Những cảm xúc như
lòng từ bi mạnh mẽ, một cảm giác ân cần và quan tâm cho những người khác có thể
được cảm nhận một cách nhiệt tình, nhưng chúng chỉ mang đến cho tâm thức chúng
ta một chút náo động mà thôi. Thật sự mà nói, những cảm xúc này được phát khởi
và phát triển một cách thận trọng qua rèn luyện, qua lý trí. Chúng không đến
một cách lập tức.
1- Miễn Là Có
Điều Gì Đấy Chuyển Biến
Khi tôi nhìn vào
chính mình, trải qua năm tháng, thân thể vật lý đã thay đổi. Ngày qua
ngày, tất cả chúng ta trở nên già đi, nhưng tri thức chúng ta tăng
trưởng. Và kinh nghiệm của chúng ta lớn rộng. Nhưng có được tri
thức thì dễ dàng hơn việc hiện thực tri thức ấy. Áp dụng, thực hành thì
không dễ dàng. Đối với chính tôi cũng thế, điều ấy khó khăn. Tuy
nhiên, khi so sánh cung cách suy tư hôm nay với những gì hai mươi năm trước,
tôi nghĩ rằng có sự thay đổi nào đó, một tiến trình nào đấy. Không kể là
nhiều ít, miễn là có điều gì đấy chuyển biến.
Trong cách này, sự thay
đổi hay diễn tiến hay sự chuyển hóa của tâm thức là dễ dàng, trong một cách
khác là khó khăn. Nhưng một điều thật rõ ràng: tôi có thể bảo đảm
rằng nếu quý vị thực hiện một nổ lực liên tục với quyết tâm và niềm tin, tâm
thức có thể thay đổi. Do vậy, ngay cả nếu quý vị nghĩ rằng một diễn biến
nhỏ đã hiện thực, thì cũng đủ lý do để tiếp tục cố gắng, bởi vì một cách chậm
rãi, chậm rãi, quý vị đang thay đổi. Thậm chí nếu quý vị không thể đem
đến một sự thay đổi ấn tượng sâu sắc, thì ngay cả nếu quý vị có thể đạt đến một
sự đổi thay tối thiểu, điều ấy vẫn là chuyển biến. Trong Phật Pháp, và
trong những truyền thống Ấn Giáo cổ xưa, chúng ta tin tưởng trong sự tái sinh,
đời sống này tiếp đời sống khác. Do thế, trong kiếp sống này, nếu chúng
ta phát triển trong lĩnh vực tinh thần, ngay cả trong một tiến trình giới hạn
sẽ làm nên một tác động cho kiếp sống tới của chúng ta. Rồi thì một cố
gắng khác sẽ được thực hiện. Một tiến trình nho nhỏ chắc chắn sẽ
mang đến một ảnh hưởng trong những đời sống tới của chúng ta.
Vì thế, đấy là tại sao
Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni nói với chúng ta rằng một hành giả phải nghĩ trong
thời hạn của hàng kiếp sống, không chỉ bằng ngày và giờ. Khát vọng chiến
thắng khổ đau, ngay từ lúc ban đầu, là ở đấy. Nhưng chỉ mong ước thôi thì
không thể đạt đến mục tiêu. Cùng với nguyện vọng ấy, chúng ta phải tuân
theo một cung cách đúng đắn, một phương pháp thích đáng. Chúng ta phải
thực hiện nổ lực không mệt mõi, bất chấp năm tháng hay kiếp số vô tận.
Rồi thì, sẽ có sự chấm dứt khổ đau của chúng ta. Đức Phật đã minh chứng
điều này rất rõ ràng.
Có lẽ, đại đa số chúng ta
theo truyền thống Phật Giáo Tây Tạng, tin tưởng rằng trì tụng Om Mani Padme Humlà tốt lành
cho chúng sinh, đặc biệt đối với những ai đang đối diện những tình trạng bất
lợi. Do thế, ở đây, vào lúc bắt đầu, chúng ta hãy trì tụng một trăm lần Om Mani Padme Hum cho những người đã và đang khổ đau vì
trận động đất ở Gujarat.
Theo báo chí hôm nay, hơn
hai mươi nghìn người đã bị chết vì trận động đất. Hãy nghĩ về những người
đã chết hay bị thương hay bị mất người thân trong gia đình. Cũng hãy nghĩ
về những thú vật. Không phải nói, những con mèo, chó, và những con thú
khác cũng khổ đau.
Vì vậy, hãy nhớ đến tất
cả những chúng sinh ấy, đặc biệt là nhân loại, và những con người nghèo khổ ấy,
những người ngay cả trong khi sống, có những đời sống khó khăn, và cuối cùng
chết một cách thảm thương. Buồn quá, có phải không?
2- Lễ Hội Kumbha
Mela - Hữu Ngã Và Vô Ngã
Bây giờ tôi muốn chia sẻ
với quý vị một số cảm nhận, quan niệm, và kinh nghiệm cuộc viếng thăm của tôi
đến lễ hội Kumbha Mela[1]. Tôi đã ở đấy hai ngày. Thật sự đây không
phải là cuộc viếng thăm lần đầu tiên của tôi: trong năm 1966, tôi đã tham dự
một lễ hội Kumbha Mela khác. Lần ấy tôi ở lại rất ngắn, không có cơ hội
để nói chuyện một cách riêng tư với những vị lĩnh đạo tinh thần. Vì vậy
lần này, cùng với những buổi lễ chính thức, tôi đã có cơ hội để thảo luận với
Giáo Luận Sư[2] và các đạo sư Ấn Giáo khác.
Đối với lần viếng thăm
đầu tiên lễ hội Kumbha Mela năm 1966, tôi đã nhận một số lá thư từ một
nhóm Phật tử bày tỏ sự phật ý của họ về cuộc viếng thăm của tôi đến những gì
được xem là lễ hội của Ấn Giáo. Lần này cũng thế, một số thân hữu của tôi
đã biểu lộ một chút dè dặt về cuộc viếng thăm của tôi ở đấy. Rồi thì tôi
đã suy tư, và tôi nghĩ mọi người biết, đối với sự quan tâm và cố gắng của tôi
để thúc đẩy những giá trị nhân bản và hòa hiệp tôn giáo. Đây là hai chí
nguyện mà tôi sẽ mang theo cho đến khi tôi chết.
Trong hơn mười lăm năm,
bất cứ khi nào có cơ hội, tôi đã thực hiện những cuộc hành hương đến các thánh
địa của những tôn giáo khác nhau như Jerusalem, và Lourdes ở Pháp. Ở Ấn
Độ cũng thế, khi tôi ở một nơi gần với những điện đường, đền thờ Hồi Giáo, chùa
viện, nhà thờ, tôi sẽ đến để bày tỏ lòng tôn kính. Tôi cảm thấy rằng tham
dự lễ hội Kumbha Mela là một cơ hội tốt để bày tỏ lòng tôn kính của tôi
đến Ấn Giáo, tín ngưỡng cổ truyền của xứ sở này. Tôi ở trên quốc gia này
đã bốn mươi năm và luôn luôn cảm thấy rằng thật quan trọng để bày tỏ lòng
tôn kính của tôi và học hỏi đến những truyền thống khác. Tôi cũng
bao gồm những truyền thống khác biệt với Ấn Độ như Ki Tô Giáo, Hồi Giáo, Do
Thái Giáo, và những truyền thống đã sinh trưởng trên đất nước này như Ấn Giáo,
Kỳ-Na Giáo, Phật Giáo, Tích-Khắc Giáo (Đạo Sikh), v.v... Tôi nghĩ những
truyền thống phát sinh từ trong nước này có một mối quan hệ gần gũi thật đặc
biệt.
Vào thời Đức Phật, đã có
những cuộc bàn cải hay tranh luận giữa những truyền thống Phật Giáo và không
Phật Giáo. Long Thọ, Thánh Thiên, Phật Hộ, Nguyệt Xứng, Pháp Xứng, và sau
này, Tịch Hộ và Liên Hoa Giới, và những đại sư Phật Giáo khác đã viết một cách
toàn diện về tư tưởng của những trường phái Ấn Độ cổ xưa. Loại tranh luận
này, tôi cảm thấy là cực kỳ lợi lạc và tốt đẹp. Cũng thế, trong Đạo Phật,
có nhiều bàn cải, nhiều tranh luận. Tôi cảm thấy có hai quan điểm đối
kháng và rồi thì tranh luận những giá trị của mỗi quan điểm là rất hữu ích để
làm cho tâm thức sâu sắc. Những cuộc tranh luận này không như sự đấu
tranh chính trị. Những điều này là rất tích cực, tôi thật cảm thấy nếu
không có điều này, luận lý hay tư tưởng Đạo Phật có thể trở nên kém phát triển
hơn. Tôi cảm thấy những tranh luận và bàn cải này là rất lợi ích, nhưng
những người thiển cận hay đầu óc hẹp hòi đôi khi có một cái nhìn sai lầm về
những cuộc tranh luận này. Các cuộc tranh luận sau đó tạo nên những sự
phân chia và đưa đến đấu tranh cùng xung đột. Do thế, tôi nghĩ thật quan
trọng để hoan nghênh những quan điểm đối lập và để học hỏi lẫn nhau.
Đức Phật, trong những
buổi đầu của cuộc đời Ngài như một du sĩ, đã học hỏi từ truyền thống Ấn Giáo.
Rồi thì Ngài thể nghiệm và sau này đạt đến giác ngộ. Trong việc làm
này, Ngài đã bác bỏ nhiều ý tưởng và quan điểm của truyền thống Ấn Giáo cổ
truyền nhưng đồng thời cũng chấp nhận nhiều thứ, như giới, định và tuệ
quán. Sự phân biệt giữa Phật Giáo và không Phật Giáo là lý thuyết về hữu
ngã và vô ngã. Vô ngã là quan điểm của tôi; hữu ngã là khái niệm của
họ. Không có vấn đề gì [trở ngại]!
Tôi tin tưởng trong vô
ngã, và qua điều này, tôi đạt được nhiều lợi ích. Nó hổ trợ cho
quan điểm và cảm nhận của tôi. Nhưng đối với họ, lý thuyết hay khái niệm
hữu ngã là rất lợi ích. Tôi chấp nhận sự phân chia như thế. Tôi cảm
thấy rằng trong khi tôi cố gắng để có những mối quan hệ gần gũi hơn với những
truyền thống khác, tôi phải thể hiện một nổ lực to lớn hơn để phát triển một sự
thấu hiểu tốt đẹp hơn về những quan điểm trong các truyền thống ấy.
Vì vậy đấy là những lý do
chính tại sao tôi đã tham dự lễ hội Kumbha Mela. Sau hai ngày ở đấy, tôi
thật sự hài lòng. Tôi ngưỡng mộ những lĩnh đạo Ấn Giáo ở đấy. Họ có
đầu óc rất cởi mở. Khi tôi đi vào nơi hội họp, một lĩnh đạo nắm chặc tay
tôi và đọc lời cầu nguyện Phật Giáo: Buddham
Sharnam Gacchami - Con vể nương tựa Phật - thật dễ thương làm sao, có phải
không? Rất đáng yêu. Trong lời bình luận, ông nói rõ rằng Đức Phật
khuyến khích đại từ bi, mahakaruna, và bất bạo động. Sau này một Giáo
Luận Sư khác đã nói rằng thật rất quan trọng là chúng ta đã đến gần nhau
hơn. Điều ấy thật tuyệt vời. Tôi cảm thấy điều này có thể là
một sự khởi đầu mới.
Một điều có thể hiểu
nhưng đáng buồn là một số Phật tử trong xứ sở này, đặc biệt những người Phật tử
mới (neo-Buddhists), có một thái độ tiêu cực hơn đối với Ấn Giáo. Không
có lợi ích gì! Chất chứa những cảm nhận tiêu cực đối với người khác không
phải là cung cách của Đạo Phật. Về phía Ấn Giáo, tôi nghĩ đã đến lúc để
thay đổi hệ thống đẳng cấp và những tập quán lỗi thời. Chúng ta phải
tuyên bố một cách công khai nó: những tập quán này đã lỗi thời. Tôi mong
ước cho những hành động phối hợp để loại trừ tất cả những cảm giác tiêu cực và
những việc tiêu cực. Nếu, thay vì bình phẩm người khác, chúng ta cố gắng
để thấu hiểu họ và cải thiện những mối quan hệ của chúng ta; những nhà chính
trị, và những người hiểm độc, những kẻ lợi dụng các sự khác biệt tôn giáo cuối
cùng sẽ bị cô lập.
Tôi thật sự cảm thấy
chuyến hành hương của tôi đến lễ hội Kumbha Mela là một cơ hội tốt để thực hiện
một cống hiến khiêm tốn. Do thế, đấy là câu chuyện. Một vấn đề quan
trọng khác: trước khi tôi đến đấy, tôi đã nghe có rất nhiều bụi, tôi dự đoán là
tôi có thể phải cảm mạo. May mắn thay, không có bệnh hoạn gì mặc dù bụi
bặm! Một việc khác mà tôi muốn chia sẻ với những thân hữu Phật tử của tôi, đặc
biệt là những Phật tử Tây Tạng. Hơn hai mươi lăm triệu người đã tập họp
tại lễ hôi Kumbha Mela, và toàn bộ thành viên thuần chay tịnh. Không có
một con thú nào bị hy sinh, và tôi nghĩ điều ấy thật là kỳ diệu. Nếu mười
nghìn người Tây Tạng tụ hội, tôi nghĩ những người hàng thịt sẽ rất bận
rộn. Một điều hơi kém may mắn.
Qua nhiều năm, chúng tôi và
một số tu học viện đã và đang thực hiện những nổ lực để khuyến khích việc chay
tịnh trong tu viện. Chúng ta cũng phải thực hiện nổ lực này khi chúng ta
có những cuộc tập họp to lớn. Tôi nghĩ chúng ta phải giữ điều này trong
tâm.
3- Cảm Xúc Và
Cuộc Sống
Tôi trở lại chủ để những
cảm xúc, không có chúng, cuộc sống của chúng ta sẽ trở nên vô vị. Cảm xúc
có thể rất tốt, nhưng tôi nghĩ rằng quý vị phải làm một sự phân biệt trong
những cảm xúc. Một số, trong ngắn hạn, trông thật ý vị, nhưng về lâu về
dài là tàn phá. Một số trông hơi khó chịu lúc ban đầu, nhưng càng về sau,
có một lợi ích vô biên. Thật quan trọng để biết và có thể phân biệt những
loại cảm xúc nào là hữu ích và những thứ nào là tiêu cực và phải được loại
trừ. Ở đây, trước tiên, mọi chúng sinh, kể cả cây cỏ, có quyền để sinh
tồn. Rồi thì, trong những chúng sinh, tất cả những ai đã từng trải nghiệm
với đớn đau và vui thích có quyền không chỉ sinh tồn mà cũng hiện hữu một cách
hạnh phúc. Đấy là quyền căn bản của chúng ta. Sinh vật có tri giác,
hay chúng sinh những sinh vật có khả năng để cảm nhận, những kẻ có nhận
thức, có khát vọng vượt thắng khổ sở và đớn đau, cùng đạt được hạnh phúc và
niềm vui sướng. Có hai mức độ của những kinh nghiệm mang đến hạnh phúc
hay khổ đau. Một đơn thuần là cảm giác. Trong khi thấy điều gì xinh
tươi hay tốt đẹp, chúng ta có thể phát sinh sự thỏa mãn tinh thần. Như
một âm thinh êm dịu có thể làm chúng ta vui vẻ. Trong sự quan tâm này,
con người và thú vật có những trải nghiệm tương tự. Về mức độ cảm giác, chúng
ta có thể trải nghiệm sự hài lòng hay vui thích hay đớn đau thân xác.
Đối với con người mức độ
cảm giác rất quan trọng. Do thế, sự thoãi mái và phương tiện vật chất là
cần thiết và hữu dụng bởi vì chúng cho chúng ta niềm vui thích ở mức độ
này. Điều này sẽ bao gồm một khu vườn xinh đẹp với những con chim và thú
vật, âm nhạc, mùi hương thơm tho, vị nếm khả quan, cũng như sự xúc chạm, kể cả
kinh nghiệm ái dục. Chúng ta có những điểm này chung với các động vật.
Tuy nhiên, nếu chúng ta
chỉ tập trung trên mức độ ấy, chúng ta không là con người hoàn toàn. Do
bởi sự thông minh của chúng ta, chúng ta có trí nhớ tốt hơn thú vật, một khả
năng to lớn hơn để quán chiếu và để thấy những viễn tượng lâu xa - không chỉ
trong đời sống này mà qua nhiều kiếp sống và thế hệ. Con người có khả
năng để duy trì ký ức của quá khứ lâu xa: chúng ta đã viết và lưu giữ
những kinh nghiệm hàng nghìn năm. Nhưng do bởi sự thông minh của chúng
ta, nguồn gốc sự lo lắng có khuynh hướng gia tăng. Do bởi điều này, đôi
khi, chúng ta có quá nhiều dự đoán và những điều này làm cho sự lưỡng lự, nghi
ngờ và sợ hãi của chúng ta thức dậy. Trong chúng ta những điều này
mạnh mẽ hơn những động vật rất nhiều.
Rõ ràng, một số cảm giác
lo lắng hậu quả từ sự thông minh của con người. Loại bất hạnh này không
thể vượt thắng bằng sự thoãi mái vật chất. Chúng ta thấy những người giàu
có, những người có nhiều sự thoãi mái vật chất và không cần phải ưu tư, tuy
thế, họ là những người thiếu niềm vui tinh thần. Do vậy, sự buồn phiền
hay không thoãi mái hay bồn chồn tinh thần không thể được xóa đi bằng sự thoãi
mái vật chất đơn thuần. Trái lại, nếu trên mức độ tinh thần, có niềm hạnh
phúc và hài lòng, sự thiếu tiện nghi vật chất có thể được đối phó một cách dễ
dàng. Trong một số trường hợp, chịu đựng những khó khăn vật chất có thể
mang đến sự toại nguyện tinh thần hơn.
Khi chúng ta đã được
chuẩn bị tinh thần, chúng ta sẳn sàng để đối diện bất cứ khổi lượng bất tiện
vật lý nào. Thế nên, mức độ kinh nghiệm tinh thần là siêu tuyệt hơn mức
độ cảm nhận của giác quan (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân). Đó là tại sao sự
tiến triển hay phát triển vật chất là thiết yếu, nhưng việc đạt được mục tiêu
vật chất đơn thuần không thể thỏa mãn, không thể hoàn thành tất cả những yêu
cầu của con người. Con người chúng ta cần hơn thế. Kẻ tàn phá
niềm hòa bình và thoải mãi tinh thần là bộ phận của cảm xúc mà chúng ta gọi là
cảm xúc tiêu cực.
Những cảm xúc như lòng từ
bi mạnh mẽ, một cảm giác ân cần và quan tâm cho những người khác có thể được
cảm nhận một cách nhiệt tình, nhưng chúng chỉ mang đến cho tâm thức chúng ta
một chút náo động mà thôi. Thật sự mà nói, những cảm xúc này
được phát khởi và phát triển một cách thận trọng qua rèn luyện, qua lý
trí. Chúng không đến một cách lập tức. Nhưng những cảm xúc khác như
giận dữ và ghen tỵ, đến một cách tức thì, mặc dù chúng ta có thể có một lý do
giả tạo nào đấy cho sự xuất hiện của chúng. Và những cảm xúc này thường
thường là tàn phá, trái lại những cảm xúc như từ ái, bi mẫn mạnh mẽ, và một cảm
giác ân cần về lâu về dài, là hữu dụng, có ích và lợi lạc. Sự phân biệt
giữa những cảm xúc tiêu cực và tích cực căn cứ trên sự kiện rằng từ bản chất tự
nhiên tất cả chúng ta đều muốn hạnh phúc và không muốn khổ đau. Do vậy,
bất cứ điều gì - ngoại tại cũng như nội tại - thứ nào mang đến hạnh phúc một
cách căn bản là tích cực. Bất cứ điều gì mang đến trải nghiệm khổ đau là
tiêu cực. Tận cùng tư duy của Đạo Phật quan tâm, định luật căn bản là:
chúng ta muốn hạnh phúc. Quyền căn bản của chúng ta là đạt được hạnh
phúc. Do thế, những thứ nào phát sinh sự toại nguyện, vui sướng, và hạnh
phúc là tích cực bởi vì đây là những gì chúng ta tìm cầu. Những cảm xúc
tiêu cực tàn phá hạnh phúc của chúng ta.
4- Ba Trình Độ
Đáp Ứng Với Những Cảm Xúc
Tôi muốn chia sẻ với quý
vị ba trình độ mà chúng ta đáp ứng với những cảm xúc tiêu cực trên ấy.
a- Trình độ thứ
nhất, tuân theo những đạo đức thế tục và không đụng chạm gì đến niềm tin tôn
giáo. Đấy là cố gắng sử dụng óc
thông minh của chúng ta để phân tích những gì xãy ra trong các hoàn cảnh cụ
thể. Chúng ta bắt đầu bằng việc xác minh những lợi ích hay hậu quả dài
hạn và ngắn hạn của những cảm xúc tiêu cực. Khi chúng ta trở nên tỉnh
thức với những hậu quả tiêu cực dài hạn, chúng ta sẽ bắt đầu hạn chế những cảm
xúc tiêu cực của một cách cẩn trọng. Hãy nhìn những hậu quả có thể có của
một ý chí bệnh hoạn mạnh bạo đến người khác, như thù hận. Khi nào mà ý
chí bệnh hoạn mạnh bạo đến người khác phát triển, sự hòa bình của tâm hồn chúng
ta lập tức tiêu tan. Một giấc ngủ an bình cũng biến mất. Và trong
cách này, sức khỏe thân thể chúng ta tàn lụi. Những cảm xúc tiêu cực mạnh
mẽ tàn phá sự hòa bình của tâm hồn và cả sức khỏe cường tráng. Cũng
thế nếu chúng ta có những cảm nhận tiêu cực mạnh bạo đối với người khác, cuối
cùng chúng ta cảm thấy rằng những người khác cũng có một loại thái độ tương
tự. Như một kết quả, khi chúng ta gặp gở người nào đấy, những cảm nhận
nghi ngờ, sợ hãi, và khó chịu sinh khởi.
Loại thái độ nghi ngờ
này, tôi cảm thấy, chống lại bản chất tự nhiên của con người bởi vì chúng ta là
những động vật xã hội. Cho dù chúng ta thích hay không thì chúng ta cũng
phải sống trong cộng đồng nhân loại; chúng ta không thể sống còn trong cô
lập. Chúng ta tự đặt mình trong một hoàn cảnh khó khăn khi chúng ta xử sự
một cách tiêu cực với những con người mà chúng ta lệ thuộc. Tôi nghĩ cư
dân trong một thành phố lớn giống như một cộng đồng nhân loại, tuy thế nhiều cá
nhân cảm thấy rất đơn côi. Đôi khi con người không tin tưởng và tôn trọng
những người khác.
Trong bất cứ một cư dân
nào, một vài người có thể tinh quái, nhưng một cách tổng quát, nếu chúng ta cư
xử với người khác như những người anh chị em, họ sẽ đáp ứng một cách phù
hợp. Chúng ta biết, chúng ta có thể nói rằng những người kia trải nghiệm
những thứ như chúng ta. Tôi có sự giận hờn, và tương tự thế, người khác
cũng có sự sân hận. Tôi, đôi khi, có một sự ghen tỵ nào đấy, và những
người khác cũng giống như thế. Không có những sự khác biệt giữa
chúng ta, vì thế tôi dối xử với người khác như chính tôi... Không có gì
để dấu diếm... hãy cởi mở, thẳng thắn. Trong cách này, tôi nghĩ sự tin
cậy và tình thân hữu có thể phát triển.
Quý vị có thể thấy một
cách rõ ràng rằng nhiều nổi bất hạnh mà chúng ta trải nghiệm trong đời sống là
qua những sai lầm nơi trí óc của con người: chúng ta không phân tích những hoàn
cảnh một cách đúng đắn vì thế chúng ta trải nghiệm các cảm xúc tiêu cực.
Để vượt thắng những cảm xúc tiêu cực, chúng ta phải trở nên tỉnh thức với những
hệ quả ngắn hạn và dài hạn. Chúng ta cũng phải phân tích thực tại của
hoàn cảnh. Thực tại được làm nên từ những bộ phận tương liên. Mọi
thứ xãy ra do bởi nhiều nguyên nhân và điều kiện. Đấy là thực tại, đấy là
thực tế. Nhưng trong tâm thức chúng ta, trong nhận thức của chúng ta, nếu
điều gì đấy bất hạnh xãy ra, chúng ta hướng sự chú ý vào một nguyên nhân và
trách cứ nó. Rồi thì chúng ta bộc lộ sự giận dữ. Nhưng nếu chúng ta
suy nghĩ một cách cẩn thận hơn, nếu chúng ta thực tế trong sự thừa nhận của
chúng ta, chúng ta biết rằng những việc này xãy ra do bởi nhiều nguyên nhân và
điều kiện, trong ấy bao gồm cả thái độ tinh thần của chúng ta. Do vậy, nếu
chúng ta biết rằng trong thực tế, có nhiều nguyên nhân, chúng ta không trách cứ
một nhân tố đơn lẻ.
Tương tự thế, những điều
tốt lành xãy ra do bởi nhiều nguyên nhân. Nếu chúng ta thấu hiểu điều
này, không có nhiều căn bản cho việc phân biệt giữa tốt và xấu. Nếu ai
đấy lợi dụng chúng ta, điều ấy là sai, không công bằng, chúng ta phải chấm dứt
điều ấy. Chúng ta phải thực hiện sự những biện pháp trả đủa nhưng không
với những cảm xúc tiêu cực. Điều ấy là có thể và thực sự những biện pháp
như vậy là tác động hơn. Vì thể qua một sự tỉnh thức về thực tại và những
kết quả liên hệ, chúng ta có thể thay đổi thái độ của chúng ta. Cuối
cùng, chúng ta có thể phát triển một niềm tin rõ ràng rằng những cảm xúc nào
đấy là vô ích và có thể chứng tỏ sự tai hại. Một khi chúng ta khuếch
trương sự tin chắc này, thái độ của chúng ta đối với những cảm xúc tiêu cực sẽ
cách biệt hơn; chúng ta không chào đón chúng. Nhưng cho đến khi chúng ta
mở rộng niềm tin này, chúng ta sẽ lầm lẩn những tiêu cực này, những cảm xúc tàn
phá như một bộ phận của tâm thức chúng ta, một phần của chúng ta.
Trong sự liên hệ này, tôi
không nói đển những vấn đề tôn giáo, mà chỉ đơn giản từ cảm nhận ân cần cho mỗi
chúng ta, nhìn những người khác như một bộ phận của cộng đồng của tôi.
Thực sự, tất cả chúng ta là bộ phận của cộng đồng nhân loại. Nếu
nhân loại hoan lạc, có một đời sống thành công, một tương lại hạnh phúc, tôi sẽ
lợi lạc một cách tự động. Nếu con người khổ đau, tôi cũng sẽ đau
khổ. Nhân loại như một thân thể, và chúng ta là những bộ phận của thân
thể ấy. Một khi chúng ta nhận ra điều này, một khi chúng trau dồi thái độ
loại này, chúng ta có thể mang đến một sự thay đổi trong cung cách suy nghĩ của
chúng ta. Một cảm nhận ân cần, hy hiến, nguyên tắc, đồng nhất với nhân
loại - điều này rất thích đáng trong thế giới ngày nay. Tôi gọi điều này
là đạo đức thế tục, và đây là trình độ thứ nhất để đối phó với những cảm xúc
tiêu cực.
b- Trình độ thứ hai trong sự liên hệ này được hướng dẫn bởi
tất cả những truyền thống tôn giáo quan trọng, cho dù là Ki Tô Giáo hay Hồi
Giáo, Do Thái hay Ấn Giáo. Tất
cả đều mang thông điệp của từ ái, bi mẫn, tha thứ, bao dung, toại nguyện, và
nguyên tắc. Đây là những biện pháp đối phó với các cảm xúc tiêu
cực. Khi sân hận sắp bùng phát, khi thù oán sắp trổi dậy, hãy suy tư về
bao dung. Điều quan trọng là dừng lại bất cứ sự bất mãn tinh thần nào khi
chúng ta cảm thấy nó bởi vì nó sẽ đưa đến sân hận hay thù oán.
Kiên nhẫn là biện pháp
đối phó với sự bất mãn tinh thần. Tham lam và tính vị kỷ của nó - Tôi
muốn điều này, tôi muốn điều nọ - mang đến bất hạnh và cũng là sự tàn phá môi
trường, đầu độc kẻ khác, và làm gia tăng khoảng cách giữa nghèo và giàu.
Biện pháp đối phó là sự toại nguyện. Khi chúng ta tham lam, nếu chúng ta
trải nghiệm thậm chí một chút thất vọng trong hạnh phúc của chúng ta, chúng ta
sẽ hoàn toàn bị sụp đổ. Vì thế thực tập sự toại nguyện là hữu ích trong
đời sống của chúng ta. Tự nguyên tắc là chống lại việc đưa chúng ta đến
những cảm xúc tiêu cực và là một cung cách để bảo vệ chúng ta khỏi những tai
họa về lâu về dài. Nguyên tắc này không liên hệ đến một mệnh lệnh nhưng
bảo đảm cứu chính mình khỏi một cuộc sống khốn khó trường kỳ.
Mọi tôn giáo đều nói về
những phương pháp từ bi và tha thứ. Nếu chúng ta chấp nhận tôn giáo,
chúng ta nên đón nhận những phương pháp tôn giáo một cách nghiêm túc và chân
thành và sử dụng chúng trong đời sống hàng ngày. Rồi thì một đời sống đầy
đủ ý nghĩa sẽ phát triển. Bằng khác đi sẽ không có gì thay đổi. Thí
dụ, những người Tây Tạng chúng tôi có thể lần tràng hạt và trì niệm điều gì
đấy, nhưng tâm thức chúng tôi có thể là ở đâu ấy. Một số anh chị em Ki Tô
hữu có thể đến thánh đường mỗi Chủ Nhật và có lẻ có một thời khắc ngắn nào đấy
nhắm mắt lại, nhưng họ lại lại tiếp tục một đời sống mà không có gì thay
đổi. Sự thực tập thực tế là ở bên ngoài, không phải là ở bên trong thánh
đường, bởi vì chúng ta thâm nhập vào những hoàn cảnh thực sự của đời sống bên
ngoài nhà thờ nơi chúng ta đối diện với mỗi khả năng của sân hận, ganh tỵ, dính
mắc, chấp trước, v.v... Do vậy, sự thực tập thực sự là phải được hoàn tất ở bên
ngoài những nơi thờ phượng.
Mới đây, tôi đã gặp một
mục sư Ki Tô, người đã hỏi tôi cho một ý kiến. Ông cảm thấy rằng mọi
người không thích thú trong giáo lý Ki Tô bởi vì họ cảm thấy nó chỉ liên hệ
chút ít với đời sống hàng ngày của chúng ta. Trong quan điểm của tôi,
điều này không phải do bất cứ khiếm khuyết nào trong thông điệp của Ki Tô Giáo,
nhưng mà qua sự nhấn mạnh sai sót. Sự thực tập tôn giáo không chỉ là cầu
nguyện mà là sử dụng những phương pháp tôi đã đề cập trước đây: từ ái, bi
mẫn, tha thứ. Nếu những phương pháp này được đón nhận một cách nghiêm túc
và đặt vào trong sự thực hành trong đời sống hàng ngày của mỗi người, chúng sẽ
có liên hệ. Thí dụ, nếu chúng ta thực hành bao dung, Thượng Đế sẽ vui
mừng. Nếu chúng ta thấy những điều tốt đẹp, tham lam và dính mắc sẽ phát
triển. Rồi thì chúng ta nhớ rằng chúng ta là một thành viên của Thượng Đế
và chúng ta đáng lẻ phải hoàn thành mong ước của Thượng Đế. Sự toại
nguyện liền theo, và tham lam biến mất. Nếu chúng ta áp dụng một cách
chân thành cốt tủy của bất cứ tôn giáo quan trọng nào, tự động sẽ có liên hệ
với đời sống của chúng ta. Đời sống sẽ trở nên đầy đủ ý nghĩa hơn.
Đây là trình độ thứ hai của các biện pháp đối phó với những cảm xúc tiêu cực.
c- Trình độ thứ ba
là cung cách của Đạo Phật. Một
cách căn bản, nếu chúng ta cố gắng để tìm kiếm nguồn gốc của tất cả những loại
cảm xúc phiền não như sân hận, và v.v..., chúng ta sẽ thấy bốn nhận thức sai
lầm. Một là nhận thức sai lầm về những loại thực tại khác nhau. Thí
dụ, chúng ta có khuynh hướng thấy những gì vô thường là thường còn và tồn tại
mãi mãi. Điều ấy đưa đến khổ não và nhiễu loạn tinh thần. Tương tự
thế, chúng ta có khuynh hướng thấy khổ đau như hạnh phúc. Thí dụ, chúng
ta thấy những trải nghiệm nhiễm ô như một nguồn gốc của hoan lạc và hạnh
phúc. Và tương tự, chúng ta có khuynh hướng thấy những gì bất tịnh là là
thanh tịnh. Chúng ta không thể thấy sự bất tịnh của thân thể vật lý và có
khuynh hướng xem nó như điều gì đấy trong sạch và thanh tịnh và rồi dính mắc
với nó. Cũng thế, chúng ta có khuynh hướng thấy những gì vị tha vô ngã
như có một tự ngã căn yếu nào đấy, một tự ngã độc lập. Một cách căn bản,
những loại nhận thức sai lầm này thổi phồng tâm thức chúng ta và từ đấy chúng
ta phát triển những loại cảm xúc phiền não khác nhau.
Do bởi điều này, Đức Phật
đã dạy ba mươi phẩm trợ đạo để đối phó với những nhận thức sai lầm này.
Trong đây, Ngài nói về Bốn lĩnh vực quán niệm.
* Tỉnh thức thứ nhất tuyên bố nhận thức sai
lầm quan hệ đến bản chất tự nhiên của thân thể. Bản chất thật sự của thân
thể là những thứ được làm nên bởi những vật liệu bất tịnh khác nhau. Khi
chúng ta nghiên cứu và phản chiếu một cách gần gũi nó, chúng ta có thể thấy
rằng thân thể là một bản chất bất tịnh, một bản chất vô thường. Cho dù
chúng ta thẩm nghiệm bản chất thân thể trong dạng thức nguyên nhân của nó hay
thực thể hiện tại của nó, chúng ta sẽ thấy rằng nó là bất tịnh, không
sạch. Thí dụ, nếu chúng ta phản chiếu trên nguyên nhân của thân thể vật
lý, nguyên nhân là hổn hợp của tinh cha và noản châu của mẹ.
Trong thực thể và bản
chất hiện tại của nó, chúng ta có thể thẩm tra thân thể chúng ta từ đỉnh đầu
đến gót chân của chúng ta, và chúng ta sẽ thấy rằng nó là bất tịnh và ô nhiễm
từ trong bản chất. Nếu chúng ta nhìn vào những gì được sản sinh bởi thân
thể - nước tiểu, phân, v.v... - chúng ta chỉ thấy những thứ vật chất không
sạch. Do thế, trong thực tế, thân thể giống như một nhà máy sản xuất ra
những vật chất ô uế. Khi bộ máy này làm việc tốt, hình dạng hay màu sắc
của những thứ đến từ nó là khá tốt, nhưng nếu điều gì đấy sai lạc, nhiều thứ
bất thường xãy ra. Thật sự, những thứ đắc giá nhất và đẹp đẻ nhất được
tiêu thụ là được làm bằng cổ máy dơ bẩn này. Hãy suy tư theo những dòng
này.
Không chỉ thế, mà thân
thể cũng hoạt động như căn bản cho những thứ khổ đau xa hơn. Chúng ta sẽ
thấy rằng thân thể tâm sinh lý được làm nên do sự kết hợp và cùng tồn tại của
bốn yếu tố căn bản. Khi chúng ta thấy sự hiện diện của bốn yếu tố này -
lửa, nước, đất và không khí - chúng ta nhận ra rằng chúng đang chống dối nhau
trong bản chât tự nhiên. Khi chúng ta nói, "tôi vui vẻ" hay
"tôi mạnh khỏe", chúng ta đang nói là chúng ta mạnh khỏe trong ý
nghĩa rằng bốn yếu tố này cân bằng trong năng lực của chúng. Khi có một
sự thay đổi nhỏ trong sự cân bằng năng lực của bốn yếu tố này chúng ta bị một
chứng bệnh nào đấy. Sự thanh thoát đã mất cân bằng.
Hiện nay tôi đã hơn sáu
mươi sáu tuổi. Cho đến bây giờ, thân thể này vẫn tồn tại do bởi nhiều lý
do. Nhưng cho thân thể đơn thuần sống còn ... nó có ý nghĩa gì? Tuy
nhiên, nếu sự thông minh kỳ diệu của con người tồn tại và thể hiện chức năng
một cách bình thường, chúng ta cố gắng để trau dồi lòng vị tha vô hạn và một sự
thấu hiểu sâu xa hơn về thực tại. Điều ấy là tuyệt diệu: đó là quan điểm
của Đạo Phật. Vậy thì hãy trầm tư trên những dòng này. Trong cách
này, nếu chúng ta phản chiếu một cách thích đáng, chúng ta sẽ có thể thấu hiểu
một cách rõ ràng làm thể nào chúng ta nhận thức thân bất tịnh này như điều gì
đấy thanh tịnh và vô nhiễm.
* Khi chúng ta nói về nhận thức sai lầm thứ hai,
đấy là nhận thức những gì khổ não như hạnh phúc, chúng ta không nói về trình độ
thô thiển thông thường bởi vì ở tại trình độ nông cạn thông thường, không ai
xác định khổ đau là hạnh phúc. Chúng ta đang nói về một trình độ
thâm sâu hơn. Như tôi đã đề cập phía trước, có hai loại cảm giác:
cảm giác ở mức độ thân thể và cảm giác ở mức độ tâm thức. Hầu hết những
hạnh phúc thân thể sinh khởi qua một sự giảm sút khổ não của thân thể.
Thí dụ, nếu chúng ta đang run lẩy bẩy trong lạnh giá một lúc nào đấy và đột
nhiên chạy vào trong ánh nắng và ở đấy, chúng ta cảm thấy hài lòng và vui
vẻ. Không có một sự toại nguyện nào ở trong ánh nắng ấy: mà chỉ vì nó đem
đến một sự giảm thiểu của khổ đau từ sự lạnh giá.
Để minh chứng điều này,
nếu nó là một niềm hạnh phúc chân thật miên viễn, điều gì đấy độc lập, chúng ta
có thể ở trong ánh nắng ấy một hồi lâu và niềm hạnh phúc chúng ta sẽ tăng lên
chứ không giảm xuống. Nhưng lại không phải trường hợp đó. Sau một
lúc, chúng ta sẽ cảm thấy nóng lên, và sẽ cần di chuyển vào trong bóng mát một
lần nữa. Cảm giác hạnh phúc và toại nguyện ban đầu sẽ biến thành khổ sở
nếu chúng ta ở trong nắng quá lâu. Trong nhiều trường hợp, một cảm giác
khoan khoái vật lý dường như tốt đẹp, toại nguyện, và sung sướng, nhưng
trong một sự phân tích sát sao hơn, nếu tiếp tục, nó sẽ trở thành không thoãi
mái.
Quan tâm đến cảm giác
tinh thần của hạnh phúc, ngay khi chúng ta ở dưới sự khống chế cùa những cảm
xúc phiền não, tâm thức không độc lập, nó không tự do. Thế nên, nếu chúng
ta phản chiếu một cách thích đáng, chúng ta sẽ thấu hiểu một cách rõ ràng rằng
tâm thức chúng ta sẽ chạm trán với khổ đau một cách chắc chắn ngay cả nếu chúng
ta cảm thấy hạnh phúc tạm thời. Thí dụ, nếu chúng ta khổ đau vì một chứng
bệnh kinh niên, chúng ta có thể không chạm trán với những đớn đau cấp tính vào
mọi lúc, nhưng chúng ta không khỏe mạnh; chúng ta không tự do khỏi chứng bệnh
kinh niên ấy.
* Nhận thức
sai lầm thứ ba là thấy những
gì vô thường lại cho là thường. Đấy là do bởi một sự chấp trước mạnh mẽ
vào tự ngã mà trong đời sống hằng ngày chúng ta có khuynh hướng để thấy kinh
nghiệm của chúng ta về hạnh phúc như điều gì đấy sẽ tồn tại lâu dài, điều gì
đấy sẽ hiện hữu mãi mãi. Chúng ta có khuynh hướng để nhận thức những thứ
này như thường còn. Thí dụ, khi tôi đi ngang qua một lâu đài cổ, tôi nghĩ
rằng vào lúc lâu đài được xây lên, vị vua đã cảm thấy một cách tự nhiên rằng nó
là bền vững. Hãy nhìn vào Vạn Lý Trường Thành ở Trung Hoa. Xuyên
qua nhiều năm, thật nhiều người, qua những sự chỉ huy khắc nghiệt, đã dựng lên
bức tường thành. Vị hoàng đế đã nghĩ rằng vương quốc của ông là cơ đồ
vĩnh cửu. Bây giờ không còn gì ngoài những bức tường thành. Hãy
nhìn vào Hitler, Stalin, Mao Trạch Đông. Mỗi người đã có những cảm giác mạnh
mẽ về khu vực 'của tôi', tư tưởng 'của tôi', quyền lực 'của tôi', và họ đã giết
hại một cách tàn nhẫn hàng triệu người trong việc cố gắng để làm cho những thứ
ấy lâu dài.
Thật hữu ích để phản
chiếu trên vô thường. Về điều này, có hai trình độ. Một là thật vi
tế. Thứ kia là sự vô thường liên tục, như cái chết của cây cỏ, sự chấm
dứt của bất cứ sự sống nào. Điều này là có thể bởi vì mọi thứ đang thay
đổi từ thời khắc này đến thời khắc khác. Nếu mọi vật không thay đổi, việc
quán chiếu sự chấm dứt tương tục là không thể có. Cái đến của một sự chấm
dứt của bất cứ một đối tượng cụ thể nào trong dạng thức sự tương tục của nó là
có thể bởi vì có một sự thay đổi thường xuyên xãy ra trong mọi hiện tượng vô
thường. Bằng việc quán chiếu và nhận thức sự tan hoại liên tiếp của một đối
tượng hay một hiện tượng vô thường, chúng ta có thể kết luận bản chất tự nhiên
biến đổi của tất cả những loại hiện tượng vô thường.
Để thông hiểu bản chất tự
nhiên của tính vô thường và tan rã, chúng ta phải nhận ra rằng mỗi hiện tượng
vô thường, tại thời điểm nó hình thành sự hiện hữu, sự biến đổi cũng ra đời
trong tự nhiên, trong bản chất của sự tan hoại. Điều này thật vô cùng lợi
ích hơn là cố gắng để thấu hiểu nó trong ý nghĩa rằng điều gì đó cuối
cùng tan rã và không còn nữa.
* Nhận thức sai
lầm thứ tư là xem vô ngã
như có ngã và như có một sự tồn tại độc lập. Liên quan đến sự diễn
dịch ý nghĩa của vô ngã, có nhiều trường phái triết lý Phật Giáo đưa ra những
sự diễn dịch và giải thích khác nhau. Sự thấu hiểu thông thường về ý
nghĩa vô ngã là không có bản ngã tự túc, tự lực, và tự tồn (có tự tính).
Một khi chúng ta có thể thấu hiểu rằng không có bản ngã tự hổ trợ và tự đầy đủ,
chúng ta sẽ có thể chống lại nhận thức sai lầm rằng có một bản ngã như
vậy. Một khi chúng ta có thể nhận ra quan điểm sai lầm này, chúng ta có
thể chinh phục chấp trước, dính mắc, và sân hận. Cảm nhận về bản ngã của
chúng ta càng mạnh như tự lực và tự túc, chúng ta sẽ càng dính mắc hơn với thân
thể, nhà cửa, người thân, v.v... của chúng ta. Trái lại, nếu có một thông
hiểu về sự vắng bóng của một bản ngã như vậy, chúng ta càng ít bị dính mắc đối
với những đối tượng vật chất.
Đức Phật không chỉ dạy về
vô ngã của con người (nhân vô ngã), mà cũng dạy về vô ngã của tất cả mọi hiện
tượng (pháp vô ngã). Điều này có nghĩa rằng không chi con người thiếu sự
tự túc, tự lực, tự tồn, mà những đối tượng được con người thụ hưởng cũng chỉ là
sự hiện hữu của vô thường. Chúng ta có khuynh hướng thấy những đối tượng
vật chất ngoại tại mà chúng ta hưởng thụ có một sự tồn tại độc lập cố hữu,
nhưng không có đối tượng nào và sự thụ hưởng nào như vậy.
Với sự quan tâm đến giải
thích về sự vật không hiện hữu như chúng xuất hiện đến chúng ta, một lần nữa,
có những sự diễn dịch triết lý khác nhau. Theo Duy (Tâm) Thức học,
mặc dù mọi vật xuất hiện đến chúng ta có sự tồn tại bên ngoài, trong thực tế,
không có sự tồn tại bên ngoài như thế. Mọi thứ ở trong bản chất tự nhiên
của tâm thức. Thế thì, theo Trung quán tông, mọi vật không tồn tại trong
cách mà chúng xuất hiện đến chúng ta. Nếu chúng ta phân tích một cách cẩn
thận, chúng ta sẽ thấy rằng tất mọi vật được nhận thức không có một sự tồn tại
độc lập hay cố hữu (vô tự tính) nhưng đúng hơn giống như một vọng tưởng.
Chúng bị điều kiện hóa bởi những khả năng cảm giác của tâm thức.
Sự thấu hiểu của chúng ta
càng thâm sâu về vô ngã của con người và vô ngã của tư tưởng, chúng ta càng có
thể thấu hiểu bề mặt kia của đồng xu - sự liên hệ hổ tương của mọi vật.
Mặc dù sự vật không có sự tồn tại cố hữu (vô tự tính), chúng thì phụ thuộc
tương liên và liên hệ hổ tương một cách gần gũi.
Do thế, trong sự thấu
hiểu của chúng ta về bốn nhận thức sai lầm, ba thông hiểu đầu là những đối trị
sẽ từ chối nhứng nhận thức sai lầm của chúng. Bằng việc thông hiểu
nhận thức sai lầm thứ tư, chúng ta sẽ nhổ gốc rể hạt giống nhận thức sai lầm về
bản ngã.
Vì vậy, có những phương
pháp khác nhau để chiến đấu với các cảm xúc tiêu cực: cung cách của Tiểu
Thừa, Bồ Tát Thừa, và Mật Thừa. Trong khi có những sự khác nhau trong ba
cung cách, thì tất cả đều có cùng khuynh hướng: xóa trừ hoàn toàn những cảm xúc
tiêu cực. Đấy là niết bàn.
Trong thực hành, người ta
thường muốn một phương pháp cụ thể để chiến thắng những bất toại tinh
thần. Tuy nhiên, không thể thực tập một phương pháp và lập tức giải thoát
khỏi mọi băn khoăn bức xúc. Tôi nghĩ giống như sức khỏe của thân
thể. Khi thân thể của chúng ta, cơ cấu, và hệ thống miễn nhiễm mạnh khỏe,
chúng ta có thể kháng cự lại và loại trừ một sự tiêm nhiễm ngay lập tức.
Nhưng nếu hệ thống miễn nhiễm của thân thể yếu ớt, ngay cả một sự tiêm nhiễm
nhẹ nhàng cũng rất khó khăn để trừ khử. Tương tự thế, nếu thái độ tinh
thần căn bản khỏe mạnh và kiên cố qua rèn luyện, thông tuệ, và tự tin, và khi
tai họa gì đấy xãy ra - nếu chúng ta mất đi cha mẹ, hay một người thân yêu, hay
nếu một việc bất công xãy ra, hay nếu chúng ta tiêm nhiễm một chứng bệnh không
chửa được - thái độ tinh thần mạnh khỏe của chúng ta sẽ đầy đủ để chống lại
nó. Chúng ta có thể duy trì sự bình an của tâm hồn và có thể chịu đựng
bất cứ nổi bất hạnh nào một cách hòa bình hơn, và tích cực hơn.
Nếu thái độ tinh thần của
chúng ta không được rèn luyện đầy đủ, vượt thắng những rắc rối sẽ khó
khăn. Rèn luyện tâm thức là rất quan yếu. Để rèn luyện một cách
thích đáng, chúng ta phải tin chắc, là điều chỉ có thể đến nếu chúng ta phân tích
một cách toàn hảo. Nhằm để làm điều này, chúng ta cần nhiều tài liệu và
nhiều thông tin. Do vậy, chúng ta thấy, phương pháp thực tập Phật Giáo
bắt đầu với học hỏi. Học hỏi bằng nghe, bằng đọc, chỉ để tiếp thu thông
tin. Một khi chúng ta tập họp thông tin, chúng ta phải tự phân tích chúng
. Không chỉ dựa vào những trích dẫn của Đức Phật. Đúng hơn là dựa
vào sự khảo sát và thẩm tra của chúng ta. Đây là cung cách mà chúng ta có
thể phát triển một niềm tin vững vàng, là điều mà cuối cùng làm nên sự khác
biệt trong thái độ tình thần của chúng ta.
Do vậy, nhằm đề vượt
thắng những cảm xúc tiêu cực của chúng ta, chúng ta cần sử dụng sự thông tuệ
của chúng ta để phân tích. Chúng ta cũng phải phân tích, với sự hổ trợ
của óc thông minh, cảm xúc tích cực như lòng tin và từ bi mạnh mẽ. Trông
cách này, tuệ trí và những cảm xúc tích cực có thể tăng trưởng bên cạnh
nhau. Niềm tin và từ bi thích đáng phải được căn cứ trên lý trí và thông
tuệ: đấy là cung cách của Đạo Phật. Và đấy là phương pháp để vượt thắng những
cảm xúc tiêu cực, để ngừng chúng lại, để kết thúc chúng.
VẤN ĐÁP
HỎI: Thưa
Đức Thánh Thiện, tại lễ hội Kumbha Mela, ngài có đắm mình trong sông Hằng không?
ĐỨC ĐẠT LAI LẠT
MA: Không, tôi không làm thế,
nhưng tôi để một vài giọt nước ở đây. Như thế cũng đủ rồi.
HỎI: Thưa
Đức Thánh Thiện, xin hãy nói quan điểm của ngài về Thượng Đế và những đời sống
trước và sau khi chết.
ĐỨC ĐẠT LAI LẠT
MA: Thượng Đế là gì? Từ
ngữ Thượng Đế, trong một ý nghĩa, có nghĩa là lòng yêu thương vô tận. Tôi
nghĩ người Phật tử chấp nhận điều này. Nhưng người Phật tử không chấp
nhận Thượng Đế trong ý nghĩa của điều gì đấy siêu việt, ở trung tâm, hay điều
gì đấy tuyệt đối, một đấng tạo hóa. Người Phật tử thấy nhiều sự mâu thuẩn
liên quan đến khái niệm đó. Tôi nghĩ, người Ki Tô, cùng với khái
niệm một đấng tạo hóa, chấp nhận chỉ một kiếp sống, chính kiếp sống này, được
tạo nên bởi Thượng Đế. Tôi nghĩ ý tưởng ấy là rất mạnh mẽ, có vẻ kiều
diễm của nó. Và khái niệm ấy, quý vị thấy, tạo nên một cảm giác mật thiết
với Thượng Đế.
HỎI: Một
khi chúng ta không thích một người nào đấy, tại sao chúng ta tiếp tục làm như
thế? Thật khó khăn để thay đổi thái độ của chúng ta.
ĐỨC ĐẠT LAI LẠT
MA: Tôi nghĩ điều này là bởi vì
quý vị chỉ tập trung trên sự sân hận. Mọi thứ là tương đối. Nếu quý
vị nhìn vào một đối tượng từ những góc độ khác nhau, quý vị có thể thấy
một cách khác biệt. Thí dụ, chúng tôi mất nước, vong quốc, và non sông
chúng tôi đã trải nghiệm nhiều sự tàn phá. Nếu chúng tôi chỉ nghĩ từ khía
cạnh ấy, có một sự xao động và đau buồn vô hạn. Nhưng do bởi thảm họa
này, chúng tôi trở thành những người tị nạn và đã có nhiều hoàn cảnh để tác
động qua lại với nhiều người khác nhau - những nhà tôn giáo, khoa học, những
người bình thường - và điều ấy thật là hữu ích và là cơ hội tốt để học
hỏi. Nếu người ta suy tư theo những dòng này, cùng hoàn cảnh tai ương xãy
ra, về một phía, quan hệ mật thiết rất buồn thảm, về phía khác, những cơ hội mới.
Thật hữu ích khi cố gắng để thấy những vấn đề từ các góc độ khác nhau. Và
cũng lợi ích để thực hiện những sự so sánh. Khi những vấn đề tai họa xãy
ra, quý vị có thể suy nghĩ nó sẽ giống như thế nào nếu những điều tệ hại hơn đã
xãy ra. Khi quý vị thực hiện một sự so sánh, quý vị sẽ thấy rằng hoàn
cảnh của quý vị là khá hơn nhiều. Cung cách chúng ta nhận thức một
hoàn cảnh, mặc dù nó vẫn thế, nhưng nó làm nên một sự khác biệt to lớn trong
thái độ tinh thần.
HỎI: Khát
vọng tâm linh nên giới hạn như thế nào đối với một nhà chuyên môn bận rộn?
ĐỨC ĐẠT LAI LẠT
MA: Như tôi đã đề cập phía
trước, trong khi quý vị điều khiển công việc, quý vị có cơ hội để thực tập kỷ
luật tự giác, toại nguyện, bao dung, và nhẫn nhục. Nhưng để làm thế,
trước nhất chúng ta phải học hỏi, chúng ta phải phát triển sự tin tưởng rằng
những cảm xúc nào đấy là tàn phá trong khi những thứ khác là hữu ích. Một
khi chúng ta mở rộng sự phân biệt này một cách rõ ràng, sự tỉnh thức về những
gì lợi ích và những gì tai hại, sự thực tập này có thể thâm nhập trong đời sống
hằng ngày của chúng ta. Thực tập tâm linh không có nghĩa là chúng ta chỉ
ngồi yên một chỗ để thiền quán và không làm gì cả.
Điều ấy không nhất thiết
là sự thực hành tâm linh. Những con bồ câu, khi dạ dày chúng đầy thực
phẩm, cũng thiền tập. Chúng như thần thánh, tĩnh lặng một cách toàn hảo.
Vì vậy điều ấy chẳng là gì, không hổ trợ gì. Trong một ý nghĩa, thiền
quán có nghĩa là rút lui mọi giác quan và duy trì sự vô tư lự. Nhưng tự
nó, điều ấy chẳng là gì và chỉ ảnh hưởng chút ít. Tuy nhiên, có những sự
thực tập nào đấy, sự thiền quán nào đấy, những thứ cần sự vô tư lự như căn
bản. Thế thì, trong sự vô tư lự, một thứ nào khác đấy, tuệ trí thâm sâu
hơn phát triển: Đó là điều gì đấy khác biệt. Nhưng nếu không, chỉ đơn
thuần vô tư lự thì không là gì cả.
HỎI: Nếu
thân thể này là căn cứ của khổ đau và là bất tịnh, tại sao nó được tin là chiếc
xe duy nhất để cứu độ?
ĐỨC ĐẠT LAI LẠT
MA: Điều này được giải thích
một cách chính yếu trong dạng thức sự thông minh diệu kỳ của con người và cũng
là linh quang. Không có nhiều sự khác biệt giữa con người và thú
vật. Nhưng tại thời điểm này, chúng ta không có khả năng để sử dụng tâm
vi tế. Nhằm để làm như thế, chúng ta phải sử dụng óc thông minh bình
thường. Do vậy, ở trình độ thô của tâm thức, có sự thông minh, và não bộ
làm nên sự khác biệt. Não bộ con người có khả năng để có một trí thông
minh phức tạp. Sử dụng trình độ thô hơn của sự thông minh con người và cố
gắng để sử dụng tâm vi tế là không thể được đối với thú vật. Mặc dù thế,
khi chúng chết, chúng có những trải nghiệm tương tự, tuy thế chúng không thể
dùng tâm vi tế. Phán xét từ đấy, thân thể con người là điều quý báu,
nhưng không phải trong ý nghĩa rằng nó là điều đấy tự tốt đẹp.
HỎI: Thưa
Đức Thánh Thiện, ngài có thể soi rọi thêm ánh sáng trên sự phân biệt giữa tâm ý
hẹp hòi và tâm hồn rộng mở không?
ĐỨC ĐẠT LAI LẠT
MA: Nếu chúng ta chỉ nghĩ về
hôm nay, đấy là tâm ý hẹp hòi, và nếu chúng ta không quan tâm những kinh nghiệm
hôm nay và nghĩ về tương lai, đấy là tâm hồn rộng mở. Chỉ nghĩ về chính
mình là tính hẹp hòi, nhưng tỉnh thức rằng tương lai của tôi liên hệ đến tương
lai của những người khác, rằng những quan tâm của tôi phụ thuộc hoàn toàn trên
các quan tâm của người khác và nếu tôi chăm sóc những quan tâm của họ, các quan
tâm của tôi sẽ tự động tròn đầy - Tôi nghĩ đây là một quan điểm rộng mở
hơn. Do thế, trong việc chăm sóc láng giềng của chúng ta, một cách căn
bản, chúng ta sẽ lợi lạc. Nếu chúng ta không quan tâm đến hàng xóm của
chúng ta, cuối cùng, chúng ta sẽ đau khổ ... giống như thế.
HỎI: Có
phải vô ngã là tự quên lãng chính mình, vì lợi ích của người khác?
ĐỨC ĐẠT LAI LẠT
MA: Không phải là như
vậy. Thí dụ, khi chúng ta nói về sự khuếch trương lòng vị tha, hay nguyện
ước đạt đến giác ngộ vì lợi ích của tất cả chúng sinh, mặc dù vị tha chính yếu
nhắm đến việc làm lợi ích cho chúng sinh khác, chúng ta đồng thời ngưỡng vọng
đạt đến giác ngộ, hay thể trạng của Phật Quả , cho chính chúng ta. Trong
khi nghĩ về chính mình, nếu chúng ta tảng lờ những chúng sinh khác và không
quan tâm đến họ, như vậy là sai. Nhưng, trái laki, nếu chúng ta giúp đở
họ một cách trung thực và hợp lý, mục tiêu của chính chúng ta cũng được tròn
đủ. Do bởi điều này thậm chí khi chúng ta nghĩ về việc đạt đến hình thức
tối hậu của Phật Quả, chúng ta nói về sắc thân (rupakaya) và pháp thân
(dharmakaya) hay thân sắc tướng và thân chân thật, và chúng ta thường mệnh danh
hai thuật ngữ khác biệt đến hai thân này. Chúng ta nói về pháp thân như
thân thể cho chính mình, và sắc thân như thân thể cho người khác. Vì thế,
mặc dù chúng ta nghĩ về người khác và hành động vì họ, nhưng sự theo đuổi của
chúng ta được đầy đủ, như một sản phẩm phụ, có thể nói như thế.
HỎI: Có
phải có những loại cảm xúc tiêu cực khác nhau phải không?
ĐỨC ĐẠT LAI LẠT
MA: Có tám mươi bốn nghìn
loại cảm xúc phiền não được giải thích trong kinh luận. Mặc dù một con số
cụ thể được đề cập trong kinh luận, có những loại cảm xúc tiêu cực khác nhau có
thể sinh khởi trong tâm thức chúng ta là vô giới hạn một cách rõ ràng. Và
trong A tỳ đạt ma[3], nhận diện rõ về những gì được biết như sáu cảm xúc phiền
não gốc rể và hai mươi cảm xúc phiền não thứ yếu được tạo nên.
HỎI: Chúng
ta có thể hy sinh đến mức độ nào trong những hoàn cảnh thực tế của đời sống?
ĐỨC ĐẠT LAI LẠT
MA: Trong giáo huấn của Đức
Phật, ngoại trừ chúng ta đạt đến một trình độ đòi hỏi nào đấy của thân chứng,
hy sinh thân thể vì người khác thật sự bị ngăn cản. Vì thế chúng ta phải
tính toán trong dạng thức của những lợi ích lâu dài, v.v... Nếu chúng ta có một
niềm tin mạnh mẽ và vững vàng do bởi sự thân chứng cao độ của mình, việc hy
sinh thân thể vì lợi ích của những chúng sinh khác được khuyến khích và
làm cho người ta cảm mến.
HỎI: Linh
hồn có đi theo số mệnh trọn vẹn của nó không hay có một ý chí tự do?
ĐỨC ĐẠT LAI LẠT
MA: Theo Đạo Phật, có ý chí tự
do. Ngay cả khi chúng ta nói về những loại nghiệp khác nhau, về việc phải
trải nghiệm những hậu quả của chúng và về những thứ được gọi là định nghiệp của
những ai có kết quả phải trải nghiệm ngay trong đời sống này ... thậm chí trong
những trường hợp như thế, đấy là trong ý nghĩa rằng nếu chúng ta không cung cấp
hay phát triển bất cứ những năng lực đối kháng nào cả để phản ứng chống lại với
nghiệp báo tiêu cực, chúng ta bị ràng buộc để trải nghiệm những kết quả
đó. Nhưng nếu chúng ta thực hiện một nổ lực và khuếch trương những năng
lực đối kháng tích cực, thậm chí những thứ đươc gọi là định nghiệp cũng có thể
được thay đổi. Vì thế, nó tùy thuộc nhiều trên việc chúng ta suy
nghĩ như thế nào và loại nghiệp nhân chúng ta đã tích tập là gì. Trong
thực tế, nghiệp được tích tập bởi cá nhân, con người, và tôi nghĩ điều này xảy
ra phù hợp với ý chí tự do.
HỎI: Ai
vĩ đại hơn: Đức Thế Tôn hay Sĩ Đạt Ta, ai đã hy sinh cuộc đời của mình để
trở thành Đức Phật?
ĐỨC ĐẠT LAI LẠT
MA: Trong một trong những kinh
điển, giải thích rằng nếu một vị bồ tát đi đến một chiếc xe ngựa, nếu không có
ai kéo xe, và một vị Phật giác ngộ thấy như thế, Ngài phải đi đến và kéo chiếc
xe mà vị bồ tát ngồi trên ấy. Tôi nghĩ điều này thật là vĩ đại.
Những Đức Phật có toàn bộ sự hoàn thành, năng lực, và toàn tri toàn
giác. Những Đức Phật đã đạt đến thể trạng vô thượng của giác ngộ và
năng lực trong dạng thức của sự phát triển tâm linh. Trong trường hợp của
những vị bồ tát - cho dù vị bồ tát trong hạng của những ai chưa tiêu trừ những
chướng ngại để giác ngộ và niết bàn, hay là một trong những vị bồ tát chưa
hoàn toàn loại bỏ
những cảm xúc phiền não - là vẫn còn dưới những chướng ngại và dưới xiềng xích
của những cảm xúc phiền não, các ngài vẫn có thể hoàn toàn cống hiến đến lợi
ích của những chúng sinh khác. Điều này thật sự truyền cảm, những bồ tát
như vậy là đối tượng của sự cảm kích và khâm phục. Dĩ nhiên, điều này tùy
thuộc trên quan điểm của chúng ta đối với hai vấn đề khác nhau này.
Nếu chúng ta nhìn vào Đức
Phật như một bậc giác ngộ hoàn toàn, từ quan điểm sự toàn tri toàn giác của
Ngài, Đức Phật là vĩ đại hơn. Nếu chúng ta nhận thức bồ tát từ quan điểm
ngài tự hy sinh chính mình nhiều như thế nào vì lợi ích của những chúng
sinh khác, mặc dù ngài chưa giác ngộ, chúng ta có thể thấy sự vĩ đại của bồ tát.
HỎI: Làm
thế nào ngài lạc quan khi ngài bị tràn ngập áp đảo bởi những bất công của môi
trường và nhân loại?
ĐỨC ĐẠT LAI LẠT
MA: Đối với một người sơ cơ,
phải đối diện với những vấn nạn như thế là một trách vụ khó khăn, một nhiệm vụ
vất vả. Ở đây chúng ta cần rèn luyện hơn nữa, thực tập hơn nữa, thấu hiểu
hơn nữa. Do vậy, đối những hành giả ấy, những người ở tầng bậc khởi đầu,
thật quan trọng để duy trì sự cách ly hơn nữa, để thực hiện một loại chuẩn bị
nào đấy. Một khi chúng ta đạt được sức mạnh nội tại và tự tin, thế thì
thế giới, môi trường bên ngoài, có thể trở thành sự thực hành của chúng
ta. Khu vực càng quấy rầy , sự thực tập của chúng ta càng phát triển và tiến
triển hơn.
HỎI: Sự
thư thái nào Đạo Phật có thể cống hiến cho con người trong những thời gian khổ
đau dữ dội, như trận động đất này?
ĐỨC ĐẠT LAI LẠT
MA: Điều ấy tùy thuộc rất nhiều
trên niềm tin hay tín ngưỡng của một người. Nó xoay quanh trên người nào
mà chúng ta tiếp cận.
Đối với Phật tử, những sự
kiên như thế có thể phát sinh sự suy nghĩ về bản chất tự nhiên của khổ đau
trong cõi luân hồi và vô thường. Nếu chúng ta có một động cơ thích
đáng, một kinh nghiệm về thảm kịch và đau đớn có thể là hữu dụng trong việc
giảm thiểu những những nhận thức sai lầm. Nó có thể giải thích những vấn
đề như luật nhân quả không thể sai lầm và cũng là làm thế nào qua những kinh
nghiệm với những rắc rối như thế, về lâu về dài, chúng ta có thể tịnh hóa chính
mình từ những hậu quả tiêu cực như thế.
Tuy nhiên, cung cách của
con người là đi đến đấy và chia sẻ nổi khổ đau của những người đã bị
ảnh hưởng cùng biểu lộ niềm cảm thông và quan tâm. Điều ấy tự nó sẽ
làm nên một sự khác biệt. Tôi nghĩ bằng việc làm như thế, chúng ta có thể
giải tỏa niềm đau của họ phần nào. Cũng thế, dĩ nhiên, sự hổ trợ thuốc
men y tế, đóng góp tài chính, và những phương tiện thực tiển khác nên được sử
dụng để giúp đở họ.
HỎI: Thưa
Đức Thánh Thiện, ngài có thể nói với chúng tôi một chút về đồ cát ni [dakini [4]]
không?
ĐỨC ĐẠT LAI LẠT
MA: Đồ cát ni ... tôi
không biết. Tôi nghĩ, đồ cát ni hiện hữu trong một trình độ huyền
bí. Đôi khi có thể đối thoại với những đồ cát ni nào đấy. Chúng tôi
tin tưởng rằng trong những người nữ, chúng tôi thấy họ trong hình thể con
người. Chúng ta thẩm tra như thế nào? Điều ấy khó khăn! Trong
thực tế, tôi tin tưởng trong những người ni kiền tử [sadhu[5]] tại lễ hội Kubha
Mela, có thể có một số hành giả nào đấy có những kinh nghiệm phong
phú. Thí dụ, có những người hoàn toàn lõa thể, và -- tôi nghe nói -- ở
trên núi suốt cả năm, trong nhiều năm. Họ phải có những loại kinh
nghiệm nào đấy, trái lại họ không thể tiếp tục ở đấy. Thật sự, trước khi
tôi đến đấy, tôi đã hỏi tôi có thể thấy một số nhưng người ni kiền tử này
không. Nhưng điều ấy khó khăn ngoại trừ có một số cá nhân nào đấy biết
một người ni kiền tử đặc biệt và giới thiệu cho chúng ta. Bằng khác
đi, chúng ta chỉ gặp một người ni kiền tử lõa thể nào đấy, và chúng ta chụp
hình và trái lại thì không có gì...vô ích.
Vào thời xưa, Tilopa,
Naropa, Gompopa, tất cả các vị đều là những đại thành tựu giả [siddha], trông
giống như những kẻ ăn mày. Trong khi một số thì săn bắn, những
người khác câu cá và một số chỉ là những kẻ ăn mày. Chỉ nếu khi chúng ta
dành hàng tháng để sống với họ và khảo sát đời sống hằng ngày, thái độ, biểu
hiện của họ chúng ta mới có thể biết những kinh nghiệm nội tại của họ.
Một cách tổng quát, những người ấy có những kinh nghiệm nội tại sâu thẩm mà họ
không biểu lộ bên ngoài. Rồi thì, có những người không có gì nhiều bên
trong, họ lại thường biểu lộ điều gì đấy bên ngoài... điều gì đấy to lớn, điều
gì đấy to lớn, có phải không?
HỎI: Nếu
Thượng đế tạo ra vũ trụ, thì ai tạo ra Thượng đế?
ĐỨC ĐẠT LAI LẠT
MA: Đấy là câu hỏi của Đạo
Phật. Vì thế, đấy là tại sao chúng tôi không chấp nhận Thượng đế.
HỎI: Phương
pháp tốt nhất để giảng dạy từ bi là gì?
ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA: Tôi có những dè dặt về điều tuyệt hảo nhất, điều
nhanh nhất, điều dễ nhất, điều rẻ nhất...
Bây giờ nhiều sách vở mới
chuyển dịch từ kinh luận của Đạo Phật đang được lưu hành, và những quyển sách
hay liên quan đến Phật Giáo đã xuất bản. Hãy đọc những quyển sách ấy, học
hỏi nghiên cứu, và quý vị sẽ tìm ra câu trả lời. Rồi thì quý vị sẽ tìm ra
điều nào tuyệt hảo nhất!
HỎI: Một
người bình thường có thể đạt đến giác ngộ và tham gia mọi hoạt động của vũ trụ
hay không?
ĐỨC ĐẠT LAI LẠT
MA: Nói một cách tổng quát,
vâng, về lâu về dài, điều ấy có thể. Có một bài kệ tuyệt vời của
Phabongkha Rinpoche, đọc lên những câu như thế này:
Nếu bạn thực hành một
cách chân thành,
Ngay cả nếu bạn vẫn
là người quản gia,
Bạn sẽ đạt đến giác
ngộ như đã từng xãy ra
trong trường hợp của
Marpa hay Milarepa
và nhiều người khác
nữa là vua hay quan viên
của Ấn Độ và Tây Tạng.
Nếu bạn không thực
hành,
Ngay cả nếu bạn ở
trên núi một thời gian dài,
Bạn sẽ vẫn chỉ là con
sóc đất
ngủ vài tháng trong
lòng đất của núi non.
HỎI: Hoàn
cảnh nào khó khăn nhất mà Đức Thánh Thiện phải chiến thắng?
ĐỨC ĐẠT LAI LẠT
MA: Tôi không
biết. Tôi nghĩ thật khó để mà nói. Tôi nghĩ tùy thuộc vào những
thời gian nào đấy, trên những trình độ nào đấy. Thí dụ, khoảng những năm
ba mươi tuổi, tôi có một số thấu hiểu nao đấy về không tuệ, và rồi thì tôi đã
phát triển cảm nhận của một khả năng để đạt đến niết bàn. Do thế, viễn ly
đã trở thành, tôi nghĩ, thật là mạnh mẽ, nhưng rồi thì vào lúc ấy, tôi thấy rất
khó khăn để nghĩ về tâm giác ngộ [bodhicitta].
Vào những năm bốn mươi
tuổi, tôi đã học quyển sách của Tịch Thiên, cũng như Tràng Hoa Quý Báu[6] của
Long Thọ, và một số tác phẩm khác, và tôi nghĩ nhiều hơn về tâm giác ngộ.
Dĩ nhiên, tôi vẫn không có kinh nghiệm chân thật về tâm giác ngộ hay tính
không, nhưng, một cách so sánh, đôi khi bây giờ tôi có cảm nhận và niềm tin
rằng nếu tôi có đủ thời gian, tôi có thể phát triển thích đáng tâm giác ngộ
cũng như tính không. Vào một thời điểm khác, theo những kinh nghiệm vào
lúc ấy, tôi cảm thấy không khó lắm. Do thế, tôi không biết, có nhiều khó
khăn, và rồi cùng lúc ấy, như tôi đã đề cập phía trước, có nhiều khả năng để
vượt thắng tất cả những chướng ngại ấy. Rồi thì, như một Đạt Lai Lạt Ma,
có khó khăn của hoàn cảnh Tây Tạng. Điều ấy rất khó khăn; nó thật sự vượt
ngoài sự kiểm soát của tôi, có phải không? Rất khó khăn.
Để kết luận, những người
tin tưởng vào giá trị tâm linh, đặc biệt Phật Pháp, nên học hỏi! Thực
hiện đầy đủ những giá trị này trong đời sống hằng ngày của chúng ta. Và
cố gắng để trở thành một môn đồ tốt của Phật Pháp và của Đức Phật Thích Ca Mâu
Ni, vị thầy của chúng ta. Chúng ta nên là những học trò tốt: điều
ấy là quan trọng. Quý vị thấy, cho dù là một người tin tưởng hay không
tin tưởng, cho dù có lý trí hay không, chúng ta đã sinh ra trên Trái đất
này. Vì vậy, cho đến khi nào chúng ta còn hiện diện trên hành tinh này,
hãy là một người biết phải trái, một người với trái tim nồng ấm. Nếu
chúng ta có thể hữu dụng cho người khác, hãy là như thế, không có lý do gì để
tạo nên những rắc rối nữa cho người khác!
Sir Shankerlal
Hall, Modern Scholl, 2001.
Nguyên tác: Overcoming Negative Emotions (Trích từ quyển Many Ways to Nirvana)
[1] Một lễ hội của Ấn
Giáo tại sông Hằng.
[2] Shankaracharya: triết
gia và giáo sư của Ấn Giáo
[3] A-tì-đạt-ma (zh.
阿毗達磨, sa. abhidharma, pi. abhidhamma, bo. chos
mngon pa) là tên phiên âm. Mang nghĩa là Thắng pháp hoặc là Vô tỉ pháp, vì
nó vượt (abhi) trên các Pháp (dharma), giải thích Trí huệ.
A-tì-đạt-ma của Thượng toạ bộ được Phật Âm (zh. 佛音, sa. buddhaghoṣa) hoàn chỉnh, được viết bằng văn hệ Pali và bao gồm bảy bộ.
A-tì-đạt-ma của Thuyết nhất thiết hữu bộ (sa. sarvāstivāda)
được viết bằng Phạn ngữ và Thế Thân (zh. 世親, sa. vasubandhu)
là người tổng hợp.
[4] Còn gọi là Đồ cát ni,
Đồ chỉ n i, Nã cát nhĩ, Xá chỉ ni - chữ nho là Không hành mẫu, không hành
nữ: Phạn ngữ này có nghĩa là 'người đi trong không gian'. Đây
là một vị Phật dưới dạng người nữ, đặc biệt quan trọng trong các truyền thống
Kim Cang Thừa Ấn Độ và Tây Tạng. Vị này thường lui tới các nghĩa trang và những
nơi đáng sợ khác, là người giữ cửa vùng bí ẩn trong mật chú được truyền lại cho
những người lão luyện. Trong niềm tin dân gian Ấn độ, Dakini là một con quỷ cái
tiến hóa thành Thánh. Trong Kim Cang thừa, Dakini là sức mạnh linh cảm của ý
thức. Trong Thiền, Dakini có sứ mệnh hợp nhất sức mạnh được hành giả giải thoát
vào tiến trình hữu hình hóa.
[5] Những người tu khổ
hạnh của Ấn Giáo.
[6] Bảo hành vương chính
luận.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét