Vấn đề “Vô Ngã”
là vấn đề trọng tâm, xuyên suốt trong hành trình tu tập của người hành giả và
cũng là quan điểm căn bản của Đạo Phật; và Vô ngã cũng là điều giúp cho hành
giả tiến đến giác ngộ mà không bị các ma chướng dẫn dắt đi vào ma đạo. Đức Phật
đề cập đến Vô Ngã không phải do nơi Đức Phật muốn chế ra; mà gần như những gì
khi Đức Phật chứng ngộ được đều là những quy luật tự nhiên và muốn thoát được
vòng kiềm tỏa “Luân hồi” mình cũng phải đi theo một tiến trình nhất định như
vậy. Đức Phật Thích Ca cũng như các vị Phật khác trong thời quá khứ, hiện tại
hay vị lai cũng phải trải qua con đường như thế để tiến đến quả vị Phật.
Trong
giáo lý Đạo Phật có những vấn đề mà chúng ta thường hay thắc mắc, và đôi khi
chúng làm cho chúng ta khó hiểu như là “Vô Ngã”, “Tính Không” chẳng hạn! Do
vậy, mà sự nghiên cứu của chúng ta xoay quanh những vấn đề ấy hãy còn khá nhiều!
Vấn đề
“Vô Ngã” là vấn đề trọng tâm, xuyên suốt trong hành trình tu tập của người hành
giả và cũng là quan điểm căn bản của Đạo Phật; và Vô ngã cũng là điều giúp cho
hành giả tiến đến giác ngộ mà không bị các ma chướng dẫn dắt đi vào ma đạo. Đức
Phật đề cập đến Vô Ngã không phải do nơi Đức Phật muốn chế ra; mà gần như những
gì khi Đức Phật chứng ngộ được đều là những quy luật tự nhiên và muốn thoát
được vòng kiềm tỏa “Luân hồi” mình cũng phải đi theo một tiến trình nhất định
như vậy. Đức Phật Thích Ca cũng như các vị Phật khác trong thời quá khứ, hiện
tại hay vị lai cũng phải trải qua con đường như thế để tiến đến quả vị Phật.
Khi
Đức Phật nói đến Tứ Diệu Đế thì Tứ Diệu Đế đó cũng là những chân lý tự nó đã
hiện hữu trong quá trình nhận chân cuộc sống và giải thoát; Thập Nhị Nhân
Duyên, Nghiệp, Luân Hồi… cũng đều như thế cả. Nhưng những điều ấy chỉ có những
bậc Bồ Tát, Phật nhận biết đầy đủ mà thôi! Chính vì thế mà Đức Phật Thích Ca
phải lặn lội truyền giảng hơn 45 năm trời ròng rã. Điều quan trọng nhất mà Đức
Phật muốn nhấn mạnh đến là “hạt nhân giống” (chủng tử) để con người, chúng sinh
có thể giác ngộ được là “Phật Tánh” ở trong mỗi con người hay chúng sinh đó.
Trong mỗi chúng sinh đều có Phật tánh, nếu mỗi người, mỗi chúng sinh biết cách
lau chùi, gột rửa thì Phật tánh ấy được phát triển, sáng chói lên như thuở ban
đầu của nó. Khi hạt ngọc Phật tánh được sáng thì lúc đó chúng sinh sẽ có được những
điều hiểu, biết về con người, vũ trụ như Phật. Đức Phật Thích Ca và Đạo Phật
cung ứng cho thế nhân cách lau chùi, gột rửa ấy!
Giáo
pháp của Đạo Phật như nhận định của Đức Phật Thích Ca ngay từ ban đầu là một
giáo pháp khó hiểu, cao sâu mà không nhiều người có thể hiểu được một cách dễ
dàng. Vì rằng giáo pháp ấy nói đến những điều cao xa, khiến con người, chúng
sinh chưa thể suy nghĩ tới nếu không có một trình độ hay suy tư nhất định. Đức
Phật khi hành đạo đã phải dẫn giải từ dễ cho đến khó đồng thời dẫn chứng bằng
những ví dụ cụ thể cũng nhằm giúp môn đồ, người nghe có thể thâm nhập vào trong
giáo pháp để tiến đến hành trì mong một sự giải thoát và thoát khỏi được cảnh
sinh tử, luân hồi.
Chúng
tôi qua những thời gian có duyên để tìm hiểu vào Đạo Phật thì chúng tôi cũng
nhận thức được một chút nào đó của vấn đề. Nay nhân cơ hội ghi lại để gọi là
đóng góp vài ý kiến, để hầu chúng ta tìm được “chơn nghĩa” của Như lai đã
thuyết.
Quay
trở lại, khi Đức Phật thuyết: Chúng sinh vì Vô minh mà từ cõi Chơn Tâm đã nãy
sinh ra có “vọng tâm” (vọng tưởng thế giới bên ngoài Chơn Tâm là đẹp, là tốt),
và “Tâm phân biệt” (phân biệt ta, người, cùng các chúng sinh khác) mà rời cõi
Chơn Tâm (sự bùng nỗ “khởi động” đó giống như hiện tượng Big Bang) để tâm chúng
sinh mượn đến tứ đại (đất, lửa, gió, nước) làm thành thân xác; rồi lại mượn đến
thức đại (thấy, nghe, hay, biết) để làm các thức; và cũng mượn đến hư không để
thân xác được tăng trưởng, lớn lên. Từ đó, cái Tâm của từng chúng sinh bị giới
hạn bởi thân xác, các giác quan; các thức cùng với sự tăng trưởng cũng chỉ giới
hạn trong thân xác đó mà thôi! Nhưng, vì do thân xác ấy bao phủ, gói gọn viên
ngọc “Tâm vọng tưởng, phân biệt” để Tâm hoàn toàn bị mất đi sự sáng chói, nhận
biết Chân lý của vũ trụ mà sau này Đức Phật gọi là “Tri kiến Phật”, và viên
ngọc “Tâm” ấy chính là “Phật tính” mà Đức Phật đã nhắc đến trong Kinh Pháp Hoa.
Khi
chúng sinh đã có thân xác (thân giả tạm được kết hợp từ các đại tức thân này
không thật của ta [vô ngã]); và khi có sự sống riêng tư thì nhu cầu nuôi thân
xác để được sinh tồn, khỏe mạnh, hay nhu cầu sinh lý cũng như tâm lý đòi hỏi
khiến chúng sinh phải đáp ứng, mưu cầu. Thế cho nên cuộc sống theo “bản năng
sinh tồn” đã biến thế gian thành một “trường tranh đấu” chém giết, hãm hại,
lường gạt, hơn thua, chiếm đoạt lẫn nhau. Cũng từ đó “cái ta và cái của ta” đã
trở nên là trọng tâm cuộc sống. Cái gì đem đến sự sung sướng, ăn ngon mặc đẹp
thì ta thích, có lợi thì ta giành, ta chiếm đoạt; có ít thì muốn nhiều… là đầu
mối cho ba độc “tham, sân, si” phát triển. Tham mà bị cản trở, hay chiếm không
được thì nỗi sân, nỗi sân quá thì trở nên si mê mà gây nên tội lỗi qua các hình
thức “sát, đạo, dâm, vọng” và tạo nên nhân để sau này phải trả quả. Có sinh ra
tất có biến đổi và mất đi: Vật chất có thành, trụ, hoại, không; Hiện tượng có
sinh, trụ, dị, diệt; Con người, chúng sinh có sinh, lão, bệnh, tử. Tất cả đều
biến đổi không thường còn [vô thường]. Chúng sinh, con người còn chịu nhiều đau
khổ từ thân xác cho đến sự giành giựt trong cuộc mưu sinh, tạo thêm khổ cho cuộc
đời vốn đã nhiều khổ!
Từ nơi
đó: Sau khi Đức Phật thành Đạo, Ngài mới khám phá ra con đường Đạo. Do khổ thì
phải làm sao cho dứt khổ qua sự phân tích của Ngài về Tứ Diệu Đế. Nhận định
được như vậy, Ngài thấy chúng sinh phải “quay đầu trở lại” (Hồi đầu thị ngạn)
chấm dứt “gây nhân ác”, tu hành hay sửa đổi, hoàn thiện cho mình bằng “giới
luật” (ngưng hay giới hạn “sát, đạo, dâm, vọng”); cố gắng diệt hay từ bỏ “tham,
sân, si”; Và để củng cố, làm mạnh mẽ cho tinh thần đó của người tu, hay những
người đang trên đường sửa đổi hoàn thiện cần ý thức được rằng: “Thân này đã vốn
không là của Ta (vô ngã); tâm này chỉ là “vọng tâm” chứ không là tâm thật của
ta (cũng tạm gọi là vô ngã); thì không lý do gì để ta luyến tiếc trần thế mà
không đi tìm thân và tâm thật của ta. Thân và Tâm thật của chúng sinh, con
người ở đâu?
Để
minh chứng cho điều này chúng tôi xin dẫn chứng đoạn Kinh Lăng Nghiêm sau:
“Này
A-nan, bởi vô minh vọng động nên biến hiện ra có hư không, thế giới và chúng
sanh. Trong thân chúng sanh vì có vọng tưởng lẫn lộn, nên nó vọng động leo
chuyền bên trong (như vượn, như ngựa). Khi các giác quan mở ra, thì nó rong
ruỗi theo trần cảnh bên ngoài (như vượn sút xiềng, ngựa tong chuồng). Rồi các
ông chấp cái tướng vọng tưởng lăng xăng bên trong đó, cho là tâm tánh của mình.
Một phen chấp nó làm tâm, thì không sao khỏi mê lầm cho rằng “tâm ở trong thân”.
Chứ
đâu biết rằng: Thân này, tâm này cho đến núi sông, thế giới và hư không đều là
vật trong Chơn Tâm hiện ra cả”.
(Kinh Lăng Nghiêm, Phật Học Phổ Thông khóa VI-VII, HT. Thích Thiện Hoa, trang
51)
Để đi
tìm thân và tâm thật của ta, Đức Phật đã nêu rõ qua 6 bước Lục độ: Bố Thí, Trì
Giới, Tinh Tấn, Nhẫn Nhục, Thiền Định, Trí Huệ. Và để hỗ trợ cho tiến trình đó
được dễ dàng, Đức Phật đề cập đến 37 phẩm “trợ đạo” (chỉ là “Trợ đạo”) mà người
tu hay thực hành cần tinh tấn để tiến bước (Tự đốt đuốc lên để đi).
Thông
thường, đôi khi người ta còn tưởng Tịnh độ là một pháp môn riêng biệt khác với
Thiền, để rồi giữa các pháp môn có sự bài bác, khen chê lẫn nhau. Chúng ta cứ
thử nhắm mắt lại niệm mãi câu “Nam mô A-Di-Đà-Phật” đi; niệm cho đến chỗ Vô
niệm thì sẽ thấy đó chỉ là một công án thiền không hơn không kém; hay ai đó cứ
thử niệm Phật trong 7 ngày mà “nhất tâm bất loạn” sẽ hiểu ngay Tịnh độ hay là
một hình thức như Thiền!
Cái
nguy hiểm nhất của Thiền là gì? Đức Phật không né tránh đến thế giới ma quỷ vì
trong luân hồi đã có Ngạ quỷ; và ngay trong Kinh Lăng Nghiêm, Đức Phật đã đề
cập đến Thiên Ma Ba Tuần và Ngũ Ấm Ma
“Các
ông chưa rõ trên đường tu hành, còn gặp nhiều cảnh ma rất là nguy hiểm. Nếu các
ông không biết trước, sanh tâm tà kiến thì đọa vào ác đạo, cũng như người nhận
lầm giặc làm con, thì bị hại chẳng ít. Vậy các ông phải chăm chú nghe, ta sẽ
chín chắn chỉ dạy cho”.
(PHPT VI-VII, Kinh Lăng Nghiêm, trang 269)
“Bởi
các loài ma kia thấy người tu hành, sanh tâm lo sợ cho bà con quyến thuộc của
chúng sẽ tiêu diệt, nên chúng dùng đủ thần lực đến nhiễu hại người tu. Chúng nó
cũng đủ năm phép thần thông biến hóa chỉ chưa được lậu tận thông…..
Ma
Đăng Già là thứ ma yếu hèn, nó chỉ làm cho ông phá một giới trong tám muôn giới
mà thôi, nhờ tâm ông thanh tịnh nên chẳng bị trầm luân. Còn các chúng ma này
rất là nguy hiểm, nó phá tan giới thân huệ mạng làm cho ông nhiều kiếp luân
hồi. Chẳng khác nào như ông quan lớn bị cách chức, gia tài sự sản bị tịch thâu,
trở thành một người dân trắng, không thể cầu cứu với ai được”.
(PHPT VI-VII, Kinh Lăng Nghiêm, trang 270)
Người
tu trên đường tu tập thường gặp những chướng ngại có thể do từ nhân quả ở kiếp
nào đó; Tuy nhiên thường thì, qua đoạn kinh trên, cho thấy rằng ma sẵn sàng lôi
cuốn, quấy phá người tu để người tu không thể thành đạt và trở lại vòng luân
hồi chơi với chúng hay người tu phải trở thành tôi tớ của chúng. Cho nên, loại
ma quan trọng nhất mà Đức Phật cảnh giác chúng ta chính là “ngũ ấm ma” vì các
loại ma này lại từ trong thân tâm của chúng ta mà đến. Nếu chúng ta để ý hơn sẽ
thấy trong khi chứng Thiền về một phần nào đó, chúng ta luôn thấy Đức Phật phân
tích: “Tưởng rằng chúng ta thành Thánh, có khả năng nói pháp, tưởng chúng ta
thành đạo…” tự thấy chúng ta cao quý, đáng được người khác nễ trọng hay chúng
ta có cảm tưởng rằng “chúng ta là một vĩ nhân”, là do một Đấng Tạo hóa nào đó
sai đến để làm sứ giả, là con, là “nhân vật” thay thế Đấng Tối Cao để hành đạo.
Nếu “chấp” như vậy thì ta sẽ “trúng” vào kế của ma. Vì sao? Vì cái “ngã mạn”
của ta đã nổi lớn lên rồi (Đại ngã mạn)! Ta hành động, thành lập tôn giáo theo
sự “ngã mạn” ấy tức là ta đang hành động theo ý của ma. Những pháp hay đạo theo
sau lại là khủng bố, là chém giết, là “muốn trở thành bá chủ võ lâm” tức là đạo
ấy còn chủ trương gây nên “nhân, quả” thì đạo ấy không phải là đạo giải thoát.
Đạo ấy chỉ là do ma hướng dẫn người tu hành bị “Tẩu hỏa nhập ma” mà thành, vì
vị giáo chủ ấy đã là tôi tớ của ma! Cho nên, Đức Phật đã nhấn mạnh đến “Vô
Ngã”, tự mình hãy dìm cái Ngã của mình xuống để thấy rằng: Ta cũng như Người;
Ta, Người cũng như các Chúng sinh khác, không ai khác và không ai hơn ai kém
thì chúng ta mới đạt đến Đạo. Tuy nhiên, nếu chúng ta chỉ muốn hòa hợp trong
một thời gian nhất định nào đó, dù là bao nhiêu ngàn tỉ năm đi nữa thì nó vẫn
chưa là Thọ Mạng Tướng vì khi tách rời ra thì vẫn là phá vỡ “khối chung”, và
vẫn là có “Tâm Phân Biệt”. Cũng chính vì Tâm Phân Biệt ấy mà thuở đầu chúng
sinh mới có “vọng tưởng” để rồi cùng nhau rời cõi Chơn Tâm (do Vô Minh) đi vào
luân hồi sinh tử. Và đó cũng là điều mà Đức Phật đề cập đến nhiều trong Kinh
Viên Giác cũng như Kinh Kim Cang: “Ngã Tướng, Nhân Tướng, Chúng sinh Tướng và
Thọ Mạng Tướng”!
Tu là
sửa đổi, trả nghiệp, tháo gỡ những oan trái mà mình đã quấn quanh mình qua
nhiều đời nhiều kiếp, hoàn thiện mình không dính vào luật nhân quả nữa. Khi
tháo gỡ, lột hết thì lúc ấy ta sẽ được an nhiên tự tại nơi được gọi là Niết
Bàn, Viên Giác, Đại Viên Cảnh Trí, Không Như Lai Tạng, Chơn Như, Bồ Đề, Pháp
Tánh hay Yêm-Ma-La-Thức; và tự được “sáng suốt chiếu soi” theo “bản giác minh
diệu” vậy!
Và khi
đạt được đạo thì Đức Phật có thuyết như sau:
-Khi
tâm hoàn toàn thanh tịnh rồi, thì cái trí quang sáng suốt hiện ra. Lúc bấy giờ
chơn tâm ông vừa tịch tịnh lại vừa chiếu soi, bao trùm khắp cả mười phương hư
không thế giới, lúc bấy giờ ông trở lại xem cảnh vật hiện tiền ở thế gian này,
cũng như là việc trong chiêm bao. Khi ông được như thế rồi thì nàng Ma Đăng Già
ở trong mộng kia làm gì bắt ông được!
(LN, sách đã dẫn, trang 235).
-Bởi
thế nên biết "Sanh tử và Niết Bàn" cũng đều như giấc mộng hôm qua, vì
chúng sanh vốn đã thành Phật từ xưa đến giờ. (Viên Giác, Phật Học Phổ Thông khóa VIII, HT. Thích Thiện
Hoa, trang 56).
Vì
“mê” chúng sinh rời Chơn Tâm để vào chơi trong cõi Luân hồi sinh tử, và khi trở
về lại với Chơn Tâm là nhờ nơi “giác ngộ”. Quả thật chúng sinh đã qua một giấc
mộng thật là dài. Nhưng giai đoạn ấy Đức Phật lấy một ví dụ của Luyện kim để
cho biết rằng: Chính thế mà chúng sinh sẽ không bao giờ còn mê muội nữa!
-Này
Thiện nam! Thí như chất kim khoáng, sau khi được nấu lọc, bỏ hết quặng rồi, thì
chỉ còn vàng y, chất vàng này không phải do nấu lọc mới sanh, vì nó có sẵn từ
trước kia rồi; và khi đã thành vàng y, cũng không bao giờ trở lại thành quặng
nữa, dầu trải qua bao nhiêu năm, nó cũng không hư hoại.
Tánh
viên giác thanh tịnh của Như Lai cũng thế.
(Viên Giác, sách đã dẫn, trang 70).
Như
vậy, chúng ta thấy rằng con đường tu tập của chúng sinh để trở về với Giác Ngộ
là con đường đi ngược lại thuở xa xưa. Nếu thuở xưa nào đó chúng ta vì có “vọng
tưởng” và “tâm phân biệt” để rời cõi Chơn Tâm; thì nay ta phải trả hết những
nghiệp báo, nhân quả đã gây ra từ khi mang thân xác hay không thân xác trong
cõi Luân hồi, hoàn thiện lấy mình và nhất là chúng ta phải “dứt bỏ” Tâm phân
biệt, tức không thấy cái “Ta” của mình “hơn” nữa hay ta khác với với mọi người
(Vô Ngã) mà “Ta” cũng như bao nhiêu chúng sinh khác để hòa đồng, “viên dung”
trở lại với mọi chúng sinh trong thời gian “vô hạn định” trong cõi gọi là Bồ
Đề, Pháp tánh, Không Như lai Tạng, Chơn Như hay Bồ Đề...
Những
điều đó giống như chúng ta khi rời nhà chẳng có gì cả, nhưng khi ra ngoài chúng
ta càng ngày càng mặc thêm nhiều lớp quần áo, càng đi xa càng mang thêm nhiều
hành lý, gây lắm ân oán. Khi mệt mỏi chúng ta quay trở về thì chúng ta phải dứt
bỏ từng món, lột từng lớp áo, trả từng ân oán nợ nần để khi hết cả thì chúng ta
cũng vừa về đến nhà. Khi đó chúng ta được sáng chói như khối vàng được luyện
tinh ròng, có đầy đủ trí huệ và Tri Kiến Phật!
Nhưng
Niết Bàn là gì? Ở đâu? Chúng ta sẽ tìm hiểu đến trong bài sau cùng với “Tính
Không”.
Nguyên
Thảo,
6/9/2011.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét