Đây là câu hỏi mà nhiều người gần đây khi đối mặt với những
lời dạy của Đức Phật thường đặt ra, và sau khi đã quyết nghi, nhiều người tự
nguyện tuyên bố mình là đệ tử Đức Phật.
Tín ngưỡng trong Phật giáo
Trước hết cần phải hiểu ý nghĩa của từ tín ngưỡng (belief)
trong Phật pháp, tín ngưỡng bao hàm lòng tin (faith) hay đức tin và cả hai từ
này đối với tín đồ Thiên Chúa giáo đều mang ý nghĩa “tín điều” (creed) (gồm hết
những gì gọi là tín ngưỡng) và giáo điều (dogmas – những diễn đạt của nhà thờ
áp đặt lên mọi tín đồ thực thụ). Trong Phật pháp không có tín điều và giáo
điều. Người Phật tử tự do đặt nghi vấn mọi điều Phật pháp. Quả vậy, Bậc Đạo Sư
đã từng khích lệ họ làm như thế. Không có gì ngăn cấm người Phật tử đặt nhiều
nghi vấn, không có lời dạy nào bảo người Phật tử phải khép kín tâm trí mình
lại, và phải tin tưởng một cách mù quáng. Sở dĩ như vậy là vì lòng tin trong ý
nghĩa của Phật giáo không mang tính chất mù quáng mà bao gồm trí tuệ. Như vậy,
một người được thu hút đến Phật pháp bởi vì anh ta có trí tuệ nào đó để trực
nhận một ít sự thật trong Phật pháp, trong khi đó, do lòng tin, anh chấp nhận
những sự thật của giáo lý như là những gì mà anh ta chưa xác chứng. Thực hành
Phật pháp, anh ta thấy rằng Phật pháp thực sự hữu hiệu, thực tiễn và như thế lòng
tin của anh ta tăng trưởng lên. Khi lòng tin tăng trưởng, anh có thể thực hành
sâu xa hơn và như thế anh chứng nghiệm nhiều hơn về sự thật. Do đó lòng tin lại
càng tăng trưởng mạnh mẽ hơn. Như vậy, thực hành lòng tin và trí tuệ bổ túc cho
nhau và làm cho nhau mạnh mẽ lên. Trong trường hợp này, cũng như trong nhiều
giáo lý của đạo Phật, thật dễ hiểu tại sao Phật pháp được biểu tượng bằng một
bánh xe Pháp vì đây là biểu tượng của một sự trưởng thành tích cực cho dẫn
chứng trên.
Thực hành và xác chứng lời Đức Phật dạy
Thực hành và xác chứng lời Đức Phật dạy sẽ đưa đến kết quả
là người ta sẽ tự mình chứng nghiệm sự thật của toàn bộ giáo lý Đức Phật trong
chính cuộc đời này. Điều này được thực hiện nhờ tinh cần thực hành. Đức Phật đã
bảo đảm cho mọi người rằng họ có thể xác chứng những lời dạy của Ngài khi Ngài
tuyên bố rằng giáo lý của Ngài là cái gì để “đến và thấy”, có nghĩa là tìm hiểu
cho chính mình thực hiện thử xem nó có hữu hiệu không, điều ấy có thể thực hiện
được, vì Đức Phật không quan tâm đến lý luận (những thứ chỉ dẫn đưa con người
đi lạc hướng), mà quan tâm đến những phát hiện và những lời dạy về con đường
thực tiễn của tiến bộ tâm thức, “con đường hướng nội” mà người trí tự xác chứng
cho mình.
Phật pháp là phương pháp chứ không phải là học thuyết
Điểm này đưa đến một sự phân biệt rất quan trọng khác giữa
giáo lý của Đức Phật và giáo lý của hết thảy các tôn giáo khác. Các tôn giáo
khác dạy những học thuyết, tín điều và giáo lý không đưa ngay đến thực chứng
(hay thực ra chúng được giả thiết rằng
sẽ được thực chứng) mà phải được chấp nhận với lòng tin. Đức Phật dạy những
phương pháp người ta có thể áp dụng vào đời sống riêng của mỗi người và nhanh
chóng thấy được lợi ích của sự thực hành ở đây và bây giờ. Thực vậy, toàn bộ
giáo lý Phật giáo đã là một khối lượng những phương pháp uyển chuyển thích hợp
nhiều mặt cho từng lúc, từng nơi khác nhau và quan trọng nhất là cho những căn
tánh khác nhau của con người. Ngoài việc định nghĩa Đạo Phật là những phương
pháp hay những phương tiện thiện xảo, thật chính xác khi nói rằng đạo Phật
không có lời dạy nào mà không:
a) Xây dựng trên căn bản; hoặc
b) Dẫn đến sự giác ngộ tối thượng như Đức Phật đã chứng
nghiệm. “Xây dựng trên căn bản” có nghĩa là phát khởi từ kinh nghiệm chứng ngộ
đã khiến Đức Gotama, vị ẩn sĩ khổ hạnh, trở nên một Bậc Giác ngộ hay một Bậc
Giác tỉnh (Đức Phật ở đây là một tước hiệu chứ không phải là một cái tên). “Dẫn
đến” nghĩa là tất cả các lời dạy của Đức Phật đều nhằm mục đích là tất cả mọi
người thực hiện đều có thể đi đến chứng nghiệm cái đại tuệ mà Đức Phật đã chứng
đạt.
Ngôi Tam Bảo
Vậy thì Phật tử đặt tin tưởng vào đâu? Họ tin vào ngôi Tam
Bảo: Đức Phật, Pháp và Tăng (những đệ tử giác ngộ của Đức Phật). Ở Thái Lan,
khi đi đến một ngôi chùa Phật để tụng đọc bằng tiếng Pali cổ mà Đức Phật đã
thuyết, tụng đọc những đoạn văn xuôi, những câu kệ tôn kính và tán thán ngôi
Tam Bảo, trong những dịp ấy, Phật tử tự hiến mình để đi theo, để hiểu và chứng
nhập nội tâm ý nghĩa về Phật, Pháp và Tăng già.(1) (Đức Phật, những lời dạy của
Ngài và các đệ tử của Ngài). Phật tử là người nương tựa nơi ngôi Tam Bảo hay
đến để nhận sự hướng dẫn của ngôi Tam Bảo vì họ đã tìm thấy ở trong đó những
dấu hiệu của chân lý vô úy và tối thượng.
Tôn kính những Bậc Đạo Sư
Chúng ta cần đề cập đến sự tôn kính đối với các bậc thầy về
tinh thần, những vị tu sĩ hoặc cư sĩ trong giới Phật giáo. Những bậc Đạo Sư ấy
là những “Thiện hữu” cho chúng ta những lời khuyên quý giá, thường dựa vào
những chứng đắc mà quý vị ấy đã đạt được một cách khó khăn, chỉ cho chúng ta
con đường chân chính đưa đến giải thoát. Hình thức cung kính những Bậc Đạo Sư
như thế (những vị đối với những đệ tử trong hiện tại, tiêu biểu cho Đức Phật)
và những tranh tượng của chính Bậc Giác Ngộ, mà nếu thiếu đức tính khiêm cung
ấy thì người ta chỉ có rất ít hoặc không có tiến bộ tâm thức nào. Chúng ta thấu
hiểu rõ rằng, trong tâm lý học Phật giáo, chẳng những tâm ảnh hưởng vào thân,
mà những hành động của thân cũng ảnh hưởng vào tâm, cả hai thực sự phụ thuộc nhau.
