Gần đây, báo chí phản ánh nhiều về các điểm ăn chơi thác
loạn, việc xâm phạm đời sống riêng tư, những ổ mại dâm mà người can dự không
thuộc dạng khó khăn về kinh tế, những động ma túy, thuốc lắc mà thanh thiếu
niên là đối tượng chủ yếu; rồi nạn tham nhũng, môi trường bị ô nhiễm trầm
trọng, bạo động liên miên… , đó là những biểu hiện của một đời sống thiếu niềm
tin.
Niềm tin là động cơ cho hành động tích cực và kết qủa tích
cực. Chẳng hạn gia đình (và rộng hơn là xã hội) đang xảy ra lộn xộn, khủng
hoảng (gia đình và xã hội khi đang tiến về phía trước thì luôn luôn gặp trở
ngại, khủng hoảng, thách thức). Là một thành viên trong gia đình, nếu ta có thái
độ tiêu cực, không có niềm tin (tôi chẳng làm được gì đâu, và chẳng có ai có
thể thay đổi tốt hơn đâu) thì tình thế chắc chắn sẽ xấu hơn. Khi không có niềm
tin, chúng ta dễ dàng đổ thừa, dễ dàng để mặc, buông xuôi, dễ dàng sống chung
với cái tiêu cực, cái xấu và như vậy là sẵn sàng tiếp tay cho cái tiêu cực, cái
xấu.
Niềm tin là cần thiết cho mỗi người và cho xã hội, cho cả
thế giới. Nhưng niềm tin là gì, là tin vào cái gì? Làm sao để có niềm tin?
Trước hết chúng ta tìm hiểu con người lý tưởng từ một số
đoạn trong kinh Duy Ma Cật. Một con người lý tưởng (Bồ tát) có những tính cách
sau: “Không lìa bỏ tình thương và lòng bi, chỉ dạy cho người khác không hề mệt
chán, tâm rộng rãi (bố thí), lời nói dịu dàng (ái ngữ), hàng động vị tha (lợi
hành), cùng làm việc với người khác (đồng sự), trồng các căn lành không hề nhàm
mỏi, cầu chân lý không lười biếng, diễn bày chân lý không tiếc giữ, với vinh
nhục không mừng hay lo, không khinh thường người mới học, kính trọng người đang
tự hoàn thiện, không ham cái vui của mình, vui theo cái vui của người, thấy
người không đạo đức khởi tưởng cứu độ, luôn luôn trang nghiêm cho thế giới để
thành một cõi sạch đẹp, thoát khỏi các ràng buộc mà gánh vác chúng sinh, điều
phục thân khẩu ý do đó tiến bộ thường trực, dùng nhẫn nhục để nhiếp độ sân hận,
không sợ hãi trước khó khăn của thế giới sinh tử, dùng các thiện căn để cứu vớt
những người ít phước đức…
Qua chỉ một số tính cách này, chúng ta thấy con người lý
tưởng tỏa sáng niềm tin và những điều tích cực. Niềm tin này, cư sĩ Duy Ma Cật
đã nói ra, trước khi giảng về tính cách của Bồ tát: “Vì chúng sinh bệnh cho nên
tôi bệnh”. Niềm tin ấy là thế gới này có thể chữa được. Sự có mặt của một người
theo con đường lợi tha của Bồ tát nơi thế giới này là sự khẳng định niềm tin
“thế giới này có thể cứu chữa được”.
Đời sống con người có
ba phạm trù căn bản, ba mối tương quan căn bản: với chính mình, với người khác
và với thế giới. Chúng ta hãy xem xét niềm tin là gì trong ba phạm trù ấy.
Với chính mình: Niềm tin đối với chính mình là tin vào khả
năng mình có thể tiến bộ hơn, tốt hơn. Đó là niềm tin vào khả năng tự hoàn
thiện, và do đó, đời sống là nơi để hoàn thiện chính mình. Khả năng tự hòan
thiện đến mức độ Chân Thiện Mỹ, nói theo thuật ngữ Phật giáo Đại thừa thì khả
năng ấy là Phật tánh, khả năng thành một con người toàn thiện, thành Phật, và
khả năng đó luôn luôn hiện hữu một cách tiềm thể nơi mỗi con người như một hạt
giống của Chân Thiện Mỹ. Với niềm tin vào chính mình này, cuộc đời con người có
ý nghĩa: mỗi ngày mỗi hoàn thiện, mỗi ngày mỗi đổi mới, mỗi ngày mỗi tốt đẹp
hơn, như câu nói của Khổng giáo, “Nhật tân, nhật nhật tân” (Đại học). Từ đó,
người ta không chỉ có niềm tin đối với chính mình, mà còn cả yêu: tin yêu mình.
