
Bài tham luận của tôi chú trọng đến những vấn đề thuộc về
giới luật và đạo đức liên quan đến việc phục hoạt Ni đoàn trong truyền thống
Phật giáo Nguyên Thủy. Bài tham luận này chia làm ba phần: Phần I, tôi duyệt
lại những lập luận do những người theo phái Nguyên Thủy bảo thủ trình bày, những
người thấy rằng vấn đề phục hồi việc thọ đại giới Tỳ-kheo-ni là không thể thực
hiện được về phương diện giới luật. Trong Phần II, tôi trình bày những nghiên
cứu về mặt kinh điển và đạo đức ủng hộ chủ trương cho rằng cần phải phục hồi
việc thọ đại giới Tỳ-kheo-ni. Và trong phần III, tôi sẽ cân nhắc ngắn gọn về cơ
chế giới luật trong vấn đề phục hồi việc thọ đại giới Tỳ-kheo-ni theo truyền
thống Phật giáo Nguyên Thủy, đó là, làm thế nào để việc thọ đại giới được thực
hiện hài hòa với qui định của Luật Tạng (Vinaya).
Việc thọ đại giới Tỳ-kheo-ni gồm có ba giai đoạn: 1. Thọ
giới sa-di-ni (pabbajja), 2. Huấn luyện Thức-xoa-ma-ni (sikkhamana), 3. Thọ
Cụ-túc-giới/ đại giới Tỳ-kheo-ni (upasampada). Các Luật gia Nguyên Thủy đặt ra
nhiều cản trở ở cả ba giai đoạn này. Trong bài tham luận của tôi, tôi thảo luân
tất cả ba giai đoạn từ hai quan điểm : theo quan điểm chống đối do các Luật gia
bảo thù đặt ra, những người tuyên bố rằng không thể nào phục hồi việc thọ đại
giới, và quan điểm của những người ủng hộ vấn đề phục hồi việc thọ đại giới
Tỳ-kheo-ni. Vì thời gian dành cho việc trình bày bài tham luận này có giới hạn,
nên tôi sẽ hướng trọng tâm vào vấn đề thọ đại giới mà thôi. Lời kết luận của
tôi sẽ là : tôi cho rằng không một lập trường nào có thể rút ra một cách rõ
ràng từ Luật Tạng, nhưng việc diễn giải Luật Tạng tùy thuộc vào bối cảnh việc
diễn giải được thực hiện, và một số những giả định và mục đích mà người diễn
giải muốn đưa vào nhiêm vụ diễn giải.
I. Trường hợp chống đối vấn đề phục hồi việc thọ đại giới
Tỳ-kheo-ni
Đối với các Luật gia, giai đoạn thọ đại giới Tỳ-kheo-ni đặt
ra một trở ngại lớn nhất cho việc phục hồi Ni đoàn. Sự chống đối chính yếu dựa
trên điều luật mà các Luật gia đưa ra là việc truyền giới này phải do nhị bộ
tăng thực hiện. Nghĩa là việc này phải do cả Ni đoàn lẫn Tăng đoàn cùng thực
hiện, và để cho việc truyền giới là thuần túy Nguyên Thủy, việc truyền giới
phải xuất phát từ một Ni đoàn Nguyên Thủy hiện hành. Điếu này dưa đến một tình
trạng khó khăn bế tắc, vì nếu thiếu vắng một Ni đoàn Nguyên Thủy hiện hành, thì
việc thọ đại giới Tỳ-kheo-ni không thể được công nhận là đúng theo luật. Vì vậy
không thể có khả năng phục hồi Ni đoàn Nguyên Thủy. Việc thọ đại giới
Tỳ-kheo-ni vẫn vượt khỏi tầm tay trong suốt thời kỳ truyền thừa Phật giáo hiện
tại. Những phụ nữ muốn sống theo hạnh xuất gia sẽ phải chấp nhận một hình thức
thay thế của hạnh xuất gia, như là tu nữ
tám giới hay mười giới.
II. Trường hợp ủng hộ việc phục hoạt Ni đoàn Phật giáo
Nguyên Thủy
Sau khi sơ lược những lập luận về luật mà các giới chức bảo thủ về Luật Tạng đề
xuất để chống đối vấn đề phục hồi việc thọ đại giới Tỳ-kheo-ni trong truyền
thống Phật Giáo Nguyên Thủy, tôi xem xét một số yếu tố, về mặt kinh điển và đạo
đức, chủ trương ủng hộ việc phục hoạt. Tôi chia những yếu tố này thành hai
nhóm: một nhóm tôi gọi là “sự ủy quyền ngày xưa”, và nhóm kia tôi gọi là “những
hoàn cảnh thúc bách đương đại”.
‘Sự ủy quyền ngày xưa’ trước tiên là quyết định của chính
Đức Phật thành lập một Ni đoàn như một bộ phận tương ứng với Tăng đoàn. Khi Đức
Bà Ma-Ha-Ba-Xà-Ba-Đề (Kiều Đàm Di ) cùng với năm trăm phụ nữ thuộc bộ tộc Thích
Ca đến gặp Đức Phật, họ không đòi hỏi Đức Phật thiết lập một Ni đoàn. Họ chỉ
xin Đức Phật cho phép họ xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Mặc dù
lúc đầu Đức Phật từ chối lời thỉnh cầu này, cuối cùng Ngài đã chấp thuận. Tuy
nhiên, trong khi chấp thuận, Ngài không chỉ cho phép phụ nữ xuất gia, mà còn
cho phép phụ nữ xuất gia được thành lập một Ni đoàn riêng biệt, một cộng đồng
được điều hành bởi những điều lệ và qui định riêng của họ. Mặc dù Ngài đặt Ni
đoàn này lệ thuộc vào Tăng đoàn trong một vài phương diện, Ngài vẫn cho phép Ni
đoàn này phần lớn được tự trị. Điều này chứng tỏ rằng Ngài công nhận Ni đoàn là
một phần chính yếu của Giáo đoàn, không có Ni đoàn thì Giáo đoàn của Ngài sẽ
không hoàn hảo và không trọn vẹn.
Suy tư về những điều kiện đương đại cũng ủng hộ trường hợp
phục hồi việc thọ đại giới Tỳ-kheo-ni. Thời đại chúng ta được hình thành từ
những tư tưởng của triết thuyết Ánh Sáng Âu Châu, một phong trào xác nhận phẩm
giá nội tại của con người và đưa đến đòi hỏi bình đẳng chính trị và công bằng
cho mọi người trước pháp luật. Từ giữa thế kỷ thứ 19 trở đi, con người khắp điạ
cầu đã nhận thức rằng sự phân biệt đối xử dựa trên giới tính là vô lý và bất công,
một hệ thống đã áp đặt lên xã hội chỉ vì vai trò thống trị của nam giới trong
những thời kỳ mà sự ổn định xã hội tùy thuộc vào sức mạnh và quân lực. Như vậy
sự phân biệt đối xử dựa trên giới tính đã bị thách thức hầu như khắp nơi trong
mọi lãnh vực đời sống thế tục, và vai trò của nó trong phạm vi tôn giáo cũng
được đưa ra xem xét nghiêm túc. Tôn giáo vẫn là thành trì kiên cố nhất của sự
phân biệt đối xử này, và Phật giáo cũng không ngoại lệ. Đúng là Luật Tạng đã
qui định Tỳ-kheo-ni phải phục tùng Tỳ-kheo-tăng, và Ni đoàn phải phục tùng Tăng
đoàn, nhưng chúng ta nên nhớ rằng Đức Phật đã sống và giảng dạy ở Ấn độ vào thế
kỷ thứ năm trước Công Nguyên. Những công phu tu tập thuộc về nghi thức phải
được đánh giá trong ánh sáng của những điều kiện văn hóa và xã hội đã thay đổi.
Khi chúng ta hỏi đường lối hành động nào sẽ thích hợp với ngày nay, chúng ta
không nên hỏi Đức Phật đã làm gì 25 thế kỷ trước, mà nên hỏi là Ngài sẽ muốn
chúng ta làm gì trong thời đại này. Nếu người ta nhìn Phật giáo Nguyên Thủy như
một tôn giáo chỉ gồm có nam giới xuất gia, mà loại bỏ nữ giới xuất gia, hay chỉ
chấp nhận nữ giới qua một vài việc thọ giới không chính thức, người ta sẽ nghi
ngờ là có một điều gì thiên lệch trong
cơ bản, và những lập luận bảo vệ quan điểm ấy dựa trên những yêu cầu về các
nguyên tắc giới luật khó hiểu sẽ không mang tính thuyết phục để có thể xóa tan
mọi nghi ngờ. Đây sẽ là một ví dụ về một loại thái độ mà chúng ta thường thấy
trong Luật Tạng, nơi mà “nhưng người thiếu tự tin không đạt được lòng tự tin, trong
lúc giữa những người có lòng tự tin, thì một số lại thay đổi ý kiến liên tục”.
Mặc khác, bằng cách thu hết can đảm để phục hồi cho phụ nữ quyền được sống cuộc
đời xuất gia trọn vẹn, nghĩa là, bằng cách phục hoạt Giáo đoàn Tỳ-kheo-ni, các
vị trưởng lão Phật giáo Nguyên Thủy sẽ chứng tỏ là họ biết cách áp dụng Luật
Tạng theo một đường lối thích hợp với thời đại và hoàn cảnh, và cũng là cách
biểu lộ lòng từ bi và bao dung, hơn là khăng khăng bác bỏ.
III. Đối phó với thách thức về mặt giới luật
Tuy nhiên, trong lúc có thể có những lập luận mạnh mẽ trong
kinh điển và đạo đức ủng hộ cho việc
phục hồi Giáo đoàn Tỳ-kheo-ni, bước tiến này không thể thực hiện nếu những
chống đối về mặt giới luật đối với phong
trào này không đưọc giải quyết. Những Luật gia bác bỏ vấn đề phục hồi việc thọ
đại giới Tỳ-kheo-ni, không hẳn là vì thiên kiến đối với phụ nữ (mặc dù một số
có thể có thiên kiến đó), nhưng vì họ thấy thủ tục này không thể thực hiện được
về mặt giới luật. Để phục hoạt Giáo đoàn Tỳ-kheo-ni, ba điểm thách thức mà
những luật gia Nguyên Thủy đặt ra cần phải được giải quyết. Đó là những thách
thức dựa trên: 1. Vấn đề thọ giới sa-di-ni; 2. Vấn đề thọ giới và huấn luyện
Thức-xoa-ma-ni; và 3. Vấn đề thọ cụ túc giới/ đại giới Tỳ-kheo-ni.
Ở đây, tôi sẽ chỉ bàn về vấn đề thọ đại giới Tỳ-kheo-ni. Tuy
nhiên, trước khi làm việc này, trước tiên tôi muốn ghi nhận rằng lý thuyết về
giới luật của Phật giáo Nguyên Thủy thường pha trộn những qui định về giới luật
xuất phát từ các văn bản Luật Tạng và các bản Luận Tạng với những lời diễn giải
và nhận định đã được chấp nhận theo truyền thống qua nhiều thế kỷ. Tôi không
muốn xem nhẹ truyền thống, vì truyền thống tiêu biểu cho sự tích lũy kinh
nghiêm giới luật của nhiều thế hệ chuyên gia Luật Tạng, và dĩ nhiên là những
kinh nghiệm này cần phải được tôn trọng và cứu xét trong khi quyết định Luật
Tạng cần phải được áp dụng như thế nào trong những hoàn cảnh mới. Nhưng chúng ta cũng phải nhớ
rằng truyền thống không nên được đặt ngang hàng với Luật Tạng hoặc thậm chí với
tài liệu có giá trị thứ yếu như là các
bài luận giải (Atthakathas) và tiểu luận ( Tikas). Những nguồn tài liệu ấy cần
phải được ấn định nhiều mức độ giá trị thẩm quyền khác nhau tùy theo nguồn gốc
khác nhau của chúng. Tuy nhiên, khi sự hiểu biết của chúng ta về Luật Tạng đặt
nặng căn bản theo truyền thống, chúng ta có thể vô tình bị vướng vào mạng lưới
nhận định của các Luật gia bảo thủ và
điều này ngăn cản khả năng phân biệt của chúng ta về những gì được rút ra từ
Luật Tạng và những gì do
truyền thống qui định. Đôi lúc chỉ cần thay đổi những nhận định ấy cũng
có thể diễn giải lại các nguyên tắc Luật Tạng với sự hiểu biết hoàn toàn mới.
Tôi sẽ minh họa điểm này bằng phương pháp loại suy hình học.
Một đường thẳng được kẻ ngang qua một điểm. Khi đường thẳng này kéo dài ra thì
khoảng cách giữa hai đầu mút càng rộng hơn. Rõ ràng là hai đầu mút ấy sẽ không
bao giờ gặp nhau, và nếu có người nào tỏ ra nghi ngờ về điểm này, chắc là tôi
sẽ chất vấn tính hợp luận lý của người này. Nhưng sự kiện xảy ra như vậy chỉ vì
tôi đang suy nghĩ trong phạm vi của hình học truyền thống, hình học Euclide,
vốn đã giữ vững ảnh hưởng trong toán học cho đến thế kỷ thứ 20. Tuy nhiên, khi
chúng ta chấp nhận lập trường của hình học vòng tròn (spherical geometry),
chúng ta có thể thấy rằng một đường thẳng kẻ ngang qua một điểm nào đó, nếu
được kéo dài đủ xa, cuối cùng hai đầu mút của nó sẽ gặp nhau. Một lần nữa,
trong hình học truyền thống, chúng ta được dạy rằng một tam giác chỉ có thể có
nhiều nhất là một góc vuông và tổng số các góc của một tam giác phải bằng 180o,
và điều này có thể chứng minh tuyệt đối chặt chẽ. Nhưng sự kiện chỉ xảy ra như
thế trong không gian Euclide. Hãy cho tôi một vòng tròn, và chúng ta có thể
định nghĩa một tam giác có ba góc vuông và tổng số các góc bằng 270o. Như vậy,
nếu tôi từ bỏ những nhận định quen thuộc của mình, một loạt những khả năng mới
bỗng mở rộng tầm hiểu biết của tôi.
Cũng vậy đối với hiểu biết của chúng ta về Luật Tạng. Đối
với lý thuyết bảo thủ, những nhận định căn bản là: i) việc truyền đại giới do
nhị bộ tăng thực hiện được qui định để áp dụng cho mọi trường hợp và không chấp
nhận một ngoại lệ hay điều chỉnh nào để thích hợp với hoàn cảnh; ii) và Phật
giáo Nguyên Thủy là tông phái duy nhất gìn giữ truyền thống Luật Tạng đích
thực. Một khi những nhận định ấy được chấp nhận, sẽ không còn một lối thoát nào
đối với kết luận rằng Giáo đoàn Tỳ-kheo-ni đã đứt đoạn vĩnh viễn. Tuy nhiên,
những người ủng hộ việc phục hoạt Ni đoàn lại hoạt động với những nhận định
khác. Đối với họ, điểm khởi đầu căn bản là quyết định của Đức Phật thành lập Ni
đoàn. Thủ tục truyền giới chỉ là cơ chế giới luật để thực hiện quyết định
đó. Từ lập trường này, ngăn chận việc áp
dụng quyết định ấy chỉ vì một điểm về cơ chế giới luật tức là cản trở việc hoàn
thành ý định của chính Đức Phật. Điều này không có nghĩa là phương cách thực
hiện đúng đắn quyết định ấy sẽ vi phạm những qui định của Luật Tạng. Nhưng bên
trong những qui định bao quát ấy, hai nhận định của phe giới luật bảo thủ có
thể vượt qua bằng một hoặc cả hai điểm sau đây : i) trong những trường hợp
ngoại lệ Tăng đoàn có thể áp dụng việc truyền giới Tỳ-kheo-ni do nhất-
bộ-tăng thực hiện, dựa trên lời dạy của
Đức Phật: “Này các Tỷ kheo, ta cho phép các thầy truyền giới Tỳ-kheo-ni”; ii)
để duy trì hình thức truyền giới do nhị-bộ-tăng thực hiện, Tăng đoàn Nguyên
Thủy có thể kết hợp với một Ni đoàn từ một nước Đông Á theo “Tứ Phần” Luật Pháp
Tạng Bộ.
Phương cách truyền giới này có thể không thoả mãn được yêu
cầu khắc khe nhất của lý thuyết Luật
Tạng Nguyên Thủy bảo thủ, nghĩa là, việc truyền giới phải được thực hiện bởi
nhị bộ Tỳ-kheo-tăng và Tỳ-kheo-ni, và
những vị này phải được thọ giới từ những
Tỳ-kheo-tăng và Tỳ-kheo-ni Nguyên Thủy của một dòng truyền thừa không đứt đoạn.
Nhưng làm cho đòi hỏi không thể thực hiện này trở thành một yêu cầu không khoan
nhượng trong vấn đề phục hoạt giáo đoàn Tỳ-kheo-ni thì có vẻ khắt khe một cách
vô lý. Theo quan điểm của nhiều vị tăng Nguyên Thủy uyên thâm, chính yếu xuất
phát từ Tích lan, thì chấp nhận một trong hai phương cách đã nêu trên sẽ đưa
đến đỉnh cao là một cuộc truyền giới Tỳ-kheo-ni đúng luật và cùng lúc đó điều
này sẽ ban cho phụ nữ cơ hội được sống cuộc đời phạm hạnh theo đúng phương cách
Đức Phật đã có ý định muốn cho ni chúng được theo đuổi - đó là cuộc sống của
những Tỳ-kheo-ni đã thọ đại giới.
Đại giới đàn Tỳ-kheo-ni được tổ chức tại Bồ Đề Đạo Tràng
dưới sự bảo trợ của Tu Viện Phật Quang Sơn, đã kết hợp cả hai phương cách trên.
Phương pháp này đem lại kết quả mỹ mãn hơn là chỉ theo một trong hai phương
cách mà thôi. Lễ đại giới đàn đã qui tụ Tỳ kheo thuộc nhiều truyền thống khác
nhau - Đại thừa Trung quốc, Nguyên Thủy, và Tây Tạng – cùng với các Tỳ-kheo-ni
Đài loan và Tây phương để cử hành lễ thọ đại giới gồm đầy đủ nhị bộ tăng theo
truyền thống Trung quốc. Những vị ni được thọ giới gồm có các ni Nguyên thủy từ
Tích lan và Nepal, cũng như các ni Tây phương theo truyền thống Phật giáo Tây
Tạng. Người ta có thể nghĩ rằng đây là nghi lễ của Đại thừa và các ni được thọ
giới sẽ trở thành Tỳ-kheo-ni Đại thừa, nhưng đây là một sự hiểu lầm. Trong khi
các tăng ni Trung quốc là những vị theo Phật giáo Đại thừa, truyền thống Giới
Luật mà họ tuân thủ không phải là Giới Luật Đại thừa nhưng là Giới Luật Pháp Tạng Bộ (Dharmaguptaka), đó là bộ luật
thuộc về truyền thống Phân Tích Bộ (Vibhajyavada) của tông phái Nguyên Thủy cổ
sơ ở phương nam. Đây chính là bộ phái
tương đương với tông phái Nguyên Thủy ở tây bắc Ấn Độ, với bộ sưu tập kinh
điển, Luận A-tỳ-đàm và một Luật Tạng phần lớn tương ứng với Luật Tạng Pali. Như
vậy đại giới đàn do Tăng đoàn Trung quốc thực hiện ở Bồ Đề Đạo Tràng truyền đại
giới thuộc dòng Pháp Tạng Bộ, và theo ngôn ngữ giới luật, các vị ni này bây giờ là những Tỳ- kheo-ni thọ đẩy đủ
đại giới theo dòng truyền thừa của Giới luật Pháp Tạng bộ.
Tuy nhiên, các Tỳ-kheo-ni ở Tích lan muốn trở thành những
người kế thừa dòng Luật Tạng Nguyên Thủy để có thể được tăng đoàn Tích lan chấp
nhận. Những Tỳ kheo Tích lan đã bảo trợ cho việc thọ đại giới cũng lo ngại rằng
nếu các vị Tỳ-kheo-ni này trở về Tích
lan với việc thọ đại giới từ Trung quốc mà thôi, thì những người đồng đạo của
họ sẽ xem việc thọ giới ấy chính yếu là thuộc tông phái Đại thừa. Để tránh việc
này, chỉ một thời gian ngắn sau đó, các vị tân Tỳ-kheo-ni đi đến thành phố
Sarnath, nơi đó chư ni lại trải qua một cuộc thọ đại giới khác được tiến hành
bằng tiếng Pali do các vị Tỳ-kheo Nguyên thủy ở Tích lan thực hiện. Việc truyền
giới này không phủ nhận việc truyền đại giới trước đây do nhị bộ tăng thuộc
Tăng đoàn Trung quốc thực hiện, nhưng chỉ bổ túc và ban cho việc thọ đại giới
ấy một hướng đi mới. Việc truyền đại giới do nhị bộ tăng thực hiện ở Bồ Đề Đạo
Tràng công nhận chư ni ấy là Tỳ-kheo-ni, nhưng là những vị được truyền thừa từ
dòng Luật Pháp Tạng Bộ, và cuộc truyền giới tiếp theo do Tăng đoàn Nguyên Thủy
thực hiện ở Sarnath đã chính thức đưa các vị Tỳ-kheo-ni này vào Giáo đoàn
Nguyên Thủy. Bây giờ các vị Tỳ-kheo-Ni được quyền tuân theo Luật tạng của kinh
điển Pali và thực hiện những nhiệm vụ cần thiết của các giới tràng cùng với
huynh đệ của họ trong Giáo đoàn Nguyên thủy của Tích Lan.
Trong lúc việc truyền đại giới với đầy đủ nhị bộ tăng chắc
chắn là phương cách tốt hơn khi nào có điều kiện thực hiện, một trường hợp khác
cũng được nêu lên để chứng minh việc
truyền đại giới có thể chỉ do tăng đoàn Nguyên thủy thực hiện mà thôi. Người ta
có thể lập luận rằng trong những trường hợp ngoại lệ, khi một Giáo đoàn
Tỳ-kheo-ni đã đứt đoạn, thì tăng đoàn Nguyên Thủy được quyền đưa ra trường hợp
thời cổ sơ như là một tiền lệ khi chưa có Giáo đoàn Tỳ-kheo-ni, và phục hồi
điều lệ của Đức Phật đã cho phép chỉ một mình Tăng đoàn truyền đại giới cho
Tỳ-kheo-ni. Điều lệ này có thể được bảo vệ dựa trên nguyên tắc loại suy: khi
một phương cách ngoại lệ được sử dụng trong một số những trường hợp để đạt được
mục đích mong muốn, thì trong một số trường hợp tương tự như thế về mọi phương
diện, nếu không còn phương cách nào để đạt được mục đích mong muốn, chúng ta có
thể áp dụng lại phương cách ngoại lệ ấy. Trong trường hợp này, chúng ta tìm
thấy hoàn cảnh xuất phát điều lệ ấy vào thuở Giáo đoàn Tỳ-kheo-ni đầu tiên được
hình thành, khi Tăng đoàn bị đặt vào một hoàn cảnh tiến thối lưỡng nan. Điều lệ
thứ sáu của Bát Kỉnh Pháp đòi hỏi việc truyền giới Tỳ-kheo-ni phải do nhị bộ
tăng thực hiện, nhưng thời đó chưa có Giáo đoàn Tỳ-kheo-ni. Vậy làm thế nào
Tăng đoàn vượt qua khó khăn bế tắc này ? Theo kinh điển, thì Đức Phật đã dạy:”
Ta cho phép các thầy truyền giới Tỳ-kheo-ni”. Và vì thế, các Tỳ-kheo tiếp tục
truyền giới cho các Tỳ-kheo-ni cho đến khi nhị bộ tăng trở thành qui định hiện
thực. Hoàn cảnh này gần như giống y hệt hoàn cảnh chúng ta gặp phải gần đây,
khi có những phụ nữ muốn được thọ đại giới Tỳ-kheo-ni theo truyền thống Nguyên
Thủy nhưng không có Tỳ-kheo-ni Nguyên thủy nào để truyền giới cho họ. Vì thế,
một giải pháp đã được đề nghị là cho phép Tỳ kheo tăng Nguyên Thủy sử dụng sự
ủy quyền, vốn chưa bao giờ bị hủy bỏ, để truyền giới Tỳ-kheo-ni cho đến khi một Giáo đoàn
Tỳ-kheo-ni có chức năng hoạt động thực sự được hình thành. Đây là phương cách mà tăng đoàn Tích lan đã
áp dụng ở Sarnath để ban cho các Tỳ-kheo-ni Tích lan lần truyền giới thứ hai và
chính thức đưa các vị này vào Tăng đoàn Nguyên Thủy.
Tuy nhiên, bây giờ thì Ni đoàn Nguyên Thủy đã được phục hoạt
tại Tích lan, không còn lý giải nào để biện minh cho việc truyền đại giới do
nhất bộ tăng thực hiện mà thôi. Nếu một phụ nữ muốn thọ giới Tỳ-kheo-ni theo
truyền thống Nguyên Thủy, người ấy phải được huấn luyện giới hạnh
Thức-xoa-ma-ni và cuối cùng sẽ thọ đại giới Tỳ-kheo-ni ở Tích lan. Chắc chắn
đây đúng lúc là cơ hội để việc thọ đại giới Tỳ-kheo-ni được truyền bá rộng rãi ở Tây phương.
Kết luận
Sự kiện Giáo đoàn Tỳ-kheo-ni bị đứt đoạn đã đặt ra cho chúng
ta một hoàn cảnh không được đề cập rõ ràng trong Luật Tạng, và như vậy đó là
một hoàn cảnh không có được một phương cách giải quyết rõ ràng. Theo như tôi
hiểu, chúng ta không thể đọc Luật Tạng bằng một thái độ định kiến như là cho
phép vô điều kiện hoặc hoàn toàn ngăn cấm việc phục hoạt Giáo đoàn Tỳ-kheo-ni.
Những thái độ đó là kết quả của việc diễn giải, và việc diễn giải thường phản
ảnh thái độ của người diễn giải trong khuôn khổ
những nhận định của người ấy, cũng như phản ảnh ngôn từ của văn bản Luật
mà người ấy sử dụng.
Theo ý kiến của tôi, để giải quyết vấn nạn này, câu hỏi
trước tiên chúng ta phải nêu lên là :”
Đức Phật muốn các vị đệ tử trưởng lão của ngài làm gì trong tình huống như vậy,
bây giờ, trong thế kỷ thứ 21 này ?”. Có phải Ngài muốn chúng ta áp dụng những
qui luật điều hành việc thọ đại giới theo phương cách loại bỏ phụ nữ ra
khỏi đời sống xuất gia đầy đủ phạm hạnh,
để cho chúng ta trình bày với thế giới một tôn giáo trong đó chỉ có nam giới
được quyền sống đời xuất gia trọn vẹn ? Hay là thay vào đó, Ngài muốn chúng ta
áp dụng những điều lệ của Luật Tạng theo một phương cách từ bi, rộng lượng và
bao dung, và từ đó hiến tặng cho thế giới này một tôn giáo thật sự là biểu
tượng của công lý và không phân biệt đối
xử ?
Chúng ta không thể có câu trả lời ngay tức khắc cho những
câu hỏi này trong bất cứ một văn bản kinh điển hay truyền thống nào, nhưng tôi
không nghĩ rằng chúng ta hoàn toàn bị
rơi vào ý kiến chủ quan. Từ các văn bản kinh điển, chúng ta có thể thấy khi
thực hiện những quyết định quan trọng, Đức Phật đã biểu lộ cả lòng từ bi lẫn
tính nghiêm minh của giới luật, chúng ta có thể thấy là trong khi qui định
những tiêu chuẩn hành xử của Tăng đoàn, Ngài đã xem xét những kỳ vọng về mặt
văn hóa và xã hội của những người đương thời với Ngài. Vì vậy, để tìm ra một
giải pháp cho vấn nạn của chính chúng ta, chúng ta có hai kim chỉ nam hướng dẫn
để hành động. Một là cần phải đúng với tinh thần của Giáo Pháp – đúng cả chữ
nghĩa lẫn tinh thần, nhưng trên hết là đúng với tinh thần. Hai là phải đáp ứng
được những tầm nhận thức về mặt văn hoá, tri thức và xã hội của nhân loại trong
thời đại lịch sử đặc biệt mà chúng ta đang sống, thời đại mà chúng ta đang nỗ
lực hình thành số phận tương lai của chính chúng ta và số phận tương lai của
Phật giáo. Được nhìn trong ánh sáng này, vấn đề phục hoạt Giáo đoàn Tỳ-kheo-ni
có thể xem như một điều thực chất tốt đẹp phù hợp với tinh thần cốt lõi của
Giáp Pháp, giúp cho việc hoàn thành sứ mạng của chính Đức Phật là “ mở cánh cửa
Bất tử ” cho tất cả chúng sanh, cho nữ giới cũng như nam giới. Cùng lúc đó, sự
hiện hữu của một Giáo đoàn Tỳ-kheo-ni có thể hoạt động như một công cụ tốt đẹp.
Điều này sẽ cho phép ni giới thực hiện nhiều đóng góp có ý nghĩa cho Phật giáo
bằng nhiều cách giống như tăng giới - họ có thể là những giảng sư, học giả,
thiền sư, nhà giáo dục, cố vấn xã hội, và những vị hướng dẫn nghi lễ - và có lẽ
trong một vài trường hợp độc đáo chỉ dành cho các vị ni sư, thí dụ như là làm
cố vấn tâm lý và người hướng dẫn cho nữ cư sĩ. Một Giáo đoàn Tỳ-kheo-ni cũng sẽ
giúp cho Phật giáo nhận được sự kính trọng của những bậc thức giả trên thế
giới, những người xem vấn đề không phân biệt nam nữ là dấu hiệu của một tôn
giáo thật sự xứng đáng hài hoà với những khuynh hướng cao thượng của nền văn
minh hiện đại.
Tác giả: Bhikkhu Bodhi - Việt dịch: Trần Như Mai Source:
Buddhist Fellowship of Singapore Website (General News/Comment with regards
to Bhikkhuni Ordination/5/11/09)
(*) The Revival of Bhikkhuni Ordination in the Theravada
Tradition - Theo Thư Viện Hoa Sen
0 nhận xét:
Đăng nhận xét