Từ đó có sự cẩn trọng trong lễ lạy, sự thân thiết khi thực hiện và thái độ niệm
tưởng cần phải kèm theo. Người ta thường lễ lạy ba lạy liên tục tỏ lòng tôn
kính Bậc Giác Ngộ, tôn kính Con Đường đi đến Giác Ngộ của Ngài và tôn kính
những vị nhờ hành trì theo Con Đường ấy mà đạt được Giải thoát, khỏi những ô
nhiễm của tâm và đạt được Trí tuệ gọi là Giác ngộ.
Việc thực hành Phật pháp có hiệu quả, đặc biệt về những phần
Thiền định và Trí tuệ, điều này, tùy thuộc rất nhiều vào việc ta có được một
người hướng dẫn mà chắc chắn có kinh nghiệm nhiều hơn chúng ta hay không. Mặc
dù có một vài loại thiền định của Phật giáo mà việc thực hiện không cần có thầy
chỉ dẫn, nhưng thông thường thì sự có mặt của thầy vẫn đem lại cho chúng ta
nhiều lợi lạc hơn, nếu đây là một vị thiện xảo. Những vị thầy ấy rất đáng kính
vì nếu có đủ cả kiến thức và trí tuệ thì các vị thầy ấy giúp ích rất nhiều cho
những ai học và thực hành giáo pháp.
Những lễ dâng trong một ngôi chùa
Trong vấn đề tôn kính, hẳn cũng cần phải biết ý nghĩa của
nhiều những lễ dâng lên Đức Phật, vì Phật giáo thực sự không chứa đựng cái gì
vô nghĩa cả, nếu có sự thực hành vô nghĩa nào thì thực ra đó không phải là giáo
lý của Đức Phật.
Có ba lễ dâng thông dụng: hương, hoa, và đèn, cho chúng ta
dịp thực hiện một ít thiền quán riêng lẻ trong khi chúng ta dâng lễ. Khi thắp
nến hay đèn, chúng ta tác niệm: “Ôi mong sao con được giác ngộ”. Những cây
hương được thắp từ ánh lửa nến (hay đèn) ấy (thường là 3 cây hương) với tác
niệm “để thành tựu sự giác ngộ ấy”, trong khi mùi hương dịu tỏa khắp mười
phương, xin nguyện cho mùi hương đức hạnh của con rải đến khắp cả chúng sinh.
Khi dâng hoa với hai bàn tay chắp lại ta suy nghĩ: “Cuộc đời này thì ngắn ngủi,
cho dù những bông hoa này, ngày hôm nay tươi đẹp ngày mai sẽ úa tàn và vẩn mùi.
Cái mà con gọi đây là thân xác thì cũng như thế mà thôi”. Hiểu được điều ấy
trong cuộc sống trôi chảy và vô thường này, người Phật tử nỗ lực duy trì và
nâng cao tiêu chuẩn giới đức của mình và bước thêm một bước hướng về Giác ngộ.
Thỉnh thoảng Phật tử cũng dâng cúng thực phẩm và nước uống
lên hình tượng của Bậc Đạo Sư, dĩ nhiên họ không nghĩ rằng Ngài sẽ dùng, mà
chính họ, bằng thái độ sùng đạo, họ chỉ dùng thực phẩm khi nào một ít của phần
thực phẩm tốt được dâng cúng Đức Phật trước tiên. Đức Phật là tối thượng của
loài người, Ngài xứng đáng với những dâng cúng tốt nhất, phần hơn nữa, việc tu
tập của người Phật tử gồm trong sự chia xẻ những thứ tốt lành cho người khác.
Ba lễ vật thông thường đôi khi còn được nối kết trực tiếp
với ngôi Tam Bảo: Những bông hoa, đặc biệt là hoa sen, là những biểu tượng về
Đức Phật. Vì hoa sen mọc lên từ bùn mà không uế nhiễm. Ngay cả một giọt nước
cũng không đọng lại trên lá sen. Tương tự như thế, Đức Phật là Bậc Đạo Sư sống
giữa thế giới rối rắm của nhục dục mà Ngài vượt lên khỏi nhục dục. Ngài ở trong
thế giới này nhưng ngay cả một ham muốn nhỏ nhặt nhất cũng không ảnh hưởng đến
tâm trí Ngài. Đây là biểu tượng của hoa sen. Những bông hoa đẹp khác nhắc nhở
tín đồ về những đức tính sáng ngời và tốt đẹp của Đức Phật. Ánh sáng được cúng
dường trong trường hợp này là biểu tượng cho Giáo pháp luôn thắp sáng những
vùng tối tăm của tâm thức và đem giác ngộ thay thế vô minh. Tăng già (của Bậc
Giác ngộ) được biểu tượng bằng hương, bởi vì sự thành tựu giới đức của các vị
ấy tỏa rộng mọi hành động của thân, khẩu, ý.
Sau khi đã nói về ý nghĩa của lòng tôn kính của người Phật
tử, bây giờ chúng ta diễn tả rõ ý nghĩa của từng ngôi báu. Tuy nhiên, cần phải
nhấn mạnh trước rằng ba ngôi báu liên hệ nhau không thể tách rời ra được về mặt
tu tập và chứng đắc. Vậy nên không thể có Pháp bảo và Tăng bảo nếu như không có
một Đức Phật xuất hiện trước ở đời. Sự tương tục của Pháp tùy thuộc vào Tăng,
nhân tố truyền bá Pháp. Tăng thì tương tục nếu vẫn còn có những vị tu tập và
chứng đắc Pháp. Không thể nói rõ rằng Phật bảo tùy thuộc Pháp bảo như thế nào.
Sở dĩ như thế là vì chư Phật có xuất hiện ở đời hay không xuất hiện ở đời, Pháp
bảo vẫn là mãi mãi chân thật. Thông thường, Pháp bảo được diễn tả là “phi thời
gian”, không có một lúc nào là lần đầu tiên Pháp trở nên thật (như trong trường
hợp các tôn giáo mắc phải) và cũng không có một lúc nào trong tương lai Pháp
không còn là thật nữa. Khi nào còn có đời sống hữu tình thì Giáo pháp này hẳn
cần thiết chứa đựng sự thật liên quan đến kinh nghiệm về cuộc đời (và không
dính dáng gì tới những lý thuyết hay giáo điều).
Quả thực rằng pháp có thể có lúc bị tạm thời quên đi trong
những khoảng thời gian cách quãng giữa những chứng đắc, nhưng ngay cả khi bị
quên lãng, Pháp vẫn còn là thật và chờ đợi được phát hiện. Người đã phát hiện
ra tuệ giác cổ xưa, với tính viên mãn và sáng sủa của nó được gọi là một vị
Phật, một chứng đắc tâm linh vượt lên tất cả mọi chứng đắc tâm linh. Như vậy
quá dễ hiểu lời dạy của những hiền triết Phật giáo về sau này, những người đã
nhân cách hóa tinh hoa của Pháp như là sự toàn hảo của trí tuệ mà gọi Pháp là
Mẹ của chư Phật.
(1) Trong Phật giáo, không có việc “thờ thần tượng”. Hình
tượng Đức Phật trong các ngôi chùa gợi cho các Phật tử một số đức tính của Bậc
Đạo Sư và Giáo pháp; hình tượng ấy làm cho họ tưởng niệm đến những đức tính như
thế và do đó phát triển chúng trong chính họ. Hình tượng Đức Phật cũng hỗ trợ
rất nhiều trong thiền định và có thể được sử dụng để làm an tịnh tâm vào lúc
chết.
Lại nữa, không có sự cầu xin trong các tu viện Phật giáo.
Người ta không cầu xin một Bậc Đạo Sư đã đạt cứu cánh Niết Bàn hơn 2500 năm
rồi; người ta kính ngưỡng và tôn quý Ngài. Sự cầu xin phước lạc cho người ta
hoàn toàn xa lạ đối với tư tưởng Phật giáo, tư tưởng Phật giáo vẫn nhằm thực
hiện vô ngã.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét