIN: Những phẩm
chất của một vị Phật bao gồm khả năng tiếp nhận một giáo huấn thế tục và biến
nó thành một lộ trình cho Phật Pháp. Tuy
thế, điều này đòi hỏi phương tiện thiện xảo.
Câu hỏi của tôi quan tâm đến việc làm thế nào phát triển phương tiện
thiện xảo để làm việc gì đấy tương tự trong trình độ của chúng ta.
Thí dụ, trong Chương Nghi Quỹ của Mật Điển Thời Luân, quan
tâm đến những điểm ẩn tàng về hiến tế từ tự và v.v… trong kinh Vệ Đà, mật điển
giải thích rằng khi Vệ Đà nói hiến tế súc vật, điều này giống như những liên
kết gần gũi trong Bí Mật Tập Hội hay Thời Luân để giết mạng sống. Lấy mạng sống có một ý nghĩa ẩn dụ và phương
tiện để hóa giải những luồng khí hổ trợ sự sống.
Xa hơn, khi Vệ Đà nói về âm thinh nada không thể phá vở,
chúng ta phải thấu hiểu điều này có nghĩa hạt chất nguyên sơ không thể hủy hoại
[1] và đặc trưng âm thinh của yếu tố không gian.
Tuy nhiên, trong những nơi khác, thí dụ trong chương Cảnh
Giới Thế Gian, khi đức Vua giải thích thiên văn đến tiên nhân Suryaratha, ngài
nói rằng lời trong Vệ Đà về cảnh giới Phạm Thiên có kích thước mười triệu do
tuần là không thật.
Vì thế, chúng ta có thể kết luận rằng đôi khi những gì được
nói trong Vệ Đà là những biểu tượng ẩn dụ và đôi khi được thừa nhận là không
thật.
Tương tự thế, trong Đại Luận Giải Mật Điển Thời Luân,
Kaydrubjey [2] giải thích rằng đôi khi Đức Phật đã nói sự vật có sự tồn tại cố
hữu (có tự tính), nhưng Ngài có một khuynh hướng khác và nó chỉ đơn thuần là
một ẩn dụ. Tuy thế, Đức Phật chưa bao
giờ nói có một tự ngã độc lập, nguyên khối, bất biến. Đấy là một điều không thật hay lừa dối.
Nếu đấy là trường hợp, thế thì khi giải thích Giáo Pháp đến
những người phương Tây và nói về tôn giáo và khoa học phương Tây, làm thế nào
chúng ta phân biệt những gì được nói là biểu tượng ẩn dụ và những gì là sai
lạc? Lý do cho câu hỏi của tôi là rất dễ
dàng để làm nên những sự tương đồng sắc sảo cho Giáo Pháp Thời Luân. Đôi khi, những vấn đề trong Mật Pháp Thời
Luân và trong tôn giáo cùng khoa học Tây phương
sẽ là những sự tương đồng với nhau, nhưng đôi lúc những điều trong thứ
này hay thứ kia sẽ là những điều tin
tưởng sai lầm.
ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA:
Mật điển và kinh điển là tài liệu làm căn cứ đáng tin. Ngoại trừ có một liên hệ kinh điển trong ấy,
chúng ta không cần tạo nên những điều ấy và khẳng quyết rằng từ trong tâm Đức
Phật đã có một sự tương đồng với tôn giáo hay khoa học phương Tây.
6- Yêu Thương trong
Ki Tô Giáo và Phật Giáo
BERZIN: Ki Tô Giáo
nói về yêu thương, vì vậy điều này có giống như yêu thương của chúng ta trong
Phật Giáo không? Chúng ta có thể nói gì
về điều này?
ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA:
Ki Tô Giáo dạy về tình yêu đối với Thượng Đế và tình yêu đối với con
người. Khi người ta nói chúng ta phải
yêu mến Thượng Đế, họ muốn nói là chúng ta phải giữ Thượng Đế gần trái tim của
chúng ta, và chúng ta phải thích ngài và yêu mến ngài. Phật Giáo cũng dạy phải tôn kính và quý mến
Đức Phật. Ki Tô Giáo nói chúng ta phải
có một trái tim và cảm giác nồng ấm, không cho tất cả chúng sinh bao gồm những
con bọ, mà đặc biệt cho con người chúng ta mà thôi. Do vậy, nếu chúng ta nói một cách tổng quát,
chúng ta có thể thấu hiểu điều này giống như yêu thương trong Phật Giáo và nó
là giống nhau.
Nhưng, đối với Ki Tô Giáo nói về một đấng tạo hóa, nếu chúng
ta nói rằng trong Đạo Phật thuật ngữ này có thể được hiểu là tính không, mặc dù
chúng ta có thể làm nên một sự diễn dịch như vậy, nhưng điều này sẽ không
thế. Thí dụ, ông có thể có thể nói tính
không, như một bào thai chứa đựng Như Lai, (như một nhân tố Phật tính) là tạo
hóa. Nó là vô tướng, không thể tưởng
tượng được, và không thể đặt trong ngôn ngữ, như Thượng Đế. Mặc dù chúng ta có thể nói thế, tôi nghi ngờ
nói như thế sẽ không thực tế. Tôi không
nghĩ điều đó là có thể chấp nhận, có thể Okay.
Giống như thế, khi đến với triết học, có những sự bất đồng
thuận. Đạo Phật không thừa nhận một đấng
tạo hóa trong cách mà Ki Tô Giáo thừa nhận Thượng Đế như đấng tạo hóa. Phật Giáo không chấp nhận. Đạo Phật sẽ nói rằng tâm thức căn bản của một
người, trong một ý nghĩa, là một tạo hóa (nhất thiết duy tâm tạo), nhưng không
có Đấng Tạo Hóa Toàn Năng cơ bản. Chúng
ta có thể nói như thế và giải thích nó như thế.
7- Xác Nhận Một
Cách Khoa Học, Núi Tu Di có Thật Sự Hiện Hữu Không
BERZIN: Vậy thì tốt
nhất là không nên nói rằng những gì khoa học nói là giống như Phật học?
ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA:
Khoa học có sự tiếp cận như Phật học.
Tôi nghĩ rằng từ nhận thức này, cả hai đều đến cùng một vấn đề. Đấy là một là trên những thái độ căn bản của
Phật học. Thí dụ, có hai loại đối nghịch
xuyên tạc: đấy là những sự tự ý thêm vào
và những thứ là hoàn toàn tưởng tượng [tương ứng với sự phủ nhận]. Những đặc trưng này liên hệ đến điều gì? Một thái độ đối nghịch tin rằng điều gì đấy
tồn tại không tồn tại là một thái độ xuyên tạc là phủ nhận. Một thái độ khác tin rằng điều gì đấy không
tồn tại tồn tại là một thái độ tự ý thêm vào xuyên tạc.
Thí dụ, nếu Núi Tu Di hiện hữu và chúng ta nói rằng nó không
hiện hữu, đó là một thái độ xuyên tạc.
Nếu nó không tồn tại và chúng ta nói nó tồn tại, đó cũng là một thái độ
bóp méo. Điều ấy có nghĩa rằng bất cứ
điều gì là sự thật, đó là điều chúng ta phải chấp nhận. Thí dụ, nếu trên mặt đất, có một con voi và
nó là có thể thấy được, chúng ta phải thấy nó bởi vì nó có thể thấy. Sử dụng luận lý kiểu này, nếu điều gì đấy
hiện hữu (và có thể thấy), chúng ta phải thấy nó. Và nếu nó có thể thấy mà chúng ta không thấy,
thế thì nó không hiện hữu.
Vậy thì giống như thế, liên hệ đến việc Núi Tu Di hiện hữu
hay không, khi chúng ta khám phá trong phi thuyền không gian và nếu có có thể
được thấy một cách rõ ràng – bởi vì nó được diễn tả như một đối tượng của thị
giác – và nếu chúng ta không thấy – dĩ nhiên, nếu nó là điều gì đấy tồn tại
nhưng nó không thể được thấy, đấy là điều gì đấy hoàn toàn khác biệt – nhưng
nếu nó là trường hợp rằng nếu nó tồn tại phải được thấy, rồi thì nếu nó không
thể được thấy, chúng ta có thể quyết định rằng nó không tồn tại. Vì những luận điển nói rằng Núi Tu Di thật
hiện hữu, thế thì chấp nhận đối với chúng thể hiện một ý nghĩa diễn dịch [y
nghĩa bất y ngữ], [không có khả năng nào khác].
Nếu chúng ta nghiên cứu một cách khoa học, rồi thì nếu điều
gì đấy tồn tại chúng ta phải có thể chứng thực nó một cách chính xác – thí dụ,
đường kính của mặt trời và mặt trăng.
Tôi không nhớ con số chính xác, nhưng đường kính của mặt trời thì lớn
hơn mặt trăng nhiều. Chúng ta có thể
thấy điều này với nhận thức giá trị thị giác vững chắc; nó được thấy. Tuy nhiên, A tỳ đạt ma câu xá nói rằng đường
kính của mặt trăng là năm mươi do tuần và của mặt trời là năm mươi mốt do tuần
– chi khác nhau môt do tuần.
Bây giờ, hãy để một bên khả năng tồn tại của Núi Tu Di nhưng
chỉ không thấy (bì nó không thể thấy); chúng ta có thể trực tiếp thấy kích
thước của mặt trời và mặt trăng. Chúng ta có thể thấy mặt trời và mặt trăng và
nếu mặt trời và mặt trăng là thấy được, thì không thể là chúng ta không thể
thấy kích thước của chúng. Chúng ta có
thể thấy hình tròn của chúng. Chúng ta
có thể cảm nhận sức nóng của chúng; chúng ta có thể thấy quỹ đạo của chúng; và chúng ta có thể
thấy kích thước của chúng. Vì chúng ta
có thể thấy chúng, thế thì khi chúng ta nhìn vào chúng, chúng ta có thể thấy có
một độ lớn khác nhau.
Do thế, khi A tỳ đạt ma câu xá nói rằng đường kính của chúng
là năm mươi và năm mươi mốt do tuần riêng từng cái, điều này phải bị bác bẻ lại
như một mức độ có thể giải thích được của ý nghĩa. Để nói rằng những gì chúng ta thấy trong dạng
thức đo lường vật chất không phải là trường hợp – đó là một hiện tướng lừa dối
– và những gì Thiên Thân Tôn Giả nói trong Câu Xá về về kích thước năm mươi và
năm mươi mốt do tuần của chúng là thật, chúng ta không thể nói thế. Đó là
thái độ căn bản của Phật học: khi chúng ta có một sự khám phá khoa học
đã chứng minh, chúng ta phải chấp nhận nó.
Khi khoa học không tìm ra điều gì đấy, có hai khả năng: sự không tìm ra của một điều gì đấy không
hiện hữu và trường hợp của mặc dù điều gì đấy tồn tại, nhưng không thể tìm thấy. Chúng là khác nhau. Thí dụ, về đời sống quá khứ và tương lai và
không thể minh chứng chúng một cách khoa học, chỉ là những nhà khoa học không
thể tìm thấy chúng, nhưng điều đó không chứng tỏ rằng chúng không tồn tại.
8- Giá Trị của Sự
Trình Bày Thời Luân về Vũ Trụ và Thân Thể như Căn Bản cho Việc Tịnh Hóa
BERZIN: Cả
Kaydrubjey và Kaydrub Norzang-gyatso nói trong luận giải Thời Luân của họ rằng
nếu căn bản cho việc tịnh hóa không được thiết lập một cách có giá trị, thì khó
khăn để thành lập một lộ trình hiệu lực trong tâm thức cho việc tịnh hóa. Nếu
đấy là trường hợp, đâu là một phương pháp thiện xảo để trình bày đến những
người phương Tây những căn bản ngoại tại và nội tại cho việc tịnh hóa trong Giáo
Pháp Thời Luân là có giá trị?
ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA:
Như đối với vấn đề môi trường bên ngoài là một căn cứ được tịnh hóa,
không nhất thiết chính xác như được diễn tả trong Thời Luân, nhưng trong tổng
quát có một căn cứ được tịnh hóa. Có một
môi trường bên ngoài: đó là ngoại Thời
Luân. Có hoàn cảnh bên trong: đó là nội Thời Luân. Rất đơn giản.
Chúng là những căn cứ được tịnh hóa.
BERZIN: Nhưng một
cách đặc biệt, chúng ta thiền quán trên tầng bậc phổ thông trong sự tương đồng
với núi Tu Di, bốn yếu tố, và v.v…
ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA:
Có bốn yếu tố: đất, nước, lửa, và
gió. Không cần chúng giống như thế này
hay thế kia một cách đặc biệt. Đối với
núi Tu Di, vì có những phía và vì có những phương hướng [trong thiên hà], phải
có một trung tâm – đấy là núi Tu Di. Nó
không nhất thiết hình dáng như thế này hay kích thước như thế nọ.
BERZIN: Tuy thế,
thiền quán Thời Luân thật sự đòi hỏi thực hành với một lộ trình tâm thức đấy là
tịnh hóa và là trong sự tương hopcj vói căn bản cho việc tịnh hóa. Chúng ta có nên giải thích trong những dạng
thức của điều này không?
ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA:
Vâng, chắc chắn giải thích. Có
những thứ này, nhưng không cần giải thích có bao nhiêu tảng đá trên đỉnh núi Tu
Di, giống như không cần giải thích hay thừa nhận có bao nhiêu cây cối trên thế
giới và có bao nhiêu núi non. Tuy thế,
trong tổng quát, có một thế giới (Diêm Phù Đề).
Thiết lập điều ấy như một căn bản cho việc tịnh hóa là đấy đủ.
Thí dụ, đối với việc tịnh hóa những tập hợp uẩn của chúng ta
có sự tịnh hóa của những kinh mạc năng lượng, nhưng không cần một sự tính đếm
chính xác những điều này và những kinh mạch ấy.
Tương tự, những tập hợp uẩn của chúng ta là được tịnh hóa, nhưng không
cần giải thích, hay biết con số những nguyên tử hay vi trần trong chúng.
[Vì thế, chúng ta có thể kết luận rằng sự tính đếm đặc thù
trong Thời Luân về những kinh mạch năng lượng, và v.v…, là một sự minh
họa. Nó cho phép chúng ta hành động với chúng song song
với những hệ thống thiên văn học, y học, và thiền học với những sự quán tưởng
trong một số lượng nào đấy của những hình tượng Phật với một số tay nào đó và
v.v… Tuy thế, sự tính đếm thật sự không phải tùy ý. Nó có sự quyết định thẩm quyền của Đức Phật
và kinh điển. Chúng ta cần một lối trung
đạo: không căn cứ cực đoan trên chữ nghĩa của kinh điển giống như chúng là giáo
điều, cũng không xem những gì trong kinh điển là hoàn toàn tùy tiện một cách
cực đoan và do thế không có sự tôn trọng đối với kinh điển hay nghĩ rằng không
có can hệ gì với kinh luận - y kinh giải nghĩa tam thế Phật oan, ly kinh nhất
tự tức đồng ma thuyết].
Thí dụ, chúng ta có mười hai tỉ tế bào não trong thân thể
chúng ta. Nhưng không nhất thiết phải có
mười hai tỉ lộ trình để tịnh hóa chúng.
[Do thế, chúng ta chỉ sử dụng những con số minh họa được Đức Phật lựa
chọn, một thẩm quyền hiệu lực, người đã có nhiều mục tiêu khác trong tâm thức
khi ban bố chúng. Thí dụ, những kinh
luận thẩm quyền liệt kê năm mươi mốt nhân tố tinh thần (51 tâm sở). Không phải tất cả chúng, nhưng là một con số
minh họa cho những mục tiêu đặc thù.]
Do vậy, trong tổng quát, hãy chỉ suy nghĩ rằng thân thể có
những kinh mạch năng lượng, khí năng lượng và những hạt năng lượng gốc cấu tạo, và ba loại này là
được tịnh hóa. Giống như thế, có ngoại
môi trường, bốn yếu tố, những lục địa và tiểu lục địa, và chúng cũng được tịnh
hóa.
Bây giờ, đối với việc núi Tu Di là tròn, điều này là
gì? Thật khó để mà giải thích. Tuy thế, dãi Ngân Hà có một trung tâm chung quanh mà nó xoay
quanh. Dãi Ngân Hà có một tỉ năm ánh
sáng xuyên qua, vì thế nó có một trung tâm.
Chúng ta có thể thiết lập điều ấy như núi Tu Di và rồi thì hình dạng có
thể được thôi, Okay thôi, vì nó phồng ra ở đỉnh và tròn.
9- Thời Luân Kim
Cương và Y Dược Tây Tạng
BERZIN: giáo huấn Nội Thời Luân giải thích những khí năng lượng và v.v… Quan
hệ của Nội Thời Luân và ý dược Tây Tạng là gì?
ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA: Tôi không biết một cách chi tiết. Tuy thế,, những chứng chỉ [cấp cho sự hoàn
tất việc học tập Y dược Tây Tạng] đề cập Ý nghĩa Nội tại Sâu xa (Chương)[một
tiểu luận của Đức Karmapa thứ Ba Rangjung Dorje trong chương thứ hai của luận
giải Cô Đọng Mật Điển Thời Luân của Pundarika, Vô Cấu Quang -
Vimalaprabha]. Do bởi đề cập này, tôi tự
hỏi mối liên hệ giữa học tập y dược và học tập luận giải này. Tôi đã từng hy vọng được thấy nó. Nếu sự giải thích của nó về những kinh mạch,
khí, và hạt năng lượng là giống nhau trong tầng bậc hoàn thành của Thời Luân,
thế thì trên căn bản của điều này, chúng ta sẽ biết ở đấy là sự liên hệ với y dược
tổng quát Tây Tạng trong dạng thức của những điểm này. Trái lại, tôi không biết.
Bây giờ, ông hỏi những điểm đặc thù trong y dược Tây Tạng
xuất phát từ Thời Luân, thì có một công thức cho việc chế tác một trong những
viên thuốc quý giá ngulchu-tsodey từ
thủy ngân. Điều này đến từ Cô Đọng Mật
Điển Thời Luân. Có một đề cập nào đấy về
nó trong Mật Điển Hai Chương Hô Kim
Cương, nhưng nhiều sự giải thích hơn trong Thời Luân. Việc chế tác những viên ngulchu-tsodey đến từ sự thực hành của Nyingma đại thành tựu
giả Drubtob Ogyen-lingpa [thế kỷ thứ mười bốn].
Ngài là một đại hành giả về Thời Luân và có những sự thực chứng lớn lao
về điều này. Có sự liên hệ ấy. Nhưng, về việc có một sự liên hệ khác hơn với
y dược Tây Tạng tổng quát, tôi không biết.
Phụ chú:
[1 ] the undissipating drop (mi-shigs-pa'i thig-le)
[2 ] một học giả Gelug vào thế kỷ 15
Ẩn Tâm Lộ ngày 24/01/2011
http://www.berzinarchives.com/web/en/archives/advanced/kalachakra/attending_kalachakra_i
0 nhận xét:
Đăng nhận xét