Đây là nguồn gốc cho mọi sự tích cực tốt đẹp của con người đối với cuộc đời
mình.
Với người khác: Niềm tin cũng như thương yêu, người ta không
thể thương yêu người khác nếu không thể thương yêu chính mình, cũng thế, người
ta không thể tin vào người khác nếu chưa tin vào chính mình. Và càng tin vào
chính mình chúng ta càng tin vào người khác, ngược lại, càng nghi ngờ mình thì
càng nghi kỵ người khác. Khi cuộc đời chúng ta bắt đầu dựa trên khả năng tự
hoàn thiện mình và cảm thấy nơi mình có sự hiện diện của hạt giống tự hoàn
thiện ấy, và khi chúng ta bắt đầu có sự tin yêu đối với chính mình và cuộc sống
của mình, tất nhiên chúng ta thấy mọi người khác đều có khả năng ấy. Tất cả mọi
con người đều xứng đáng sống để khai thác khả năng tự hoàn thiện, đều đáng được
tin yêu như Phật giáo quan niệm: “Tất cả chúng sinh đều có Phật tính”.
Tin rằng mọi người đều có khả năng tự chuyển hóa, tự cải
thiện, tự hoàn thiện là một điều rất quan trọng. Sở dĩ tôi khoan dung , nhẫn
nhục, kiên nhẫn với anh mặc dù anh rất sai trái, rất xấu xa, rất tệ hại, rất
tàn ác là vì tôi không cắt đứt hoàn toàn với anh, và bởi vì tôi vẫn tin rằng
nơi anh cũng có hạt giống của sự tự
chuyển hóa, tự hoàn thiện mà đến một lúc hội đủ những duyên lành khác sẽ nứt
mầm và lớn lên. Lịch sử nhân loại cũng có lúc đi vào ngõ cụt tưởng không có lối
ra, như Đại chiến thế giới thứ hai với 6 triệu người chết trong các trại tập và
phòng hơi ngạt, và với hàng chục triệu người chết vì giết nhau, nhưng rồi sau
đó, nhân loại vẫn tiến tới…
Niềm tin vào con người (dù tệ hại, tàn ác) này được diễn tả
trong kinh Pháp Hoa, với Bồ tát Thường Bất Khinh khi đối xử với những kẻ theo
chế nhạo, đánh đập mình. Ngài chỉ nói: “Tôi không dám khinh thường các người vì
các người sẽ thành Phật”. Thái độ của Đức Thích Ca đối với người suốt đời làm
hại mình là Đề Bà Đạt Đa cũng vậy, Ngài nói: “Tất cả công đức của ta đều là nhờ
Thiện tri thức Đề Bà Đạt Đa cả, qua vô lượng kiếp về sau, ông Đề Bà Đạt Đa sẽ
thành Phật, hiệu là Thiên Vương Như Lai…”. Tất cả mọi giới hạnh Phật giáo đều
căn cứ vào niềm tin yêu con người như vậy, và đó là niềm lạc quan vô bờ bến đối
với người khác, đối với toàn bộ cuộc đời. Chính niềm tin yêu con người bất chấp
trở ngại, bất chấp thời gian đã làm nên cốt lõi đời sống lạc quan của con
người.
Cũng xin nói thêm,
niềm tin yêu mỗi người là một hoa sen, dù trong bùn dưới nước, chưa nở hay đã
nở cũng là một điểm quan trọng trong truyền thống Phật giáo Việt Nam. Thiền sư
Chân Nguyên (1647-1726) trong Thiền tông bản hạnh viết:
Trần trần sát sát Như lai
Chúng sinh mỗi người mỗi có hoa sen
Hoa là bản tính tự nhiên
Bao hàm thiên địa phương viên cùng bằng
Ai ai đạt giả đồng đồ
Mỗi người mỗi có minh châu trong nhà
Mùa xuân vạn thụ khai hoa
Cành cao cành thấp vậy hòa chứng nên.
Tin vào chính mình và
vào người khác là tin vào sự chiến thắng tối hậu, sự vinh quang tối hậu, sự tốt
đẹp tối hậu của mỗi con người, và những khuyết điểm, xấu ác đều có thể chữa
lành vì chúng và nguyên nhân sinh ra chúng là vô minh, vô thường. Từ niềm tin
này, chúng ta mới có thể phát khởi được tâm từ bi với mỗi con người. Có thể nói
thêm, theo những nhà tâm lý học liệu pháp, mọi sự chữa lành những phức cảm
(complexes) đều dựa vào tình thương, không có tình thương sẽ không có sự chữa
lành tâm thần nào (có thể xem: The Road Less Traveled của bác sĩ M. Scott Peck,
cuốn sách bán chạy nhất trong gần 600 năm liên tiếp ở Mỹ).
Với thế giới: thế giới không chỉ cho chúng ta chỗ ở, thực
phẩm, và y phục (điều kiện căn bản nuôi dưỡng sự sống của chúng ta) mà nó còn
dạy cho chúng ta những bí mật của sự sống: sự hài hòa của thế giới, sự tiến hóa
của sự sống. Thế giới ẩn giấu cái bí mật của con người và vật chất, nên bản
chất tối sơ và tối hậu của sự vật và con người là gì là mục đích nghiên cứu của
mọi khao học, mọi tôn giáo.
Với một thế giới đã giữ gìn và cưu mang cho sinh mạng và sự
phát triển tinh thần của chúng ta như vậy, chúng ta không những không nên tiêu
phí quá đáng cho nhu cầu vật chất để làm cho nó hư hoại, còm cõi đi, mà chúng
ta còn phải nuôi dưỡng nó, làm cho nó tốt đẹp như chính sự sống của chúng ta.
Nói theo Phật giáo, phải trang nghiêm cho nó để biến nó thành một cõi tốt đẹp,
một Tịnh độ. Thế giới như chúng ta hiện
có là một thiên nhiên thứ hai, vì nó đã qua sự chuyển hóa, sáng tạo một lần nữa
của con người. Thế giới đó là tác phẩm của chúng ta, thế giới của chúng ta như
thế nào thì tâm hồn của chúng ta cũng sẽ như vậy. Nó không chỉ là anh em sinh
đôi của chúng ta mà còn chính là chúng ta, nên tin yêu thế giới cũng chính là
tin yêu con người.
Chúng ta có những niềm tin: tin vào chính mình, vào người
khác, vào thế giới và vào cứu cánh rốt ráo của ba cái đó. Chúng ta cũng được
dạy rằng cứu cánh rốt ráo của ba cái đó nằm ngay tại đây và bây giờ, không chờ
một lịch sử xa xôi nào hay một đấng tạo hóa nào se ban phát cho chúng ta. Ba
niềm tin trên tương tác với nhau, hòa trộn với nhau, cái này nâng cấp cái kia,
để thành một niềm tin duy nhất: tin yêu toàn bộ đời sống, tin yêu toàn bộ hiện
hữu. Niềm tin ấy là một cuộc cách mạng cho mỗi một đời người. Vì chính từ đây
người ta mới bắt đầu trả lời cho câu hỏi tối hậu của mỗi người: Sống để làm gì?
Đâu là ý nghĩa của đời người? Và cũng chính từ đây mà con người có hòa bình
thực sự, không còn thù hận, chiến tranh, giành phần thắng về cho mình, không
còn vì điều lợi cho mình còn người khác thì sao cũng mặc. Chính từ đây mà chúng
ta mới thực sự biết hai chữ đơn giản “tin yêu” là gì, vì hiện giờ, đời sống của
chúng ta vẫnnằm trong vòng vây của nghi kỵ, sợ hãi, tham tàn, hiếu chiến và ích
kỷ.
Toàn bộ đời sống, toàn bộ hiện hữu là cái còn lâu xa chúng
ta mới biết được trọn vẹn, vì nói theo kinh Pháp Hoa, đó là cái mà chỉ những
người tiến hóa đến tột đỉnh mới có thể biết: “chỉ có Phật với Phật mới có thể
thấu tột”. Nhưng trên con đường đi đến sự thấu biết tất cả và thương yêu tất cả
- biết và thương là điều mà hiện giờ, ngay cả những người hàng đầu của xã hội con
người cũng còn lờ mơ ø- thì chỉ sự tin yêu và mong muốn học hỏi, khám phá thôi
cũng đã đủ ý nghĩa cho một kiếp người.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét