Trong kinh Pháp Hoa có dạy: "Đức Phật vì một đại sự
nhân duyên mới xuất hiện ra đời, để mở bày, chỉ dạy chúng sanh giác ngộ và thể
nhập vào tri kiến Phật". Giáo pháp của Phật như biển rộng rừng sâu, tuy
nhiên cũng có thể tóm thâu trong bốn câu kệ:
“Chư ác mạc tác
Chúng thiện phụng hành
Tự tịnh kỳ ý
Thị chư Phật giáo”.
Không làm các việc ác, gắng làm mọi việc lành, giữ tâm ý trong sạch, đó là lời dạy của chư Phật.
Đức Phật là Bậc Vô Thượng y Vương, thấy rõ căn bệnh chúng
sanh. Ngài dạy sở dĩ chúng sanh cứ mãi trôi lăn trong sanh tử luân hồi, tạo vô
số nghiệp ác là vì niệm bất giác, mê lầm, không biết tiêu trừ ba món độc hại,
không biết dùng diệu dược của Phật để tìm về với bản tánh thanh tịnh. Do đó hễ
ai đã phát nguyện làm đệ tử phật, xuất gia hay tại gia đều phải biết kiên trì
giới luật của Phật dạy để bảo tồn huệ mạng, mà phát đại Bồ Đề Tâm.
Muốn phát Bồ đề tâm tất nhiên phải biết chuyển THAM làm GIỚI, chuyển SÂN làm ĐỊNH, chuyển SI làm
HUỆ, chuyển PHIỀN NÃO thành BỒ ĐỀ, chuyển SANH TỬ thành NIẾT BÀN, chuyển UẾ ĐỘ
thành TỊNH ĐỘ. Người Phật tử mỗi khi cúng Phật đều niệm câu giới hương trước
hết, cho nên nói tu mà không giữ giới là tu sai đường lạc lối chứ không phải tu
theo con đường của Phật.
Tiếng Phạn, giới được gọi là Ba-la-đề-mộc-xoa, dịch là Bảo
giải thoát, có nghĩa là giới thường bảo hộ người tu hành, giải thoát sanh tử,
đạt đến Vô Thượng Bồ Đề. Bởi thế, giới là vị đạo sư của quả vị Tối Thượng Bồ
Đề. Quá khứ chư Phật nhờ giới mà thành đạo, hiện tại chư Phật lấy giới để độ
sanh, người tu hành sẽ nhờ giới mà được giải thoát. Giới là nền tảng của Thiền
định và Trí tuệ. Muôn đức trang nghiêm, giới là căn bản. Vì thế, Kinh có dạy
rằng: “Giới như đất bằng, muôn giống lành từ mặt đất mà sanh, giới như vị lương
y hay trị ba độc tham, sân si, giới như thuyền bè đưa người qua biển khổ, giới
như chuỗi anh lạc để trang nghiêm pháp thân”.
Giờ đây, các vị phát
tâm xả thân cầu Giới, vì các vị biết
rằng chính giới pháp mới là pháp môn viên mãn để giải thoát chúng ta ra khỏi
mọi phiền trược của kiếp luân hồi, vô minh điên đảo. Vì nghĩ đến sự cao quý của
giới pháp như thế, nên đã có những giờ
phút chúng ta đem hết thành tâm thiện chí để lãnh thọ. Chính những giới pháp
đức Phật đã thành tựu viên mãn và sau bao nhiêu công phu tu hành, đạt thành
chánh quả, Ngài đem giáo pháp đó dạy lại cho chúng ta xem như là pháp Thiền huệ
mạng của cả chính Ngài.
Bởi thế, sau khi Ngài viên tịch, giới pháp ấy vẫn tồn
tại để dắt dẫn hàng đệ tử dõng mãnh tu
học. Trước khi đức Phật nhập Niết Bàn, Ngài đã dạy rằng: "Sau khi ta diệt
độ, các con hãy tôn trọng trân quý giới luật như đi trong đêm tối được gặp đèn,
như người nghèo khó gặp được châu báu. Giới luật chính là vị "Thầy"
cao cả của các con, dù Ta còn thường trú tại cõi đời cũng không khác gì".
Giả sử chúng ta được
duyên may sanh ra đời gặp đức Phật còn trú thế, thì chắc chúng ta cũng được
nghe những lời dạy ấy, tuân giữ giới pháp của Ngài và tôn Ngài làm đấng Đạo Sư.
Nhưng vì bạc đức vô duyên,
chúng ta phải sanh vào đời mạt pháp. Mặc dầu không gặp Phật chúng ta vẫn còn
được phước duyên là có những giây phút được nghe giáo pháp của Ngài đã dạy,
biết những giới luật Ngài đã truyền để chúng ta tôn thờ giới pháp làm đấng Đạo
Sư như đức Phật ở đời không khác.
Một người đi trong đêm tối muốn thoát khỏi hố thẳm vực sâu
cần được ngọn đèn bao nhiêu, thì khi gặp được ngọn đèn, họ sẽ quý báu bấy
nhiêu, như kẻ nghèo khổ đói rách cần tiền của bao nhiêu, thì khi gặp châu báu,
tiền bạc họ sẽ giữ gìn cẩn trọng bấy nhiêu. Chúng ta những người tối tăm vì vô
minh, đói khổ vì thiếu thốn sự giác ngộ,
sự giải thoát. Cho nên chúng ta cũng sẽ quý giới pháp của Phật, không
khác gì những người đi trong đêm tối gặp được ánh đèn, chắc chắn sẽ không để
mất, kẻ nghèo gặp được châu báu sẽ bảo tồn quý trọng nó, thì người Phật tử cũng
vậy, khi đã biết giới luật là phương pháp cao quý để chúng ta nương theo, thì
chắc chắn sẽ đem hết thành tâm thiện chí cầu lãnh thọ, hộ trì cho bằng được.
Huống chi đã là con người, không ai là không có tội, không
ai tránh khỏi lỗi lầm, sai trái phiền não xấu xa. Nhưng tội lỗi, phiền não nếu
không nhờ những Pháp môn, những giới luật ngăn ngừa thì chắc chắn đời này qua
kiếp nọ chúng ta vẫn là những con người quê hèn, nghèo nàn, không bao giờ bước
lên được con đường Giải Thoát Giác Ngộ.
Các vị đang phát tâm
thọ Thập Thiện Giới đã hiểu rõ nguyên nhân tạo nên nghiệp ác, tất cả đều do ba
nghiệp thân, khẩu, ý cấu kết với ba độc tố tham, sân, si mà tạo ra nhiều tội
lỗi. Thân thì tạo nên việc sát sanh, trộm cướp, tà hạnh; miệng thì nói lời dối
trá, nói hai lưỡi, nói thêu dệt, nói lời thô ác, ý thì khởi lên lòng tham lam
bỏn xẻn, sân hận thù oán và tà kiến cố chấp từ đó mà tạo ra vô lượng vô biên
tội lỗi đã tạo khổ cho mình còn đi gây khổ cho người. Các vị hiểu được những
lợi ích lớn lao khi tu tập được 10 điều lành. Không sát sanh trái lại luôn luôn
phóng sanh, không trộm cướp trái lại luôn luôn bố thí. Không tà dâm trái lại
luôn luôn đem tịnh hạnh đến cho người khác. Không nói dối trái lại luôn luôn nói
đúng sự thật. Không nói hai lưỡi trái lại luôn luôn nói những lời đưa đến sự
hòa hợp, đoàn kết, không nói thêu dệt trái lại luôn luôn nói lời đúng đắn, lợi
ích. Không nói lời thô ác trái lại luôn luôn nói lời thật lòng, từ ái. Không
tham lam bỏn xẻn trái lại luôn luôn hướng tâm đến sự thí xả. Không thù oán sân
hận trái lại luôn luôn hướng tâm đến Chánh Kiến và Trí Tuệ. Các vị muốn gieo
trồng gốc rễ thiện nghiệp dẫn đến phước lạc nhơn thiên và đạo quả Niết bàn để
làm lợi lạc chúng sanh nên đã phát tâm thọ trì và tu hành Mười Thiện Nghiệp
Đạo. Mười Thiện Nghiệp Đạo ấy là căn bản của Bồ Đề Tâm Giới, là bước đầu tiên
đi lên Bồ Tát Đạo. Trong Giới Pháp nầy, thấy điều ác mà không tránh cố nhiên là
có tội, nhưng thấy việc thiện mà không làm thì chính cũng bị trái phạm.
Các vị đã thọ Thập
Thiện rồi, nay đang phát tâm thọ Tại Gia Bồ Tát Giới. Bồ Tát Giới nói cho đủ là
Đại Thừa Tâm Địa Giới. Danh từ Bồ Tát nói cho đủ là Bồ Đề Tát Đỏa. Bồ Đề là
Giác Ngộ, Tát Đỏa là hữu tình. Một chúng sanh, một hữu tình đã Giác Ngộ đồng
thời phát nguyện Giác Ngộ cho kẻ khác gọi là Bồ Tát. Danh từ Bồ Tát chẳng những
hôm nay các vị được lãnh mà trước đây các vị thọ giới Bồ tát cũng đã được lãnh
và mười phương Bồ Tát mà chúng ta đang kính lễ cũng đã được lãnh. Cùng một danh
từ Bồ Tát nhưng phân biệt ra có: Sơ Phát Tâm Bồ tát, Gia Hạnh Bồ tát, Địa
Thượng Bồ Tát, Địa Hậu Bồ Tát khác nhau. Như hôm nay các vị phát tâm thọ giới
Bồ Tát, là chỉ mới phát tâm thôi, chưa làm gì để thể hiện rõ ràng với sự phát
tâm ấy, chưa hoàn thành những Giới Hạnh đúng với một vị Bồ Tát thì được gọi là
sơ phát tâm Bồ Tát. Từ đó tu tập trải qua các giai đoạn Tín, Trụ, Hạnh, Hướng,
luyện theo những pháp môn Đại Thừa mà Đức Phật đã dạy thì gọi là Gia Hạnh Bồ
Tát. Nhờ sự Gia Hạnh đó mà vô minh sẽ diệt bớt, Chơn Như sẽ được chứng thành,
dần dần nhập vào Sơ Địa, Nhị Địa, Tam Địa, Tứ Địa cho đến Thập Địa. Những Bồ
Tát ở các địa vị này gọi là Địa Thượng Bồ Tát. Những vị ấy sau khi đã thành tựu
Đẳng Giác, Diệu Giác vẫn tùy duyên hóa độ chúng sanh dưới nhiều hình thức, dưới
nhiều căn cơ, dưới nhiều phương tiện. Tính cách tùy duyên hóa độ không trú Niết
Bàn của các đức Phật gọi là Địa Hậu Bồ Tát. Vậy cùng một danh từ Bồ Tát nhưng
có cấp bậc khác nhau. Hiểu rõ như thế chúng ta mới có một ấn tượng rõ ràng để
phát tâm một cách chắc chắn, tu hành một cách sáng suốt. Địa vị đã khác nhau
nhưng tại sao chúng ta cũng được gọi là Bồ Tát cả, bởi vì tuy cấp bậc khác nhau
nhưng có một điểm đồng nhất là Bồ-đề tâm. Bắt đầu phát Bồ-đề tâm là phát tâm
thượng cầu hạ hóa, tâm đó phát ra giờ nào thì chính giờ phút đó được gọi là Bồ
Tát. Tâm ấy bền chắc mãi mãi, qua thời gian và không gian chẳng bao giờ lay
chuyển cho đến khi trải qua các Địa Vị Gia Hạnh, Địa Thượng, Địa Hậu… vẫn một
Tâm Bồ Đề ấy, không khác gì một sợi chỉ xuyên các hột chuỗi.
Đức Phật biết tất cả chúng sanh đều có Tâm Địa Giác tức là
Giác Tánh sẵn có ở trong tất cả chúng sanh, cũng như ở các Đức Phật, các vị Bồ
Tát. Nhưng ở chúng ta thì chưa có Tâm Địa Giới, bởi vì Tâm Địa Giới ở trong
chúng ta không được xiển dương. Tâm Địa Giác nơi chúng ta luôn bị vùi lấp bởi
những hành vi sai trái những nghiệp chướng nặng nề, những tâm niệm ích kỷ nên
không thành Đại Thừa Tâm Địa Giới. Do đó Đức Phật căn cứ vào Tâm Địa Giác đó mà
chế ra những điều mục tu hành để thành tựu Tâm Địa Giới. Tâm Địa Giới ấy gọi là
Đại Thừa Bồ Tát Tâm Địa Giới mà hôm nay các vị sắp thọ.
Tâm địa chúng ta vốn có khả năng ngăn ngừa tất cả điều ác, Đức Phật từ đó chế ra NHIẾP LUẬT
NGHI GIỚI. Tâm dịa chúng ta vốn đủ khả
năng làm các điều lành, căn cứ vào đó
Đức Phật chế ra NHIẾP THIỆN PHÁP GIỚI. Tâm địa chúng ta vốn là giác tánh
bình đẳng, từ bi hỷ xả, lợi lạc hữu tình, Đức Phật thấy vậy mới chế ra NHIẾP
CHÚNG SANH GIỚI hay NHIÊU ÍCH HỮU TÌNH GIỚI.
Giới Bồ Tát muốn thọ
trì trước hết phải Phát Bồ Đề Tâm, vì
đây là Giới mà Đức Phật đã căn cứ vào
Tâm Địa Giới để chế ra. Có Bồ-đề tâm thì Giới mới được thành tựu, mất Bồ-đề tâm
thì Giới không thể hành trì. Bồ Đề Tâm là tâm viên mãn, tâm giải thoát, tâm
giác ngộ.

Giới Bồ Tát luôn luôn
nhìn đến chúng sanh những khía cạnh đau khổ mà chúng sanh phải gánh chịu. Chính
những đau khổ đó chính mình cũng đang mắc phải, những kẻ không có Bồ-đề tâm thì
không bao giờ biết bằng vào sự khổ của mình mà thông cảm nổi đau khổ của người
khác, bằng vào sự ưa muốn của mình mà cảm thông sự ưa muốn của kẻ khác; do đó
cứ muốn ta sống mà không biết gì đến kẻ khác chết, cứ muốn ta vui mà kể gì đến
kẻ khác khổ. Vì thiếu tâm Bồ-đề nên không bao giờ có được sự thông cảm Đại đồng
đó mà thuật ngữ Phật giáo gọi là Đồng Thể Đại Bi. Người thọ Giới Bồ Tát luôn
luôn đem tâm Bồ-đề thông cảm với mọi chúng sanh qua những khía cạnh an lạc, khổ
đau để cứu giúp tất cả. Đó là điểm cốt yếu của tâm Bồ-đề, của Giới Bồ Tát.
Phát Bồ-đề tâm, hành Bồ tát giới là phát bốn hoằng thệ nguyện:
“Chúng sanh không số lượng, thệ nguyện đều độ khắp
Phiền não không cùng tận, thệ nguyện đều dứt sạch
Pháp môn không kể xiết, thệ nguyện đều tu học
Phật đạo không gì hơn, thệ nguyện đều viên thành”.
Bốn đại nguyện này là
duyên theo Tứ Diệu Đế mà phát ra, một người muốn giữ trọn Bồ Tát Giới phải phát Bồ Đề Tâm, lập bốn đại
nguyện. Từ căn bản đó mới phát sanh, thành tựu các Giới Đức viên mãn. Hôm nay
các vị đã có nhân duyên phát tâm lãnh thọ Thập thiện và tại gia Bồ Tát Giới,
mong rằng các vị hãy cố gắng xa lìa ác pháp, quán nhiếp thiện duyên, tu tập
tinh cần, báo Phật ân đức. Hư không còn có ngày mòn, thế giới cũng có lúc tan,
mong rằng nguyện lực của quí vị sẽ được vô cùng. Ngưỡng nguyện Tam Bảo oai
quang, Hộ pháp Thiện thần, thùy từ chiếu giám.
Theo:lieuquanhue.com.vn
0 nhận xét:
Đăng nhận xét