Sách tiếng Hán dịch chữ này là đạm (màu nhạt), trọc hay trược(đục,
dơ bẩn, ô nhiễm, rác bẩn), hoặc còn dịch là hoại
sắc, bất chính sắc, hư nát, dính bẩn…Tóm lại chiếc áo cà-sa của người xuất gia tu Phật, của hàng
tỳ kheo,…tượng trưng cho những gì nghèo nàn, thô sơ, tầm thường, và khiêm
nhường nhất. Người đọc, nếu chưa có ý niệm gì về chiếc áo của một nhà tu Phật
giáo, cũng có thể hơi ngạc nhiên khi đọc những điều vừa nêu trên đây.
Thật vậy, kẻ thế
tục thường hay đồng hoá chiếc áo với người tu hành hay Đạo Pháp của Đức Phật vì
họ chỉ thấy những biểu tượng hay những quy ước mà thôi. Họ có thể cho rằng Đạo
Pháp hay người tu hành thì rất cao cả, nhưng chiếc áo thì lại rất tầm thường,
hoặc đôi khi cũng có thể hiểu ngược lại là chiếc áo tượng trưng cho sự cao
cả, còn nhà sư thì lại tầm thường. Tầm thường ở đây có nghĩa là khiêm tốn,
nhưng cũng có thể hiểu theo nghĩa đen là không xứng đáng để khoác lên người
chiếc áo cà-sa.
Bài viết không đề cập đến trường hợp theo nghĩa đen hiếm hoi này, tuy
nhiên trên thực tế cũng có thể xảy ra được.
Ngày nay, nhiều tu viện lớn ở Miến điện vẫn còn giữ được truyền thống thật xưa,
theo đó các nhà sư phải tự đi nhặt những mảnh vải vụn, những tấm khăn đắp hay
liệm người chết vứt bỏ ở những nơi hỏa táng, nghĩa địa hay những đống rác, rồi
đem về tự mình chắp nối và may lấy áo để mặc. Mỗi người chỉ được phép có ba
chiếc áo như thế, thêm một bình bát để khất thực và một bàn chải đánh răng, thế
thôi. Đến đôi dép cũng không có vì họ đi chân đất, và có lẽ đây là một truyền
thống rất lâu đời, từ thời Đức Phật còn tại thế. Tóm lại, chiếc áo cà-sa không bao giờ mang màu sắc sặc sỡ, kết
ren hay thêu thùa. Chiếc áo của người tu hành không phải là một hình thức để
tạo ra ảo giác, không được dùng để loè mắt những người thế tục…Chiếc áo cà-sa là biểu tượng của những gì khiêm tốn,
đơn sơ và tầm thường nhất mà ta có thể tưởng tượng được. Tuy nhiên đồng thời,
chiếc áo cà-sa lại cũng là biểu tượng của Đạo Pháp,
do đó cũng tượng trưng cho những gì cao cả, thâm sâu và thiêng liêng nhất, vượt
lên trên sự hiểu biết quy ước của chúng ta.
Trên
thực tế thì ngày nay chiếc áo cà-sa đã biến đổi ít nhiều tùy theo phong
thổ, tập quán, chủng tộc, học phái…Nhưng dù cho có biến đổi thế nào đi nữa thì
chiếc áo cà-sa vẫn giữ được ý nghĩa nguyên thủy của
nó : sự đơn sơ, khiêm nhường, trân quý và cao cả.
Bài viết này sẽ lần lượt chọn hai thí dụ điển hình, một thuộc Nam tông và một
thuộc Thiền học trong Bắc tông để trình bày những biến đổi từ quan niệm đến
hình thức của chiếc áo cà-sa,
và sau đó sẽ lạm bàn xa hơn về ý nghĩa của chiếc áo ấy.
Nguồn gốc, tên gọi và những biểu tượng của
chiếc áo cà-sa
Theo Luật Tạng (Vinaya), Tăng đoàn của Phật lúc ban đầu ăn mặc không khác biệt
gì với những người tu hành thuộc các truyền thống tôn giáo khác. Vì thế vua
Tần-bà-sa-la (Bimbisara) đề nghị với Phật xin cho các đệ tử được ăn mặc khác
hơn để mọi người dễ nhận ra. Đúng vào thời điểm ấy, Phật và người đệ tử thân
cận nhất là A-nan-đà đang du hành ở phương Nam để thuyết giảng. Phật nhìn
thấy những thửa ruộng lúa hình chữ nhật, chia cắt bởi những con đê tăm tắp,
liền bảo A-nan-đà cứ theo mẫu ấy mà may áo cho Tăng đoàn. Vì thế, trong kinh
sách tiếng Hán, chiếc áo cà-sa còn gọi là Cát triệt y hay Điền
tướng y, mảnh áo mang hình những thửa ruộng, tượng trưng cho sự phong phú
và phúc hạnh.
Câu chuyện này cũng đã bắt đầu cho thấy những dấu hiệu của
sự biến dạng. Cách so sánh khá thi vị trên đây đòi hỏi đến trí tưởng tượng và
những ước mơ phù hợp với các tiêu chuẩn và quan niệm quy ước về hạnh phúc và
giàu sang của thời đại bấy giờ, nghĩa là không có gì là Đạo Pháp cả. Như đã
trình bày trong phần nhập đề, chiếc áo cà-sa gồm nhiều mảnh ráp lại vì đó là những
mảnh vải vụn nhặt được ở bãi tha ma, tượng trưng cho những gì tầm thường nhất
và cũng để nhắc nhở người tu hành về tấm thân vô thường của họ.
Tiếng Hán còn gọi chiếc áo cà-sa là Đoạn phục, Pháp y, Nhẫn
nhục khải, Giải thoát chàng, Cà-sa-duệ, Già-sa-dã…, các chữ này hàm
chứa một ý nghĩa đại cương là dứt bỏ, bất chính, ô uế, nhiễm bẩn, có màu xích
sắc (màu đỏ)… Theo sách tiếng Hán, áo không bắt buộc phải nhuộm bằng một màu
nhất định nào cả, chỉ cần tránh không dùng năm màu chính là xanh, vàng, đỏ,
trắng và đen, và đồng thời có thể pha trộn nhiều màu với nhau để tạo ra một màu xích sắc thật bẩn thỉu, đúng theo ý nghĩa
nguyên thủy của chữ kasaya trong tiếng Phạn. Áo gồm nhiều mảnh,
có thể mỗi mảnh một màu, vì đó là những mảnh vải nhặt được và khâu lại với nhau.
Ngày nay tùy theo học phái, địa phương, phong tục, khí hậu…mà chiếc áo cà-sa cũng biến dạng đi, từ cách may cho đến
màu sắc : màu vàng ở Ấn độ và các nước theo truyền thống Nam tông ;
các màu vàng, màu lam, nâu, nâu đỏ (nhuộm bằng vỏ cây mộc lan, hay củ nâu) như
ở Việt Nam và Trung quốc ; màu lam ở Hàn quốc ; màu đen hay nâu đen
(màu trà) ở Nhật ; màu vàng nghệ hay nâu đỏ ở Tây tạng…Nói chung có ba màu
chính gọi là như pháp cà-sa
sắc tam chủng (ba màu sắc
của áo cà-sa theo phép quy định) : tức màu gần
như đen (màu thâm, màu bùn dất), màu xanh (màu rỉ đồng), màu gần như đỏ (màu
hoa quả).
Pháp y của người tu hành gồm có ba loại : Đại, Trung và Tiểu. Loại nhỏ,
Tiểu y, gọi là An-đà-hội(Antarvasaka),
áo này gồm có năm mảnh ráp lại (ngũ điều). Áo kiểu Trung gọi là Uất-đa-la-tăng (Yttara-Samgha) gồm có bẩy mảnh (thất
điều). Áo kiểu rộng, Đại y, gọi là Tăng-già-lê (Samghati), gồm chín mảnh (cửu điều).
Trên đây là các loại áo cà-sa có gốc từ Ấn độ. Tùy theo xứ lạnh hay
nóng bức, những nơi giá rét có thể mặc áo tiểu và trung bên trong, rồi mặc thêm
áo cửu điều bên ngoài.
Chiếc áo cà-sa dùng để che thân, để đắp, để gối đầu
hoặc để gấp lại và ngồi lên đó như một tọa
cụ. Kinh Bát-nhã có kể chuyện Phật cùng với các đồ đệ sau khi khất thực
về, ăn xong, Phật tự lau rửa bình bát, sau đó tự tay xếp áo cà-sa làm tọa cụ và ngồi lên đó để thuyết
giảng. Có khi các đồ đệ lấy áo của mình xếp chồng lên nhau để Phật
ngồi.
Công dụng của chiếc áo cà-sa thiết thực như thế, nhưng dần dần người ta gán
thêm cho nó nhiều đức tính khác nữa. Kinh
Bi hoa kể chuyện áo Cà-sa ngũ đức và kể các đức ấy ra như sau : 1.
Người thế tục nếu biết kính trọng cà-sa sẽ tiếp nhận được Tam Thừa (tức Thanh
văn thừa, Duyên giác
thừa và Bồ-tát thừa), 2. Thiên long nhân quỷ nếu biết kính cà-sa cũng đắc Tam thừa, 3. Quỷ thần và
chúng sinh chỉ cần bốn tấc vải của chiếc áo cà-sa cũng được no đủ, 4. Chúng sinh hằng tâm niệm về chiếc áo cà-sa sẽ phát sinh được lòngTừ bi,
5. Giữa nơi trận mạc, nếu có được một mảnh nhỏ áo cà-sa và biết cung kính mảnh áo ấy cũng
thắng trận. Một quyển kinh khác là Tâm
địa quán kinh lại nêu lên
đến mười điều lợi của chiếc áo cà-sa và gọi là Cà-sa thập lợi : 1. Che
thân khỏi thẹn ngượng, 2. Tránh ruồi muỗi, nóng rét, 3. Biểu thị các tướng tốt
của người xuất gia, 4. Kho chứa châu báu (tức Diệu Pháp của Phật), 5. Phát sinh
nghị lực gìn giữ giới hạnh, 6. Màu nhạt bẩn không làm phát sinh lòng ham muốn,
7. Mang đến sự thanh tịnh, 8. Tiêu trừ tội lỗi, 9. Mảnh đất tốt làm nẩy sinh
Bồ-đề tâm, 10. Giống như áo giáp, mũi tên phiền não không đâm thủng được.
Kể lể dài dòng như trên đây chẳng qua vì mục đích muốn nêu lên một thí dụ điển
hình trong việc thêm thắt và biến dạng đối với ý nghĩa của chiếc áo cà-sa. Chẳng hạn như đức tính
thứ năm do Kinh Bi hoa kể : « nơi trận mạc, nếu
có một mảnh nhỏ cà-sa và biết cung kính cũng thắng trận », đức
tính này có lẽ không phù hợp lắm với Đạo Pháp của Phật. Dù sao cũng xin phép
được tiếp tục kể thêm rằng một vài kinh sách gốc Hán đã đặt cho chiếc áo cà-sa
đến mười hai danh hiệu khác nhau và gọi là Cà-sa
thập nhị danh : 1. Cà-sa,
2.Đạo phục (áo của người
tu hành), 3. Thế phục (áo của người xa lánh thế tục), 4. Pháp y (áo đúng theo quy định trong Đạo
Pháp), 5. Ly trần tục (áo xa lánh lục trần), 6. Tiêu sấu phục (áo có khả năng tiêu trừ phiền não),
7. Liên hoa phục (áo như hoa sen không nhiễm bùn nhơ),
8. Gián sắc phục (áo đem nhuộm cốt ý làm hư hoại màu
sắc), 9. Từ bi phục (áo của người thực thi đức Từ bi), 10. Phúc điền phục (áo gồm nhiều mảnh giống như những
mảnh ruộng tượng trưng cho sự giàu có và phúc hạnh), 11. Ngọa cụ (áo dùng để lót lưng khi nằm), 12. Phu cụ (áo dùng làm chăn để đắp).
Tiếp
theo ta hãy tìm hiểu ý nghĩa chiếc áo cà-sa trong hai trường hợp điển hình là
Nam tông và Thiền tông.
Lễ Dâng
y của Nam
tông
Một trong những lễ hội lớn nhất và quan trọng nhất của Nam tông là lễ Dâng y trong dịp kiết hạ. Sau thời gian ba
tháng an cư trong mùa mưa là lễ kiết hạ. Lễ kiết hạ đánh dấu ngày chấm dứt ẩn cư, tức thời
gian không được phép đi ra ngoài của các tỳ kheo. Người Nam tông làm lễ này rất
long trọng và gọi là lễ Dâng
yhay Kathina. Thật
sự chữ kathina trong tiếng Pali (tiếng Phạn là kathinya) không có nghĩa gì
là áo hay dâng
ymà có nghĩa là sự vững
chắc và trong ngôn ngữ Pali
chữ này lại có một nghĩa nữa là cái
khung để dệt vải hay căng vải để may áo.
Trong dịp lễ này, Phật tử dâng vải cho Tăng đoàn may áo cà-sa. Trước khi dâng, vải và
các vật cúng dường khác được đặt vào mâm rồi đội lên đầu đi diễn hành trong
thôn xóm, làng mạc trước khi đến Chùa để dâng lên các tỳ kheo. Các tỳ kheo phải
chia nhau may cắt và phải may cho xong chiếc áo trong một ngày. Tục lệ này được
đặt ra để nhắc lại sự tích người mẹ nuôi của Đức Phật, cũng là người Dì tức là
em của mẹ Đức Phật, tên là Ma-ha Ba-xà-ba-đề Cồ-đàm-di (Mahaprajapati Gautami),
đã từng thức suốt một đêm để hoàn tất chiếc áo cho Phật. Khi Phật sinh ra đời
được bẩy ngày thì mẹ mất, người Dì đứng ra chăm sóc cho Phật. Sau này, khi Phật
đạt được Giác ngộ, Bà đã xin quy y và thành lập Tăng đoàn các Tỳ kheo ni, vì
thế Bà cũng là Ni sư đầu tiên của Phật giáo.
Quy luật an cư cần phải có tối thiểu năm tỳ kheo cho mỗi nhóm, và được hưởng
một khúc vải dài độ ba thước. Theo nghi lễ, cả nhóm họp lại để cắt may, xong áo
thì tặng cho tỳ kheo nào nghèo nhất, hoặc cho người nào thông thái nhất hay lớn
tuổi nhất trong nhóm. Khi may xong, áo được căng lên một cái khung(kathina)
rồi mời mọi người đến chiêm ngưỡng. Áo này được gọi là mahakathina. Sau đó, khung căng áo được tháo
ra để tượng trưng cho sự nới lỏng một vài giới luật đối với các tỳ kheo. Nhưng
trước đó trong suốt thời gian an cư, phải giữ khung căng áo nguyên vẹn vì là
biểu tượng của giới luật phải giữ gìn. Vì thế, lễ kiết hạcủa Nam tông mang tên
là kathina tức là sự chặt chẽ, vững chắc đúng
theo nghĩa của chữ này trong tiếng Phạn và tiếng Pali.
Trên đây là những tục lệ và ý nghĩa được thêm thắt và tô điểm qua thời gian.
Kinh sách tiếng Pali có kể một câu chuyện như sau. Trước mùa an cư, có một nhóm
tỳ kheo độ chừng ba mươi đến năm mươi người họp nhau cùng đi đến thành Xá-vệ
(Savatthi) để được an cư bên cạnh Phật. Trên đường đến Xá-vệ thì không may họ
gặp mưa bảo triền miên, đi đứng khó khăn, cho nên khi đến được Xá-vệ thì quần
áo rách nát tả tơi và hạn an cư ba tháng đã chấm dứt. Khi thấy nhóm tỳ kheo đến
trễ, quần áo tả tơi, Đức Phật bèn quyết định tạm thời lưu giữ toàn thể Tăng
đoàn ở lại để vá hoặc may quần áo mới, do đó đã nới lỏng một vài giới luật.
Cũng có một cách giải thích khác là tháng đầu tiên sau khi kiết hạ là tháng dành cho việc may mặc, vì thế
nên một vài điều luật được tạm thời nới lỏng trong thời gian này để các tỳ kheo
lo việc may áo cà-sa.
Tuy rằng ngày nay, việc may mặc không còn là một mối quan tâm cho người tu
hành, nhưng thói tục vẫn còn giữ để bảo tồn sự tương trợ giữa các tỳ kheo với
nhau, giúp nhau trong việc may vá. Về phía người thế tục, thì họ cúng dường vải
vóc để tự nhắc nhở phải nghĩ đến những khó khăn và thiếu thốn của người xuất
gia.
Các câu chuyện trên đây cho thấy những biến dạng trong ý nghĩa của chiếc áo cà-sa đối với Nam tông. Tuy là những ý nghĩa
thêm thắt nhưng vẫn giữ được truyền thống lâu đời. Những thêm thắt đó đã củng
cố và tô điểm thêm cho Đạo Pháp và nhất là bày ra những tục lệ giúp một cách
thiết thực vào việc tu hành.
Chiếc áo cà-sa và Thiền tông
Trước khi tịch diệt, Phật trao y
bát cho người đệ tử uyên
bác, kỷ cương và đạo hạnh nhất là Ma-ha Ca-diếp và khuyên bảo các tỳ-kheo khác
sau này nên nghe theo những lời hướng dẫn của Ca-diếp. Thật ra khi Ma-ha
Ca-diếp gặp Phật lần đầu, Phật đã trao áo của Ngài cho Ma-ha Ca-diếp rồi. Lúc
ấy Phật đi từ thành Vương-xá (Rajagrha) đến địa phận Na-lan-đà, Ma-ha Ca-diếp
gặp Phật đang đi trên đường và nhận ra ngay chính đây là Đức Thế Tôn. Ma-ha
Ca-diếp phủ phục dưới chân Phật. Phật tuyên bố đây chính thực là một đệ tử của
Ngài. Phật cởi áo để trao đổi với Ca-diếp và sau đó đã thuyết giảng riêng cho
Ca-diếp. Nhờ thế chỉ tám ngày sau Ca-diếp đắc quả La-hán. Nhưng cũng nên hiểu
rằng ngài Ca-diếp đã có căn tu trừ trước, đã dốc lòng tu tập trước khi gặp được
Phật. Kinh sách kể chuyện ngài bỏ nhà đi tìm Đạo đúng vào ngày Đức Phật đạt
được Giác ngộ. Sau này khi Đức Phật tịch diệt, chính ngài Ca-diếp đứng ra tổ
chức lần kết tập đầu tiên những lời giảng huấn của Phật. Ma-ha Ca-diếp sống rất
thọ, theo Kinh Tăng nhất A-hàm, Ma-ha Ca-diếp trèo lên hang Thạch đầu ở núi
Kì-xà-quật (Kukkutapada) khoác lên người chiếc áo cà-sa của Phật rồi thệ nguyện rằng xác thân
này sẽ không hư nát cho đến khi nào Phật Di Lặc hiển hiện để cứu độ chúng sinh.
Sau lời phát nguyện, Ma-ha Ca-diếp nhập vào Niết bàn.
Một lần ở núi Linh thứu, trong một buổi đăng đàn, Đức Thế Tôn không thốt lên
một lời nào cả, chỉ cầm một cánh hoa đưa lên cho mọi người xem. Tất cả đều ngơ
ngác không ai hiểu gì, chỉ có một mình Ma-ha Ca-diếp nét mặt bừng tỉnh và mỉm
cười. Truyền thuyết này gọi là « Niêm hoa vi tiếu » (cầm
hoa mỉm cười), nêu lên khái niệm về sự tinh tế và cao siêu của Giác ngộ
không thể trình bày hay diễn đạt bằng lời nói được. Yên lặng tượng trưng cho sự
quán nhận trực tiếp, vượt lên trên ngôn từ và sự hiểu biết quy ước của chúng
ta. Đây cũng là một đặc thù của Thiền học, và cũng vì thế ngài Ca-diếp được xem
là tổ thứ nhất của Thiền tông trên đất Ấn.
Ngài Ma-ha Ca-diếp về sau lại trao y bát của mình cho A-nan-đà. Tục lệ truyền
thụ này tiếp tục trên đất Ấn cho đến tổ thứ 28 là Bồ-đề-đạt-ma (~470-543), tức
là đã kéo dài gần một ngàn năm sau khi Phật tịch diệt. Khi Bồ-đề-đạt-ma sang
truyền giáo ở Trung quốc, ngài lại trở thành vị tổ thứ nhất của Thiền tông trên
phần đất này. Tục lệ truyền y bát tiếp tục trên đất nước Trung hoa cho đến tổ
thứ sáu là ngài Huệ Năng (638-713), tức là được thêm khoảng hai trăm năm nữa.
Y bát của tổ thứ năm và ngài Huệ
Năng
Ngài Hoằng Nhẫn (601-674), tổ thứ năm của Thiền tông Trung quốc, trao chiếc áo cà-sa tượng trưng sự lãnh đạo tông phái cho
ngài Huệ-Năng, vì Huệ Năng là người thấu hiểu sâu xa hơn hết về Thiền học trong
số các môn đồ trong tông phái. Huệ Năng kính cẩn tiếp nhận chiếc áo cà-sa cao quý ấy và đồng thời cũng hiểu rằng
khi nhận lãnh chiếc áo tượng trưng cho sự lãnh đạo và uy quyền này thì cũng khó
tránh khỏi sự ganh tỵ và tranh chấp trong Tăng đoàn. Ngài Hoằng Nhẫn cũng ý
thức được điều ấy, nên khi trao chiếc áo cho Huệ Năng đã khuyên Huệ Năng bỏ
trốn về phương Nam, và nhất là sau này không nên truyền thụ y bát nữa.
Hừng đông, Huệ Năng khoác lên người một chiếc áo rách để hóa trang, ôm chặt cái
bọc gói chiếc áocà-sa của
ngũ tổ Hoằng Nhẫn, lẻn ra khỏi chùa và cắm cổ đi miết về phương Nam. Đi suốt
mấy ngày liền, khi đến vùng núi Đại châu Huệ Năng bỗng nghe thấy tiếng ồn ào
phía sau liền ngoảnh cổ lại để nhìn và giật mình hoảng hốt vì có hàng trăm
người đang hò hét đuổi theo. Dẫn đầu đám đông là sư Huệ Minh, một cựu võ quan
đi tu, chính là người muốn cướp đoạt chiếc áo cà-sa của ngũ tổ. Đám đông càng lúc càng
gần, Huệ Năng thì vừa mệt lại vừa đói không còn đủ sức để chạy thêm được nữa,
ông liền để cái bọc áo cà-sa lên một tảng đá rồi ngẩng cổ hướng về
phía đám đông và nói lớn lên như sau : « Chiếc áo cà-sa tượng
trưng cho việc Hoằng Pháp. Tại sao các ông là đám người thế tục lại muốn cướp
nó ? Cướp giữ chiếc áo cà-sa nhưng thiếu chính Pháp, chẳng qua cũng như một
cánh hoa phản chiếu trong gương mà thôi ». Nói xong Huệ Năng tìm một
bụi rậm bên đường chui vào để trốn.
Huệ Minh chạy đến thấy cái bọc áo cà-sa,
mừng quá liền ôm lấy, nhưng cái gói lại dính chặt vào tảng đá, không thể nào gỡ
ra, hoặc kéo lên được. Huệ Minh bổng nhiên cảm nhận được sức mạnh vô biên của
Đạo Pháp, liền chui vào bụi rậm tìm Huệ Năng và phủ phục dưới chân Huệ Năng xin
được thọ giáo.
Câu chuyện lại tiếp tục như sau. Huệ Năng rời Huệ Minh và tiếp tục đi về phương
Nam. Huệ Năng đến thôn Tào khê, thuộc quận Thiều châu, tá túc ở chùa Bảo lâm.
Nhiều tháng sau, vào một đêm tối, có một đám đông gồm nhiều nhà sư, đầu đội mũ
sùm sụp, kéo đến đập cửa sau của chùa và hét to lên : « Này Huệ
Năng, ngươi phải đưa chiếc áo cà-sa cho chúng ta. Nếu không sẽ có chuyện to đấy ».
Trong chùa, Huệ Năng sợ quá, ôm bọc áo tông cổng trước mà chạy. Huệ Năng phăng
phăng trèo lên một ngọn đồi gần chùa, nhìn xuống thấy đám đông đốt đuốc đuổi
theo, họ chạy nối đuôi nhau, ngoằn ngoèo như một con rắn lửa đỏ rực. Huệ Năng
thì mệt lả không còn chạy được nữa, liền chui vào một khe đá để trốn. Một lúc
lâu, không nghe động tịnh gì, ông thò đầu nhìn ra. Nhưng lúc ấy cả ngọn đồi đã
cháy rực như một biển lửa. Đám đông, vì không tìm thấy ông, nên nổi lửa đốt
ngọn đồi và tin rằng Huệ Năng thế nào cũng phải chui ra.
Trong tình huống dầu sôi lửa bỏng như thế, Huệ Năng vẫn không cảm thấy sợ hãi
cho thân mình, chỉ nghĩ đến việc phải bảo vệ chiếc áo mà thôi. Ông bỗng chợt
nhớ đến trước đây Huệ Minh không thể nhấc được chiếc áo lên khỏi tảng đá và ông
tin rằng chiếc áo này là biểu tượng của sức mạnh Đạo Pháp, không thể nào cháy
được. Ông liền bình thản mở cái bọc và khoác lên người chiếc áo cao quý ấy rồi
tọa thiền trên một tảng đá. Sau khi nhập thiền, Huệ Năng cảm thấy thân xác nặng
thêm, lún sâu vào đá, cảnh tượng hãi hùng biến mất, lửa tắt, khỏi đen và bụi mù
cũng tan biến hết. Cảnh vật chung quanh bỗng nhiên trở nên êm ả một cách lạ
thường.
Tọa thiền như thế thật lâu, bất chợt Huệ Năng cảm thấy có những tia sáng xuyên
vào mắt. Ông mở mắt ra thì mặt trời đã lên cao, cây cỏ chung quanh và trên khắp
ngọn đồi đã bị cháy sạch, tro bụi khắp nơi. Chiếc áocà-sa bám đầy tro nhưng vẫn giữ được vẽ rạng
rỡ. Huệ Năng đứng lên, nhưng lại hết sức ngạc nhiên nhận thấy trên mặt tảng đá
nơi ông ngồi bị lún sâu, in dấu hai đầu gối và mông của ông lúc tọa thiền, nhìn
kỹ hơn lại thấy cả vết vạt áo, vết vải và đường chỉ khâu nữa. Trước cảnh tượng
đó, Huệ Năng bất thần chứng ngộ được sức mạnh của Đạo Pháp.
Chiếc áo cà-sa và Thiền học Zen
Sau đây lại
xin kể tiếp các chuyện khác về chiếc áo cà-sa trong Thiền tông, đặc biệt là Thiền
phái Zen của người Nhật. Người Nhật gọi chiếc áo cà-sa là okesa hay kesa, chữ này cũng có gốc từ chữ Phạn kesaya.Chữ okesa trong tiếng Nhật có nghĩa là miếng vải
thừa vứt bỏ, dính bẩn hay hư hoại. Người Nhật tu Thiền còn gọi chiếc áo kesa là « Fukuden-e », chiếc áo của Phúc hạnh, hoặc
« Mu soo », chiếc áo « Vô tướng » hay «Không hình tướng », tức chiếc áo của một người « Vô ngã », tự tay khâu lấy cho mình và
mặc lên một thân xác « không
mang một dấu hiệu gì cả ».
Người tu Thiền có ba chiếc áo kesa,
một chín mảnh, một bẩy mảnh và một năm mảnh. Chiếc áo năm mảnh được biến dạng
và trở thành một vật tượng trưng gọi là rakusu dành cho người xuất gia và cho cả hàng
cư sĩ, tức những người tu tại
gia.
Đại khái tùy theo học phái, rakusu gồm năm mảnh vải màu nâu hay màu lam,
khâu ráp vào nhau, có viền vải chung quanh thành hình vuông hay chữ nhật, sau
cùng lại khâu thêm một quai bằng vải. Vì thế, rakusugiống
như một cái túi khá rộng, quai dùng để đeo vào cổ, tấm rakusu giấu vào bên trong áo hoặc để ra
trước ngực, tượng trưng cho chiếc áo cà-sa.
Mặt sau của tấm rakusu có lót thêm một lớp lụa màu trắng hay
màu ngà. Vị Thầy của người xin quy y ghi pháp danh của người này lên mặt lụa,
viết thêm một câu thơ hay một công án, tất cả đều bằng chữ Hán, rồi ký tên và
đóng triện lên đó.
Điều đáng nêu lên là người xin quy y trong Thiền tông Zen phải tự may tấm rakusu cho mình, giống như người tỳ kheo Nam
tông phải tự may chiếc áo cà-sa để mặc. Tục lệ này cũng được
bảo tồn và tôn trọng trong các tu viện Thiền học tại các nước Tây phương.
Nếu người đọc có dịp chứng kiến cảnh tượng những người Tây phương, trong số này
có những giáo sư Đại học, những nhà Khoa học lừng danh, các Bác sĩ nổi tiếng
ghi tên vào những khoá thực tập để may tấm rakusu trước khi xin quy y, thì có thể quý vị
ấy sẽ cảm động lắm. Họ chăm chỉ may từng mũi kim, ráp từng mảnh vải. Khâu hỏng,
đường chỉ không thẳng… họ lại tháo ra để may lại. Đó cũng là cách tập chú tâm
trong Thiền học, nhưng điều đáng nêu lên chính là sự hiển lộ của Đạo Pháp trong
từng cử chỉ, hành vi và trong quyết tâm của họ.
Người cư sĩ, không có cái may mắn của một người xuất gia, đành an phận với tấm rakusu, đeo vào cổ hoặc dấu
trong ngực áo để nhắc nhở họ phải giữ giới và để che chở cho tâm thức họ. Trước
khi đeo vào cổ thì họ phải đặt tấm rakusu lên đầu và đọc một câu kinh. Khi cởi
ra, tấm rakusu phải được gấp lại thật cẩn thận, cất
trong một túi vải nhỏ, hay gói trong một miếng vải sạch và đặt lên bàn thờ
Phật. Đạo Nguyên (Dogen) nói rằng :
« Áo mặc của kẻ thế tục làm
gia tăng dục vọng – nhưng tấm áo của Phật, tấm áo của một sinh linh Giác Ngộ, sẽ nhổ
bỏ tận rễ tất cả những dục vọng đó ».
Để tiếp tục nêu lên ý nghĩa của chiếc áo cà-sa trong Thiền học, thiển nghĩ chúng ta
cũng nên trích dẫn thêm những câu khác của Đạo Nguyên (1200-1253), một đại
thiền sư và cũng là một trong những nhà tư tưởng lớn nhất của nước Nhật. Ông
sang Trung Quốc tầm Đạo năm 1223, thọ giáo với thiền sư Trường Ông Như Tịnh
(Tiantong Rujing,1163-1228) thuộc tông phái Tào động. Ông ngộ được Thiền, trở
về Nhật năm 1227 và phát triển dòng Tào động trên quê hương của ông. Trong tập
luận nổi tiếng của ông là Chính
Pháp nhãn tạng(tiếng
Nhật : Shobogenzo), Đạo Nguyên đã phát biểu về chiếc áo cà-sa như sau:
« Những ai đã Giác Ngộ đều
tôn kính chiếc áo cà-sa, tin tưởng nơi chiếc áo đó. Họ xem đó là chiếc áo của
giải thoát, một cánh đồng của phúc hạnh, một mảnh áo vô tướng, mảnh áo của Như
Lai, mảnh áo của Anuttarak Samnyak Sambodhi (hoàn toàn Giác Ngộ, hoàn hảo và không
có gì so sánh được) »
Sau đây là một câu khác của ông trong tập Chính
Pháp nhãn tạng, dùng
để nhắc nhở những người
quy y :
« Tư tưởng của con người
không bao giờ ngưng đọng, vì những tư tưởng ấy sinh ra và chết đi trong từng
khoảnh khắc ; thân xác con người cũng thế, sinh ra rồi biến đi trong từng giây
phút một.
Chiếc áo cà-sa không phải là một sáng chế của con người, nó cũng chẳng phải
không phải là một sáng chế của con người ; nó không đứng lại ở một nơi nào cả,
nhưng chẳng có một nơi nào mà nó không dừng lại, và Sự Thực tuyệt đối của chiếc
áo cà-sa chỉ có chư Phật mới hiểu được mà thôi. Tuy nhiên, đối với những người
tu tập trên đường Đạo Pháp, những gì xứng đáng do chiếc áo cà-sa mang đến cho
họ thì vô tận, không bao giờ khô cạn (...).
Trong thế giới này chiếc áo cà-sa luôn luôn hiện đại và cập nhật hoá. Sự hiện
thực trong một giây phút cũng là sự hiện thực của vô biên. Trong giây phút này,
chúng ta đang có cơ duyên tuyệt vời không những được nghe nói về Đạo Pháp,
nhưng hơn thế nữa ta còn được trông thấy, xem xét và tiếp nhận chiếc áo cà-sa
này.
Cơ duyên ấy cũng giống như ta được nhìn thấy Đức Phật tận mắt, nghe được chính
Tiếng nói của Đức Phật. Cơ duyên ấy chính thực là sự truyền thụ của Tâm thức
Phật, tiếp nhận được thân xác và cốt tủy của Phật ».
Sau đây chúng ta lại tiếp tục tìm hiểu sâu xa hơn về ý nghĩa của chiếc áo cà-sa.
Lạm bàn về ý nghĩa của chiếc
áo cà-sa
Như chúng ta vừa nhận xét trên đây về những biến đổi từ hình thức cho đến ý
nghĩa của chiếc áo cà-saqua
thời gian, không gian, nhưng những biến đổi đó vẫn luôn luôn giữ được truyền
thống và phong cách từ hàng ngàn năm suốt trong lịch sử Phật giáo, từ những tục
lệ của Nam tông cho đến những hình thức mang tính cách tượng trưng trong Thiền
tông. Tất cả đều không đi ra ngoài Đạo Pháp.
Thật vậy, người xuất gia khoác lên người chiếc áo cà-sa để giúp họ tự giữ giới, nhắc nhở họ
không được tà dâm, sát sinh, trộm cắp, không sân si, bám víu… Chiếc áo ấy mang
lại an lạc cho họ, giúp họ phát lộ lòng Từ bi, gia tăng thêm tinh tấn, sức mạnh
và Trí tuệ.
Tuy
nhiên phần đông chúng ta là những kẻ thế tục, những cư sĩ tại gia, chúng ta
không có cái may mắn, cái cơ duyên tốt lành của một người xuất gia, hãnh diện
được khoác lên người chiếc áo cao quý của Đạo Pháp. Chúng ta trần trụi và hở
hang như những con sâu, phơi bày thân xác trước phong ba và bão táp, làm
mồi cho những hiểm nguy của cõi dục giới và luân hồi. Như vậy thì chúng ta phải
làm sao bây giờ ?
Không được mặc lên người, nhưng chúng ta hãy cố gắng khoác lên tâm thức mình
một chiếc áo cà-sa, một
manh áo bạc màu, một manh áo mà ta tự khâu lấy bằng những mảnh vải vụn vứt bỏ
mà ta mót nhặt từ những cảnh nghèo nàn và khổ đau chung quanh ta. Một manh áo tuy
khiêm tốn, nhưng chúng ta hãy xem đó là manh áo của Đạo Pháp, ngay thật và tinh
khiết, rạng ngời và cao cả. Dù bước ra đường với một chiếc áo thật hợp
thời trang, đắt tiền và thật đẹp, nhưng ta vẫn không hãnh diện bằng chiếc áo
bạc màu mà ta khoác lên tâm thức. Hoặc nếu kém may mắn hơn, khi phải bước
ra đường với một chiếc áo vá nghèo nàn trên thân xác, ta cũng không nên xấu hổ
mà vẫn ngẩng đầu cao, vì bên trong ta, chiếc áo cà-sa trong tâm thức thật là rạng rỡ.
Chiếc áo cà-sa khoác lên tâm thức sẽ che chở cho ta
trong cuộc sống bon chen, đầy tham vọng, lừa đảo, hận thù và hung bạo. Nó ngăn
chận không cho ta hung dữ và hận thù. Trong lúc bước chân ra đường, khi hòa
mình với xã hội, thông thường ta chỉ xét đoán con người qua hình dạng và phong
cách bên ngoài, qua phấn son, quần áo, chức vị, cử chỉ, ngôn từ…, phản ảnh một
phần nào tâm thức của họ. Nhưng ta không thấy được những gì sâu kín trong tâm
hồn họ. Có những người ăn mặc sang trọng, chải chuốt, phấn son loè loẹt, nhưng
tâm hồn họ trần truồng, dơ bẩn, đầy lo âu và hổ thẹn. Có những người nghèo khó,
cực khổ, nhưng tâm hồn họ thật an vui, kín đáo, sạch sẽ và nhân từ.
Trên đây chỉ là hai trường hợp cực đoan và tiêu biểu mà thôi. Thế
gian này thật phức tạp vì có đủ mọi hạng người, pha trộn rất nhiều đức tính và
những sai lầm u mê khác nhau. Thế giới ta
bà hay luân hồi gồm có ba cõi : dục giới, sắc giới và vô
sắc giới. Tất cả chúng sinh còn vướng mắc trong luân hồi đều sống chung
đụng bên cạnh nhau trong ba cõi ấy : từ súc sinh, quỷ đói, con người, cho đến thánh nhân và thiên
nhân. Do vậy ta hãy quyết lòng khoác lên tâm thức ta một chiếc áo cà-sa thật tinh khiết để nhìn thấy những
thánh nhân và thiên nhân chung quanh ta và để được đến gần với họ. Họ sẽ tập
cho ta cởi chiếc áo cà-sa trong tâm thức để khoác lên thân xác
những ai đang trần truồng và hổ thẹn, để lau nước mắt cho những người đang khổ
đau và băng bó vết thương cho những sinh linh bị hành hạ. Tất cả chúng sinh ấy
đang hiện diện chung quanh ta, những cũng may mắn thay, thánh nhân cũng đang ở
bên cạnh ta để nhắc nhở ta những việc phải làm.
Tóm lại, chiếc áo cà sa trong tâm thức, trước hết cũng không
khác gì một bức rào ngăn chận những hành vi mê lầm và phạm giới của ta, và sau
đó lại trở thành một bức tường thành kiên cố mang lại sự an lạc cho ta. Thế
nhưng ta cũng phải biết cởi chiếc áo cà-sa ấy từ tâm thức để khoác lên thân xác
của những ai cần đến, biết dựng lên cho kẻ khác một bức rào ngăn chận những
hành vi phạm giới của họ và xây lên một bức tường thành để bảo vệ sự an vui cho
họ.
Nhưng tu tập có phải là dừng ở đấy hay không ? Giữ giới và phát lộ lòng Từ
bi, tuy cực kỳ quan trọng và cần thiết nhưng thật ra chỉ là giai đoạn đầu. Từ
bi phải đưa đến Trí tuệ, Trí tuệ đưa đến Giác ngộ và Giác ngộ sẽ đưa đến Giải
thoát. Con đường còn dài và thật dài. Ta hãy thử tiếp tục lạm bàn xa hơn về
chiếc áo cà-sa.
Lạm bàn xa hơn về ý nghĩa của chiếc áo
cà-sa
Để
mở đầu phân đoạn này, xin trích dịch bốn câu thơ của thiền sư người Nhật là
Suzuki Shosan (1579-1655) như sau :
Cùng nhau đi trong mưa Như Lai,
Cà-sa ướt
sũng cả đôi vai.
Ô kìa, trên những tàu lá sen,
Chẳng có một giọt nào đọng lại.
Cũng
xin trích thêm ra đây một vài câu thơ của Thiền sư Ryokan (1758-1831). Thiền sư
Ryokan là một nhà thơ, một thiền sư ngoại lệ, một con người có tâm hồn dịu
dàng, thanh thoát, sống trong đơn sơ và hoàn toàn ẩn dật. Ngày nay, các bảo
tàng viện ở Nhật cũng như trên thế giới đã cố tìm mua với bất cứ giá nào những
tờ giấy viết chữ thảo của ông còn lưu lại. Năm 1790, thầy của ông là Kokunen
rút lui và giao phó cho ông trọng trách hướng dẫn Tăng đoàn. Thế nhưng một năm
sau khi thầy của ông qua đời, ông cũng rời bỏ Tăng đoàn, xa lìa thế tục để vào
rừng ẩn cư. Ta hãy đọc qua một bài thơ của ông, thoát dịch như sau :
Trong cánh rừng xanh mướt,
Là chiếc am cỏ của tôi.
Chỉ có những người đi lạc đường
Mới tìm ra được nó.
Chẳng có một tiếng ồn ào của thế tục,
Hoạ chăng thỉnh thoảng mới nghe thấy tiếng hát của một gã tiều phu.
Một nghìn đỉnh núi cao, một vạn con suối chảy,
Chẳng có một bóng người.
Tuy thế, một hôm sau khi đi tản bộ về, ông thấy túp lều cỏ của ông bị trộm, tên
trộm vơ sạch những gì thật nghèo nàn của ông. Ông liền cầm bút viết một câu thơ
như sau:
Tên trộm đã bỏ quên
Khuôn trăng
Bên thềm cửa sổ
Thôi thì chúng ta hãy trở lại với chiếc áo cà-sa,
với bức rào cản ngăn chận những hành vi phạm giới, với bức tường thành mang lại
an vui cho ta. Chiếc áo mầu nhiệm như thế, bức tường thành kiên cố như thế, lớp
rào cản hữu hiệu như thế, nhưng có phải đó là Đạo Pháp hay không ? Thưa không,
đó chỉ là những phương tiện mà thôi, giống như ngón tay dùng để chỉ mặt trăng,
ngón tay không phải là Đạo Pháp. Đức Phật dạy rằng Đạo Pháp giống như một cái
bè bằng tre dùng để qua sông. Qua được bờ bên kia thì ta hãy bỏ lại, đừng đội
nó lên đầu mà đi. Cũng thế, mặt trăng cũng chỉ là một biểu tượng. Nếu ta bám
víu vào chiếc áo cà-sa,
vào bức rào cản hay bức tường thành, vào ngón tay, vào mặt trăng, chúng ta sẽ
không bao giờ có thể đạt được Giải thoát. Đấy chỉ là những biểu hiện của
sự bám víu mà thôi.
Quay trở lại với ý nghĩa trong bốn câu thơ của Suzuki trên
đây. Ngay cả những giọt mưa Như Lai, tức Diệu Pháp của Phật cũng không hề đọng
lại trên chiếc lá sen, nhưng ô kìa tại sao những chiếc áo cà-sa lại ướt đẫm như thế ? Chúng ta sống
trong một thế giới mà tất cả đều là quy ước, đều là những biểu tượng. Quy ước
và biểu tượng không phải là hiện thực và cũng không phải là Đạo Pháp, thế nhưng
chúng ta nhất định cứ bám víu vào đó. Từ chiếc áo bạc màu, được khâu vá chắp
nối bằng những mảnh vải vụn vứt đi cho đến chiếc áo rạng rở may bằng lụa và vải
quý của ngũ tổ Hoằng Nhẫn, tượng trưng cho Đạo Pháp, tất cả cũng chỉ là những
biểu tượng. Ta sống trong một thế giới của biểu tượng, của quy uớc và công
thức. Tất cả đều là những sáng tạo, những biến chế, những tạo dựng của tâm thức
con người. Ngôn ngữ cũng là quy ước, vì thế mà Đức Phật đã cầm cánh hoa đưa lên
nhưng không thốt ra một lời nào cả.
Tâm thức Bát-nhã, siêu việt và nhất nguyên của Phật đã có sẵn trong tâm thức
Giác ngộ của Ma-ha Ca-diếp. Tâm thức Giác ngộ của Ma-ha Ca-diếp cũng đã có sẵn
trong tâm thức Bát-nhã, siêu việt và nhất nguyên của Phật. Cánh hoa chỉ là một
biểu tượng, cũng như ngôn từ chỉ là những quy ước. Trong tâm thức Từ bi, độ lượng
và bao dung của một người tu hành đã có sẵn tâm linh tỉnh thức của một kẻ thế
tục, và trong tâm linh tỉnh thức của một kẻ thế tục đã mang sẵn tâm thức Từ bi,
độ lượng và bao dung của một người tu hành. Chiếc áo cà-sa chỉ là một biểu tượng làm trung gian
giữa họ mà thôi.
Gỗ đã có sẵn trong cái bàn, và trong cái bàn đã có sẵn gỗ. Người thợ mộc lấy gỗ
làm ra cái bàn, và cái bàn trở thành một sự sáng tạo của con người. Trong sự
sống đã có sẵn cái chết, và trong cái chết đã có sẵn mầm mống của sự sinh. Phân
biệt sự sống và cái chết là hậu quả của sự hiểu biết nhị nguyên và đối nghịch.
Tương tự như thế, ý nghĩa thêm thắt và đa dạng của chiếc áo cà-sa cũng chỉ là những tạo dựng của tâm
thức con người.
Chỉ vì một biểu tượng mà lục tổ Huệ Năng đã suýt chết mấy lần. Mỗi khi có một
biểu tượng được tạo dựng là có sự bám víu vào đó. Một chiếc áo tượng trưng cho
việc lãnh đạo một Tăng đoàn cũng đủ để sinh ra tham vọng, ganh tị, tranh chấp,
huống gì danh vọng, tiền bạc và uy quyền trong thế gian này. Cũng may là ngũ tổ
và lục tổ đã ý thức được việc ấy mà bỏ đi tục lệ truyền thụ y bát. Nếu không
thì biết đâu ngày nay, Tăng đoàn vẫn còn tiếp tục dòm ngó một chiếc áo, và kẻ
thế tục lại có thêm một dịp để tham dự nghi lễ truyền thụ mà quên đi những gì
thiết thực trong việc tu tập.
Kết luận
Từ nguyên thủy, chiếc áo cà-sa đã là những mảnh vải vụn, những miếng
vải rách bạc màu được khâu lại với nhau để làm áo. Đức Phật và Tăng đoàn của
Ngài dùng chiếc áo ấy để che thân, để đắp và để gấp lại làm tọa cụ. Chiếc áo ấy
đã biến dạng để tượng trưng cho những thửa ruộng vuông vắn của phúc hạnh, hoặc
để tượng trưng cho sự lãnh đạo một Tăng đoàn. Chiếc áo ấy cũng đã trở thành tấm rakusu của người tu Thiền dùng để đeo lên
ngực một cách kính cẩn.
Tất cả những biến dạng và thêm thắt ấy có phải là những điều phù phiếm hay
không ? Thưa không, những thêm thắt ấy thật cần thiết cho việc tu tập, và tuy
không phải là Đạo Pháp nhưng là những cánh hoa của Đạo Pháp. Ngón tay không
phải là Đạo Pháp, nhưng không có ngón tay ấy thì ta cũng không thấy được Đạo
Pháp. Từ lòng Từ bi của Đức Phật, từ những lời giảng huấn thiết thực của Đức
Phật đã nở ra muôn hoa, vạn sắc, và cũng đã nở ra trăm triệu trang kinh sách.
Tuy là một biểu tượng nhưng chiếc ao áo cà-sa thật là cần thiết. Chiếc áo ấy được
khoác lên thân xác vô ngã của người xuất gia để làm gương cho chúng ta soi.
Chúng ta cũng nên khoác chiếc áo ấy lên tâm thức để ra đường và gấp nó lại để
gối đầu trong giấc ngủ. Nó sẽ che chở chúng ta trước những ý tưởng điên rồ,
những xúc cảm bấn loạn và những cơn ác mộng giữa đêm
đen.
Đức
Phật dạy chúng ta đừng bám víu vì Đạo Pháp cũng chỉ là một chiếc bè giúp để qua
sông mà thôi. Thiếu chiếc bè thì ta không thể qua sông được, và tương tự như thế,
nếu không có Đạo Pháp thì ta cũng khó mà vượt được dòng thác của Vô minh. Đối với chiếc áo cà-sa cũng vậy, khi ta vẫn còn đang lặn ngụp
trong dòng thác chảy xiết của Vô
minh thì hãy cứ bám víu vào
nó. Cuốn trôi theo dòng nước cuồn cuộn, nếu như ta có vớt được một cành tre gai
góc to bằng ngón tay thì ta cũng chớ vội tưởng là đã đến được bờ bên kia của
Giác ngộ mà vứt bỏ nó đi. Ta hãy bám lấy cành tre, gom góp thêm các cành khác
để kết lại làm bè, một chiếc bè thật lớn, vì biết đâu chúng lại có thể giúp
những người khác đang lặn ngụp bên cạnh ta mà vẫn
chưa vớt được một cành tre nào. Vậy thì ta hãy thu nhặt những mảnh vải vụn
trong cõi vô thường này để tự may lấy cho mình một chiếc áo cà-sa.
Xin
mượn một lời nguyện cầu của thiền sư Ryokan để chấm dứt bài viết này. Sống
trong chốn hiu quạnh nơi rừng núi hoang vu, Ryokan chẳng có gì cả ngoài manh áo cà-sa trên vai và một khuôn trăng bền thềm
cửa sổ, nhưng có lẽ tâm thức ông lúc nào cũng muốn dang tay thật rộng để ôm lấy
tất cả chúng sinh. Ông nguyện như sau :
« Tôi nguyện cầu chiếc áo cà
sa của một người tu hành như tôi sẽ trở nên thật rộng lớn để có thể gom lại và
quàng lên tất cả chúng sinh đang đau khổ trong cõi vô thường này…»


01:52
ĐẠO PHẬT CHÂN CHÍNH
Posted in:

0 nhận xét:
Đăng nhận xét