Cây Ficus religiosa được xem là
một cây linh thiêng của Ấn giáo. Qua 49 ngày thiền định dưới gốc cây này, mà
Thái tử Siddhartha đã ngộ đạo và trở thành một vị Phật lịch sử của nhân loại,
được biết cho tới ngày hôm nay.
Qua việc hoàn toàn giác ngộ của Đức
Phật Thích Ca Mâu Ni và để tưởng nhớ đến cây đã che chở cho Ngài trong những
ngày nắng mưa, cho nên người ta mới đặt tên cho nó là cây Bồ đề.
Bồđề là danh từ dịch âm từ chữ
bodhi trong tiếng Phạn,viết theo mẫu devanāgarī : बोधि.
Trong thời Phật giáo nguyên thuỷ, Bồ đề dùng để chỉ trạng thái cho người tu
chứng được bốn cấp Thánh đạo (Phạn ngữ. āryamārga) bằng cách hành trì 37 Bồ đề
phần và Tứ diệu đế.
बोधि bodhi có gốc từ chữ bodh và बोधि bodhi có những nghĩa
được biết như sau : Khoa học, Thông minh, Sự hiểu biết am tường, Sự tiết lộ,
Sự phát hiện, Điều phát hiện, Sự chiếu sáng, Sự soi sáng, Thiên khải, Sự giải
thoát khỏi mối phiền não, Sự giác ngộ của một vị Phật.
Bảng biến hóa thân từ của
bodhiḥở dạng nữ tính :
Nữ
tính
|
Số
ít
|
Số
hai
|
Số
nhiều
|
Chủ
cách
|
bodhiḥ
|
bodhī
|
bodhayaḥ
|
Hô
cách
|
bodhe
|
bodhī
|
bodhayaḥ
|
Cách
trực bổ
|
bodhim
|
bodhī
|
bodhīḥ
|
Cách
dụng cụ
|
bodhyā
|
bodhibhyām
|
bodhibhiḥ
|
Cách
gián bổ
|
bodhyai
| bodhaye
|
bodhibhyām
|
bodhibhyaḥ
|
Cách
tách ly
|
bodhyāḥ | bodheḥ
|
bodhibhyām
|
bodhibhyaḥ
|
Cách
sở hữu
|
bodhyāḥ | bodheḥ
|
bodhyoḥ
|
bodhīnām
|
Cách
vị trí
|
bodhyām
| bodhau
|
bodhyoḥ
|
bodhiṣu
|
बोध् bodh có gốc từ động từ budh_1 ở thời chỉ nguyên
nhân. बोध् bodh là động từ thuộc nhóm 10 và nó có những nghĩa
như sau : Thu hút, Phát hiện, Làm cho sống động lại, Kích thích, Làm hưng
phấn, Kích động, Thúc đẩy, Cổ vũ, Làm cho thấu hiểu vấn đề, Nhắc lại, gợi lại;
làm nhớ đến, Làm cho tỉnh lại, Dạy, giảng dạy, Chỉ đường cho ai, Báo cho biết,
cho biết, thông báo, Khuyên, khuyên bảo, khuyên nhủ.
Giác là gì ? Ngộ là gì ?
Ngộ và Giác có khác nhau không ? Giác ngộ mang ý nghĩa gì trong Phật học?
Giác, Hán-Việt viết : 覺. Pāli:
vedāna. Phạn : vedana, viết theo mẫu devanāgarī : वेदन.
Thuật ngữ vedana có gốc từ chữ veda và thân kép –na. Trong ý nghĩa thường,
Vedana được biết như : Sự cảm nhận, Sự hiểu biết, Sự đau đớn. Theo Phật
học, Vedana có nghĩa là Thụ hay Thọ (受), mà Ðức Phật đã dạy trong Ngũ uẩn
(Pañca-skandha).
Thọ uẩn (Vedana-skandha) là cảm
giác, do sự tiếp xúc giữa giác quan và đối tượng mà sinh ra thọ. Ðức Phật nói
có 6 thọ như sau : Mắt tiếp xúc với hình sắc mà sinh thọ, tai với âm thanh, mũi
với mùi, lưỡi với vị, thân với vật cứng-mềm, ý với đối tượng tâm ý. Trong tinh
thần Phật học, Cảm giác không dừng lại ở mức độ tiếp xúc đơn thuần mà còn là
cảm xúc, một biểu hiện sâu hơn của cảm giác.
Có ba loại cảm giác được biết như
sau : Cảm giác khổ, Cảm giác vui sướng, Cảm giác không vui không khổ.
Cảm giác khổ là một loại cảm giác
khó chịu khi ta tiếp xúc với một đối tượng không thích ý, nó kèm theo một chuỗi
tâm lý khó chịu, bất mãn, tránh xa...
Cảm giác vui sướng là một loại cảm
giác dễ chịu, thoải mái, phấn khởi khi ta tiếp xúc với một đối tượng thích ý,
nó tạo cho ta niềm vui, sung sướng xích lại gần.
Cảm giác trung tính không khổ không
vui, nó không tạo cho ta cảm giác khó chịu hay dễ chịu, nó không tạo ra một lực
hút hay lực đẩy nào.
Ðức Phật dạy : "Này các thầy
Tỳ kheo, phàm cảm thọ gì quá khứ, vị lai hay hiện tại, nội hay ngoại, thô hay
tế, liệt hay thắng, xa hay gần, như vậy là thọ uẩn". Chấp thủ vào cảm thọ
bao giờ cũng sai lầm và gặt hái khổ đau.
Trong kinh Kim Cang có ghi câu Phật
dạy : "Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng, nhược kiến chư tướng phi tướng,
tức kiến Như Lai." Nghĩa là những gì có tướng đều hư dối, nếu thấy các
tướng chẳng phải tướng tức là giả, đó là thấy Phật, vì Phật là Giác.
Trong Kinh Viên Giác, Bồ tát Văn
thù có hỏi Phật: "Thế nào là vô minh?" Đức Phật dạy: "Chấp thân
tứ đại là thật, chấp tâm sanh diệt duyên theo bóng dáng sáu trần là thật, đó là
Vô minh." Vô minh với Minh ở gần bên nhau. Cả hai đều từ Tâm Thân mà có.
Khi người tu biết thay đổi cái nhìn, hay những cảm giác, từ sai lầm, si mê mà
chuyển qua thức tỉnh thì cũng được hiểu như là Giác.
Sau khi giác ngộ thành đạo,
Đức Phật Thích Ca có nói câu đầu tiên : "Lạ lùng thay, tất cả
mọi chúng sinh đều là Phật, có đủ hết mọi đức hạnh và sự sáng
suốt. Nhưng đầu óc bị xáo trộn bởi những tư tưởng sai lầm, cho nên
không nhận ra bản chất sáng suốt của chính mình. Tỉnh ngộ và tìm
lại bản chất thánh thiện đều có sẳn trong thân tâm của mỗi người. Ta là
Phật đã thành các ngươi là Phật sẽ thành."
Đây cũng là ngụ ý mà Đức Phật đã
nhìn thấy được khả năng tinh thần phát sinh ứng dụng ý thức lý trí, để đánh
thức những năng lực từ vô thức sâu thẳm bên trong của mọi người, qua kinh nghiệm
đạt được của chính Ngài.
Học Phật là học cách nhìn và cảm
nhận sự vật đúng với con mắt thức tỉnh tức là chấp nhận và sống với cái thật
của mình bằng chánh niệm. Thực hành theo bất cứ cách nào cũng sẽ đạt được mục
đích đem Tâm đến một trạng thái sáng suốt, quân bình, nhằm giúp cho Thiện pháp
sẳncó trong thân tâm của mỗi người đang chờ sự tỉnh thức và quyết tâm của từng
cá nhân, để có thể đi đến kết quả thấy biết như thật trong việc thành tựu đoạn
trừ ái, thủ.
Đoạn trừ ái, thủ được thành công,
không gì khác hơn, là nhờ vào sự vận dụng hữu hiệu trợ giúp quan trọng của Trí
tuệ để dập tắt khát ái. Khát ái được đoạn tận thì chấp thủ được đoạn tận, vô
minh được đoạn tận.
Trí tuệ là yếu tố quan trọng trực
tiếp đưa tới việc Tỉnh thức trong đời tu Phật. Nó không phải là các năng lực
thần bí. Sự tu tập không nên chấp vào phương pháp, mà điều chủ yếu cần
nên biết là việc phát triển chánh niệm. Cây sen không cần phải tránh xa bùn để
không bị ô nhiễm, bởi vì cấu trúc bẫm sinh tự nhiên của nó đã không thể thấm bùn.
Đức Phật được người ta gọi là Toàn giác, bởi vì Ngài giác ngộ bằng sự thực
hành, trải nghiệm của chính Ngài.
Ý thức và cảm nhận được mọi sự thay
đổi của thân thể, chính là sự khai triển khả năng tỉnh thức thường trực, cũng
được hiểu như là Giác. Cái khả năng tỉnh thức thường trực sẵn có mà người lại
hay quên, thì đây là một trong những nguyên nhân đầu tiên không thoát ra ngoài
được các nhận thấy như thực tự nhiên của sự vật.
Trong ý nghĩa giản dị của chữ Giác
là sự tỉnh thức thường trực để giúp con người định hướng rõ ràng hơn trong cách
làm việc cũng như cách sống hàng ngày.
Giác trong Phật học có thể hiểu như
sự nhận biết được như thực, nhằm nói lên một sự thật, một chân lý tất yếu, để
chỉ cho con người có thể nhận biết khả năng thành Phật của mình trong tương
lai, mà các đời chư Phật đã làm trong quá khứ của các đời chư Phật.
Thành Phật có nghĩa là đạt đến địa
vị tỉnh thức hoàn toàn và giải thoát vô minh trọn vẹn. Đức Phật đã đạt đến,
chúng sanh tinh tấn nỗ lực tu hành bằng khả năng thánh thiện của mình, rồi cũng
sẽ đạt đến Phật quả, bởi vì chúng sanh sẵn có Phật tánh rồi.
Phật tánh là mầm lương thiện sẳn có
trong mỗi người, và cũng là một món thuốc qúy nuôi dưỡng Tâm để nuôi cái sống.
Phật tánh không thuộc về riêng ai. Phật tánh không có giai cấp phân biệt và
không có sự riêng tư, như Đức Phật đã khai thị trong Kinh Pháp Hoa :
Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh.
Tất cả chúng sinh đều có khả năng
giác ngộ tối thượng.
Tất cả chúng sinh đều sẽ thành Phật.
Trước khi tin chắc vào lời Phật
nói. Trước khi tin chắc vào khả năng tỉnh thức của chính mình. Trước khi tin
chắn sẽ thành Phật. Là Phật tử hay không phải là Phật tử, nên thử tìm hiểu và
kiểm chứng một cách nghiêm túc trong cách tự tu tập riêng của bản thân, để hiểu
thêm ý nghĩa về chữ Giác, qua những lời Ðức Phật đã dạy dưới đây :
1) Chớ vội tin điều gì, chỉ vì điều
đó là truyền thuyết.
2) Chớ vội tin điều gì, chỉ vì điều
đó thuộc về truyền thống.
3) Chớ vội tin điều gì, chỉ vì điều
đó được nhiều người nhắc đến hay tuyên truyền.
4) Chớ vội tin điều gì, chỉ vì điều
đó được ghi lại trong sách vở hay kinh điển.
5) Chớ vội tin điều gì, chỉ vì điều
đó lý luận siêu hình.
6) Chớ vội tin điều gì, chỉ vì điều
đó phù hợp với lập trường của mình.
7) Chớ vội tin điều gì, chỉ vì điều
ấy phù hợp với định kiến của mình.
8) Chớ vội tin điều gì, khi điều đó
được căn cứ trên những dữ kiện hời hợt.
9) Chớ vội tin điều gì, chỉ vì điều
ấy được sức mạnh và quyền uy ủng hộ.
10) Chớ vội tin điều gì, chỉ vì
điều ấy được các nhà truyền giáo hay đạo sư của mình tuyên thuyết.
Biết thân giả, tâm sanh diệt giả,
đó cũng là Giác. Thuật ngữ Vedana वेदन (Giác) có gốc từ chữ
veda và thân kép –na.
Bảng biến hóa thân từ của
vedana ở dạng trung tính :
Trung
tính
|
Số
ít
|
Số
hai
|
Số
nhiều
|
Chủ
cách
|
vedanam
|
vedane
|
vedanāni
|
Hô
cách
|
vedana
|
vedane
|
vedanāni
|
Cách
trực bổ
|
vedanam
|
vedane
|
vedanāni
|
Cách
dụng cụ
|
vedanena
|
vedanābhyām
|
vedanaiḥ
|
Cách
gián bổ
|
vedanāya
|
vedanābhyām
|
vedanebhyaḥ
|
Cách
tách ly
|
vedanāt
|
vedanābhyām
|
vedanebhyaḥ
|
Cách
sở hữu
|
vedanasya
|
vedanayoḥ
|
vedanānām
|
Cách
vị trí
|
vedane
|
vedanayoḥ
|
vedaneṣu
|
Bảng biến hóa thân từ của
vedana ở dạng nữ tính :
Nữ
tính
|
Số
ít
|
Số
hai
|
Số
nhiều
|
Chủ
cách
|
vedanā
|
vedane
|
vedanāḥ
|
Hô
cách
|
vedane
|
vedane
|
vedanāḥ
|
Cách
trực bổ
|
vedanām
|
vedane
|
vedanāḥ
|
Cách
dụng cụ
|
vedanayā
|
vedanābhyām
|
vedanābhiḥ
|
Cách
gián bổ
|
vedanāyai
|
vedanābhyām
|
vedanābhyaḥ
|
Cách
tách ly
|
vedanāyāḥ
|
vedanābhyām
|
vedanābhyaḥ
|
Cách
sở hữu
|
vedanāyāḥ
|
vedanayoḥ
|
vedanānām
|
Cách
vị trí
|
vedanāyām
|
vedanayoḥ
|
vedanāsu
|
Thuật ngữ Vedana có gốc từ
chữ वेद veda và Veda có những nghĩa được biết như sau :
Sự hiểu biết, Khoa học, Lời nói mầu nhiệm, Sự hiểu biết có tính soi sáng.
Bảng biến hóa thân từ của
veda ở dạng nam tính :
Nam
tính
|
Số
ít
|
Số
hai
|
Số
nhiều
|
Chủ
cách
|
vedaḥ
|
vedau
|
vedāḥ
|
Hô
cách
|
veda
|
vedau
|
vedāḥ
|
Cách
trực bổ
|
vedam
|
vedau
|
vedān
|
Cách
dụng cụ
|
vedena
|
vedābhyām
|
vedaiḥ
|
Cách
gián bổ
|
vedāya
|
vedābhyām
|
vedebhyaḥ
|
Cách
tách ly
|
vedāt
|
vedābhyām
|
vedebhyaḥ
|
Cách
sở hữu
|
vedasya
|
vedayoḥ
|
vedānām
|
Cách
vị trí
|
vede
|
vedayoḥ
|
vedeṣu
|
वेद Veda có gốc từ chữ वेद्
Ved và वेद् Ved có gốc từ động từ vid_1, dùng ở thời chỉ
nguyên nhân. वेद् Ved là động từ thuộc nhóm 10 và nó có những nghĩa
được biết như sau : Báo cho ai biết một điều gì đó, Thông báo, Làm cho ai
hiểu biết cái gì đó, Hướng dẫn, Chỉ bảo, Truyền đạt.
Biết thân này giả. Biết tâm sanh
diệt giả trong sự biến hóa vô thường của sự vật, bằng chánh niệm qua quá trình
tu tập, là hiểu ra được (Ngộ, 悟) cái yếu tính của sự vật như thế là
như thế. Hiểu được như vậy thì mới thấy cái chân thật không sanh diệt, đó chính
là lúc nhận và sống với cái Tánh giác sẵn có của chính mình. Người nhận thấy và
hiểu biết được lý này, thì đã hiểu được đầy đủ tất cả ý nghĩa diệu dụng ý nghĩa
của câu hỏi : Giác ngộ là cái gì?. Và khi đã hiểu được Giác ngộ là cái gì rồi,
thì không còn những gì nghi vấn nữa trên con đường tu tập, ngày nay chưa được,
ngày mai tiếp tục… Cứ rèn luyện như thế, sẽ thấy lý do tại sao Phật tánh mình
vốn có sẵn, nếu nhận ra nó thì mình thành Phật, còn nếu mình quên nó thì nó
cũng không mất. Có phải là chuyện lạ thường không?
Một thành tựu cần thiết cho quá
trình tu tập để đoạn tận khổ đau, cũng đều tùy thuộc vào bản chất của con
đường tu tập. Bản chất này bao gồm những yếu tố như sau :
Trạch pháp (dharmapravicaya), phân
tích, biết phân biệt đúng sai.
Tinh tiến (vīrya).
Hỉ (prīti), tâm hoan hỉ.
Khinh an (praśabdhi), tâm thức sảng
khoái.
Niệm (smṛti),
tỉnh giác.
Định (samādhi), có sự tập trung
lắng đọng.
Xả (upekṣā),
lòng buông xả, không câu chấp.
Con đường tu luyện để đắc đạo đương
nhiên rất khó. Vì bắt buộc phải đi ngược dòng thế tục. Người tu Phật được Đức
Phật dạy làm sao để biết chính mình thật sự có mặt và sống an lạc chung với tất
cả đại chúng, qua sự đã giác ngộ của Ngài, như thế đó, thì sự an lạc đó cũng
được gọi là Tathāgata. Do đó Như Lai không từ đâu đến và cũng không đi về đâu
cả. Không thuộc về sự mong cầu mang tính cá nhân.
Hiểu được Chân như tức là hiểu được
cái nhất thể của khách thể và chủ thể trong thế giới nhị nguyên, và biết phải
làm sao để thoát khỏi thế giới bằng đỉnh cao của Trí tuệ. Đây cũng chính là
lý do tại sao Chân Như cũng còn được gọi là : "Như Lai Tạng
(Tathàgatagarbha), Phật tính, Pháp thân". Như Lai là một hiện tại được
nhân cách hóa, nhưng bản chất thực sự của nó nằm ở trong thân tâm của một vị
Phật và mỗi người đều có thể hiện được để trở thành Như Lai như Đức Phật Thích
Ca.
Ngoài cái tên Bodhi mà người ta đã
đặt cho cây Ficus religiosa, từ khi Thái tử Tất-đạt-đa Cồ-đàm đạt giác ngộ, đã
trở thành một vị Phật. Cây Bồ đề này được gọi là Aśvattha, अश्वत्थ,
trong phạn ngữ và Assattha theo tiếng Pali. Aśvattha có gốc từ chữ Aśva, अश्व và
Stha स्थ.
अश्व Aśva có nghĩa là con ngựa, con ngựa trong bàn cờ vua, Aśvā
là thân từ ở dạng nữ tính và nghĩa của nó là con ngựa cái.
Bảng biến hóa thân từ của
aśvattha ở dạng nam tính :
Nam
tính
|
Số
ít
|
Số
hai
|
Số
nhiều
|
Chủ
cách
|
aśvatthaḥ
|
aśvatthau
|
aśvatthāḥ
|
Hô
cách
|
aśvattha
|
aśvatthau
|
aśvatthāḥ
|
Cách
trực bổ
|
aśvattham
|
aśvatthau
|
aśvatthān
|
Cách
dụng cụ
|
aśvatthena
|
aśvatthābhyām
|
aśvatthaiḥ
|
Cách
gián bổ
|
aśvatthāya
|
aśvatthābhyām
|
aśvatthebhyaḥ
|
Cách
tách ly
|
aśvatthāt
|
aśvatthābhyām
|
aśvatthebhyaḥ
|
Cách
sở hữu
|
aśvatthasya
|
aśvatthayoḥ
|
aśvatthānām
|
Cách
vị trí
|
aśvatthe
|
aśvatthayoḥ
|
aśvattheṣu
|
Bảng biến hóa thân từ của
aśvatthāở dạng nữ tính :
Nữ
tính
|
Số
ít
|
Số
hai
|
Số
nhiều
|
Chủ
cách
|
aśvatthā
|
aśvatthe
|
aśvatthāḥ
|
Hô
cách
|
aśvatthe
|
aśvatthe
|
aśvatthāḥ
|
Cách
trực bổ
|
aśvatthām
|
aśvatthe
|
aśvatthāḥ
|
Cách
dụng cụ
|
aśvatthayā
|
aśvatthābhyām
|
aśvatthābhiḥ
|
Cách
gián bổ
|
aśvatthāyai
|
aśvatthābhyām
|
aśvatthābhyaḥ
|
Cách
tách ly
|
aśvatthāyāḥ
|
aśvatthābhyām
|
aśvatthābhyaḥ
|
Cách
sở hữu
|
aśvatthāyāḥ
|
aśvatthayoḥ
|
aśvatthānām
|
Cách
vị trí
|
aśvatthāyām
|
aśvatthayoḥ
|
aśvatthāsu
|
Bảng biến hóa thân từ của
aśva ở dạng nam tính :
Nam
tính
|
Số
ít
|
Số
hai
|
Số
nhiều
|
Chủ
cách
|
aśvaḥ
|
aśvau
|
aśvāḥ
|
Hô
cách
|
aśva
|
aśvau
|
aśvāḥ
|
Cách
trực bổ
|
aśvam
|
aśvau
|
aśvān
|
Cách
dụng cụ
|
aśvena
|
aśvābhyām
|
aśvaiḥ
|
Cách
gián bổ
|
aśvāya
|
aśvābhyām
|
aśvebhyaḥ
|
Cách
tách ly
|
aśvāt
|
aśvābhyām
|
aśvebhyaḥ
|
Cách
sở hữu
|
aśvasya
|
aśvayoḥ
|
aśvānām
|
Cách
vị trí
|
aśve
|
aśvayoḥ
|
aśveṣu
|
Bảng biến hóa thân từ của
aśvattha ở dạng nam tính :
Nữ
tính
|
Số
ít
|
Số
hai
|
Số
nhiều
|
Chủ
cách
|
aśvā
|
aśve
|
aśvāḥ
|
Hô
cách
|
aśve
|
aśve
|
aśvāḥ
|
Cách
trực bổ
|
aśvām
|
aśve
|
aśvāḥ
|
Cách
dụng cụ
|
aśvayā
|
aśvābhyām
|
aśvābhiḥ
|
Cách
gián bổ
|
aśvāyai
|
aśvābhyām
|
aśvābhyaḥ
|
Cách
tách ly
|
aśvāyāḥ
|
aśvābhyām
|
aśvābhyaḥ
|
Cách
sở hữu
|
aśvāyāḥ
|
aśvayoḥ
|
aśvānām
|
Cách
vị trí
|
aśvāyām
|
aśvayoḥ
|
aśvāsu
|
स्थ stha có gốc từ chữ sthā_1, thân từ thuộc tĩnh từ và
có ba dạng : Nam tính, trung tính, nữ tính. Sthā_2 c ó nghĩa được dùng chỉ
cho những hành động như sau : Giữ lấy, ở trong, chiếm đóng, làm, thực
hành, tạm trú.
Bảng biến hóa thân từ của
stha ở dạng nam tính :
Nam
tính
|
Số
ít
|
Số
hai
|
Số
nhiều
|
Chủ
cách
|
sthaḥ
|
sthau
|
sthāḥ
|
Hô
cách
|
stha
|
sthau
|
sthāḥ
|
Cách
trực bổ
|
stham
|
sthau
|
sthān
|
Cách
dụng cụ
|
sthena
|
sthābhyām
|
sthaiḥ
|
Cách
gián bổ
|
sthāya
|
sthābhyām
|
sthebhyaḥ
|
Cách
tách ly
|
sthāt
|
sthābhyām
|
sthebhyaḥ
|
Cách
sở hữu
|
sthasya
|
sthayoḥ
|
sthānām
|
Cách
vị trí
|
sthe
|
sthayoḥ
|
stheṣu
|
Bảng biến hóa thân từ của
stha ở dạng trung tính :
Trung
tính
|
Số
ít
|
Số
hai
|
Số
nhiều
|
Chủ
cách
|
stham
|
sthe
|
sthāni
|
Hô
cách
|
stha
|
sthe
|
sthāni
|
Cách
trực bổ
|
stham
|
sthe
|
sthāni
|
Cách
dụng cụ
|
sthena
|
sthābhyām
|
sthaiḥ
|
Cách
gián bổ
|
sthāya
|
sthābhyām
|
sthebhyaḥ
|
Cách
tách ly
|
sthāt
|
sthābhyām
|
sthebhyaḥ
|
Cách
sở hữu
|
sthasya
|
sthayoḥ
|
sthānām
|
Cách
vị trí
|
sthe
|
sthayoḥ
|
stheṣu
|
Bảng biến hóa thân từ của
sthā ở dạng nữ tính :
Nữ
tính
|
Số
ít
|
Số
hai
|
Số
nhiều
|
Chủ
cách
|
sthā
|
sthe
|
sthāḥ
|
Hô
cách
|
sthe
|
sthe
|
sthāḥ
|
Cách
trực bổ
|
sthām
|
sthe
|
sthāḥ
|
Cách
dụng cụ
|
sthayā
|
sthābhyām
|
sthābhiḥ
|
Cách
gián bổ
|
sthāyai
|
sthābhyām
|
sthābhyaḥ
|
Cách
tách ly
|
sthāyāḥ
|
sthābhyām
|
sthābhyaḥ
|
Cách
sở hữu
|
sthāyāḥ
|
sthayoḥ
|
sthānām
|
Cách
vị trí
|
sthāyām
|
sthayoḥ
|
sthāsu
|
Động từ căn √ स्था
sthā_1, là động từ thuộc nhóm 1 và nó có những nghĩa như sau : Tự đứng
thẳng, tự bất động, ở, cư ngụ, nhấn mạnh, kéo dài, tự dừng lại, chờ đợi, hiện
diện, có mặt ở nơi nào đó, tự dựa vào, tự lo liệu, tự hiến dâng, thực hành,
sống thẳng đứng, thiết lập, đặt tên, đặt để, ngừng lại.
पिप्पल pippala cũng là từ đồng nghĩa với Aśvattha, अश्वत्थ.
Tóm lại
Ngộ (悟) là một thuật ngữ của phái
thiền tông, được dùng để chỉ sự nhận thức, trực nhận, thấu hiểu xuyên
suốt, không có sự phân biệt giữa người nhận thức và vật được nhận thức. Chữ Ngộ
thường dùng để chỉ cái kinh nghiệm thức tỉnh ngay tức thì của nó.
Giác ( 覺 ) là một thuật ngữ
dùng chỉ sự tỉnh thức, bằng sự cảm nhận và hiểu biết thường trực. Tiếng
Phạn gọi là Vedana, viết theo mẫu devanāgarī : वेदन.
Theo Phật học, Vedana có nghĩa là Thụ hay Thọ (受), mà Ðức Phật đã dạy trong Ngũ
uẩn (Pañca-skandha).
Giác thường đi với Ngộ thành
Giác Ngộ. Phạn ngữ gọi là bodhi, viết theo mẫu devanāgarī : बोधि .
Bodhi có gốc từ chữ bodh và nó có những nghĩa được biết như sau : Khoa
học, Thông minh, Sự hiểu biết am tường, Sự tiết lộ, Sự phát hiện, Điều phát
hiện, Sự chiếu sáng, Sự soi sáng, Thiên khải, Sự giải thoát khỏi mối phiền não,
Sự giác ngộ của một vị Phật.
Bodhi phiên âm theo Hán Việt là Bồ
đề. Bồ đề dùng để chỉ trạng thái cho người tu chứng được bốn cấp Thánh đạo
(Phạn ngữ. āryamārga) bằng cách hành trì 37 Bồ đề phần và Tứ diệu đế.
Người giác ngộ hoàn toàn trong lịch
sử là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, cũng là người sáng lập ra đạo Phật hay đạo
giác ngộ. Giác ngộ ( 覺悟 ) là thuật ngữ dùng để chỉ sự hiểu biết được cái nhất
thể của khách thể và chủ thể trong thế giới nhị nguyên, và biết phải làm sao để
thoát khỏi thế giới này bằng đỉnh cao của Trí tuệ.
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni được sinh
ra như một con ngừơi, sống như một con người và kết thúc cuộc đời như một con
người, nhưng lại là con người có toàn năng, toàn trí, toàn giác.
Ngài luôn luôn sống trong trí tuệ
thấy biết mọi sự vật hiện tượng đúng như thật, do Ngài đã trải qua quá trình tu
tập chuyển hóa thân tâm, loại bỏ phiền não tham, sân, si chiến thắng được những
dục vọng của tự thân, đưa đến phát minh trí tuệ và chứng ngộ chân lý.
Ngài có nói: " Chiến thắng vạn
quân binh không bằng tự thắng mình, tự thắng mình mới là một chiến công oanh
liệt. "
Từ kinh nghiệm bản thân, đức Phật
thấy con người có khả năng thành đạt trí tuệ, chứng ngộ chân lý và là chủ nhân
của chính mình, hoàn toàn không phụ thuộc vào ân huệ của một quyền năng siêu
nhiên nào bên ngoài. Chính nơi con người tiềm ẩn một năng lực phát triển vô
hạn, đó là nguồn sống bao la của vũ trụ, sở dĩ chưa trực nhận và khai triển
được vì còn bị vô minh che khuất.
Vào thời Đức Phật Thích Ca Mâu Ni
xuất hiện tại Ấn Độ. Các đạo sĩ thường bàn luận về câu hỏi: Thế nào là
một vị Phật? Ai là người giác ngộ? Một hôm, có một vị đạo sĩ già,
tên Brahmayu, nghe tin có Ngài ẩn sĩ Cồ Đàm là một vị Phật, vừa du hành đến thị
trấn của ông ta, nên ông quyết định đến thăm Ngài (Trích Trung Bộ, kinh 91).
Vị đạo sĩ Brahmayu nói
: " Kính thưa Ngài Cồ Đàm, tôi có vài thắc mắc muốn hỏi Ngài ".
Đức Phật mời ông nêu ra những thắc
mắc trong lòng.
Vị đạo sĩ nêu ra các câu hỏi qua
một bài kệ bốn câu, đại ý chính là :
Làm thế nào để được gọi là
Phật, một Bậc Giác ngộ?
Đức Phật trả lời qua bốn câu kệ như
sau:
" Những
gì cần biết rõ, Ta đã biết rõ.
Những
gì cần từ bỏ, Ta đã từ bỏ.
Những gì cần
tu tập. Ta đã tu tập.
Do vậy, này
Vị đạo sĩ, Ta là Phật ".
Nếu ngày nào đó có người nào hỏi:
" Bạn quy y Tam bảo chính yếu là để làm gì? Bạn giữ giới để làm
gì? Bạn hành thiền để làm gì? " thì câu trả lời của Đức Phật ở
trên sẽ giúp bạn là : " Để biết rõ những gì cần hiểu rõ. Để loại bỏ những
gì cần phải bỏ. Để tập tu những gì cần tu tập ".
Kính chúc quý vị một ngày vui vẻ
trong tình học Phật,
Kính bút
TS Huệ Dân
Website:
http://chua-phuoc-binh.com


01:50
ĐẠO PHẬT CHÂN CHÍNH
Posted in:

0 nhận xét:
Đăng nhận xét