Tam tạng Nikaaya cũng như văn học sớ giải đã nỗ lực giải
thích ý nghĩa chuẩn xác thuật ngữ bồ-đề (bodhi). Vì thế, theo
Sa'myutta-Nikaaya, bồ-đề chính là đạt được trí tuệ về Bốn Ðiều Chân Thật Vi
Diệu (Tứ Thánh Ðế).
Thuật ngữ "Bodhi" bắt nguồn từ ngữ căn "budh"
(thức tĩnh) [1] hàm nghĩa là Trí tuệ (~naa.na), Giác ngộ hay Trí tuệ mà Ðấng
Giác Ngộ, (Ðức Phật) đạt được. [2] Thông thường, Bồ-đề bao gồm bảy pháp tu tập
đưa đến Giác ngộ (Paali, Bojha"nga; Skt. Bodhya"nga, Thất Giác chi)
và sự chứng đắc giác ngộ thông qua các nguyên lý dẫn đến sự chín muồi của tỉnh
thức. (Paali, bodhipakkhikaa-dhammaa hoặc bodhi-paacanaa-dhammaa; Skt.
bodhi-pak.syaa-dharma). Bên cạnh đó, trong ý nghĩa đặc biệt của giác ngộ, thuật
ngữ "Bồ đề" (Bodhi) còn được dùng để nói đến sự giác ngộ của chư Ðộc
Giác Phật. [3] Ðôi khi, thuật ngữ sambodhi (sự giác ngộ viên mãn) cũng được
dùng diễn đạt sự giác ngộ của Ðức Phật, chư Ðộc Giác Phật, và các vị A-la-hán.
[4] Tuy nhiên, trong trường hợp để phân biệt sự giác ngộ của chư Phật Duyên
Giác và các vị A-la-hán, thuật ngữ abhisambodhi (Vô thượng đẳng giác) và
samma-sambodhi (chánh đẳng giác) được dành chỉ riêng cho giác ngộ của Ðức Phật.
Tam tạng Nikaaya cũng như văn học sớ giải đã nỗ lực giải
thích ý nghĩa chuẩn xác thuật ngữ bồ-đề (bodhi). Vì thế, theo
Sa'myutta-Nikaaya, [5] bồ-đề chính là đạt được trí tuệ về Bốn Ðiều Chân Thật Vi
Diệu (Tứ Thánh Ðế). Mặt khác, con đường Giác ngộ [6] ả giác ngộ là con đường
(có nghĩa là Tám Con Ðường Chân Chánh). Giác ngộ được giải thích như là sự thấu
suốt bốn điều chân thật cao quý, đó là Bốn Ðiều Chân Thật Vi Diệu [7]
Chứng đạt giác ngộ là thể nghiệm cá nhân và vì vậy chỉ có
người đạt ngộ mới thấu triệt bản chất và ý nghĩa của giác ngộ. Lại nữa, nhiều
đoạn trong Nikaaya đã lý giải sự chứng quả giác ngộ của Ðức Phật cũng như nội
dung của chứng ngộ. [8]
Có hai vấn đề được đưa ra: Thứ nhất, giác ngộ được mô tả một
cách bình dị chính nhờ vào công phu thiền định đã mang lại ánh sáng chân lý sau
thời gian dài chịu thử thách và lạc lối. Thứ hai là cách trình bày sinh động về
cuộc ác chiến quyết liệt giữa con người với Ma vương, cuối cùng Bồ-tát đã chiến
thắng Ma vương và chứng quả Chánh Ðẳng Giác. [9]
Hai cách diễn đạt này cho thấy rõ: cách thứ nhất diễn đạt là
lúc ban đầu và cách diễn đạt thứ hai là thần thoại hoá sau này, có lẽ cách diễn
đạt sau này để cố gắng trình bày tượng trưng cuộc chiến đấu nội tâm của Bồ-tát
ngay trước giờ phút thành Chánh Giác.
Những cứ liệu văn bản sớm nhất cho rằng thái tử Sĩ-đạt-ta
(Siddhattha Gotama) thoát ly đời sống gia đình với mục đích duy nhất là chấm
dứt hiện hữu luân hồi vốn chứa đầy đau khổ. [10] Trải qua thời gian khá dài
trong thử thách và đi sai đường, cuối cùng Ngài liễu tri trọn vẹn nguyên nhân
của tất cả đau khổ trong đời và thấy rõ con đường đưa đến chấm dứt mọi đau khổ ấy.
Chính sự nhận thức thấu đáo này được gọi là giác ngộ. [11]
Từ các cứ liệu kinh điển nguyên thuỷ, chúng ta hoàn toàn
thấy rõ Ðức Phật đạt đến đỉnh cao nhất của trí tuệ chính là do đoạn trừ mọi lậu
hoặc (aasavakkhaya-~naa.na). [12] Hai loại tuệ giác khác đó là tuệ giác biết
được nhiều kiếp trước của mình và chúng sanh (Paali,
pubbenivaasaanussati-~naa.na; Hán-việt dịch là túc mạng minh) và tuệ giác biết
được hiện tượng sanh và diệt của chúng sanh (Paali, dibbacakkhu-~naa.na;
Hán-việt dịch là thiên nhãn minh) là những bước chứng ngộ đầu tiên. Trong nhiều
kinh điển, giây phút chứng ngộ này được minh hoạ như đoạn văn dưới đây: "
Với tâm định tĩnh ta hướng tâm đến trí tuệ đoạn trừ mọi lậu hoặc (aasavaana'm
khaya~naa.naaya citta'm abhininaamesi'm). Ta nhận chân: đây là khổ (dukkha),
đây là nguyên nhân của khổ, đây là sự đoạn diệt khổ, đây là con đường đưa đến
sự đoạn diệt khổ. Ta nhận chân: Ðây là lậu hoặc..., đây là tiến trình đưa đến
sự đoạn diệt các lậu hoặc. Biết như vậy, thấy như vậy, tâm ta thoát khỏi mọi lậu
hoặc của dục ái (kaamasava), hữu ái (bhavaasava) và vô minh ái (avijjaasava).
Khi tâm được giải thoát, ta biết rằng ta được giải thoát, và nhận thức: sanh đã
tận (khii.naa jaati), phạm hạnh đã thành (vusita'm bramacariyam), việc nên làm
đã làm (kata'm kara.niiya'm), không còn trở lại đời sống nầy
nữa"(naapara'm itthattaaya). [13] Sau khi tâm giải thoát khỏi vô minh,
nguồn gốc của tất cả khổ và tái sanh, tuệ giác đoạn trừ các lậu hoặc trở nên
viên mãn. Kể từ khi Bồ-tát Gotama chứng quả Chánh Ðẳng Chánh Giác, Ngài được
tôn xưng danh hiệu là Bậc Giác Ngộ, Ðức Phật.
Kinh điển nguyên thủy không quan niệm rằng thuật ngữ bồ-đề
(bodhi) chỉ dành riêng cho Ðức Phật. Tất cả những vị đã vượt ra ngoài cơn lốc
xoáy của sanh tử, đạt được lậu tận trí (aasavakkhaya-~naa.na) đều được gọi là
Bậc Giác Ngộ và cũng chỉ cho những vị đã đoạn trừ được các lậu hoặc
(khii.naasava) hay còn gọi là những vị A-la-hán. Ðức Phật đạt đến cực điểm của
tiến bộ tâm linh ngang qua chứng ngộ quả vị A-la-hán. Ngài là vị A-la-hán đầu
tiên và cũng được xem như những vị A-la-hán khác. [14] Chứng quả giác ngộ trước
những vị khác, Ngài đi tìm lại con đường mà nó đã mất dấu quá lâu trên cõi đời.
[15] Vì vậy, Ngài là vị tiên phong đã thành công trên bước đường tìm cầu mục
đích giải thoát, trong khi đó những vị A-la-hán khác hành theo pháp của Ngài,
do đó những vị ấy cũng được gọi là những Bậc Giác Ngộ sau sự giác ngộ của đức
Phật (buddhaanubuddhaa). [16]
Từ thời xa xưa đã có những nỗ lực phân biệt sự giác ngộ của
Ðức Phật khác với sự giác ngộ với chúng đệ tử của Ngài. Có lẽ vì mục tiêu này
mà sự giác ngộ của Ðức Phật đã được xem là sự giác ngộ viên mãn nhất
(anuttara-sammaa-sambodhi). Cùng với việc mở rộng khái niệm "Ðức
Phật," nội dung giác ngộ của Ðức Phật cũng trải qua nhiều thay đổi. Vì vậy
người ta cho rằng mặc dù Ðức Phật và chư vị A-la-hán đều chứng đạt tam minh
(tisso vijaa) nhưng tam minh của Ðức Phật vẫn khác với chư vị A-la-hán. Tuệ
giác của Ðức Phật được cho là do thành tựu từ nhiều phương diện. Ngài đã đạt
được lục thông (chaầ abhi~n~naa), thập lực (dasabala), tứ vô sở uý
(catu-vesaarajja), v.v... . Ngài đã thuần thục các pháp đưa đến Giác ngộ
(bodhi-pakkhikaa-dhammaa). Sau càng về sau Ngài được tôn là Ðấng Toàn Trí
(sabba~n~nu). Tất cả những đặc điểm biểu trưng này được xem như phần nào về sự
giác ngộ của Ðức Phật. [17]
Chính vì nội dung của Giác ngộ thay đổi làm cho quan niệm về
con đường đưa đến giác ngộ dường như cũng có một vài biến đổi. Các cứ liệu kinh
điển nguyên thủy mô tả về sự chứng ngộ quả Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác của
Ðức Phật, sau khi từ bỏ hai cực đoan là tham đắm ngũ dục lạc
(kaamasukhallikaanuyoga) và khổ hạnh ép xác (attakilamthaanuyoga), Ngài đi theo
con đường Trung đạo (majjhimaapa.tipadaa), tu tập Giới (siila), Ðịnh
(samaadhi), và Tuệ (pa~n~naa); chính con đường Trung đạo này đã đưa Ngài đến
giác ngộ. Cũng có một số cứ liệu kinh điển trình bày nhiều phương tiện chứng
đạt giác ngộ theo nhiều cách khác nhau. Chẳng hạn trong Samyutta Nikaya, [18]
có đoạn viết: chính do sự tu tập đạt được bốn thần thông (iddhi-paada), Ðức Như
Lai được tôn xưng là một vị A-la-hán, một vị giác ngộĩ viên mãn. Ở một đoạn
khác trong kinh Tương ưng, tu tập bảy pháp giác ngộ được xem là nhân, là duyên
đưa đến quả Giác Ngộ. [19] Những bản kinh sớm hơn không đề cập lại các pháp tu
tập căn bản hướng đến Giác ngộ (bodhi-pakkhikaa-dhammaa). Về sau, số lượng các
pháp tu tập then chốt này được tăng lên ba mươi bảy hoặc bốn mươi ba. Cho đến
sau này, cùng với đà phát triển của trường phái Ðại thừa, Lục Ba-la-mật
(paaramita) và Thập Ðịa (Bhuumi) cũng được xem là những nhân duyên thiết yếu
đưa đến quả giác ngộ. [20]
Chứng đạt giác ngộ cũng đồng với chứng đạt Niết-bàn. Ðây là
mục đích mà tất cả những vị đoạn trừ hết thảy mọi lậu hoặc (aasava) dù là Chư
Phật, chư Phật Ðộc Giác, hay các bậc giác ngộ sau giác ngộ của Ðức Phật. Phật
giáo Nguyên Thủy (Theravaada) không buộc chúng ta trở thành Phật để chứng đạt
Niết bàn nhưng chủ yếu chủ trương đoạn trừ các lậu hoặc để đạt Niết-bàn. Phật
giáo Nguyên thủy cho rằng có ba bậc giác ngộ: Chư Phật, Ðộc Giác Phật, các vị
giác ngộ sau Ðức Phật hay còn là chư vị A-la-hán. Nhưng lý tưởng này không được
xem như như ba lý tưởng khác nhau mà những vị theo Thượng Toạ Bộ theo đuổi như
là sự lựa chọn của mình. Tuy nhiên, sau này cùng với trào lưu phát triển của
Phật giáo Ðại thừa và khái niệm Bồ-tát, các quả vị này được tuyên bố dứt khoát
là ba giai đoạn tu tập tâm linh khác nhau đưa đến ba bậc giác ngộ khác nhau là
Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác (anutara-samyaksambodhi), Duyên Giác
(pratyekabuddha-bodhi), và Thanh Văn Giác ('sraavaka-yaana) để đối thừa với ba
quả vị giác ngộ này, Tam thừa đã được thành lập, đó là Bồ-tát thừa
(bodhi-satva-yaana), [21] Duyên Giác thừa (pratyekabuddha-yaana) và Thanh Văn
thừa ('sraavaka-yaana). Hai thừa sau được xem như thấp hơn nhiều so với Bồ-tát
thừa.
Khi Phật giáo, đặc biệt là Phật giáo Ðại thừa truyền bá rộng
rãi đến nhiều nước khác, các quan điểm và giáo lý đã bị thay đổi nhiều để phù
hợp với niềm tin và quan niệm riêng biệt của mỗi nước. Kết quả là nội dung và
bản chất của Giác ngộ cũng thay đổi ở mức độ nào đó. Các trường phái Phật giáo
ở Trung Quốc và Nhật Bản đã trình bày thêm nhiều quan niệm khác liên quan đến
bản chất giác ngộ và con đường đạt đến giác ngộ. Ví dụ, một mặt, Phật giáo
Thiền dạy rằng giác ngộ đạt được nhờ sự tuệ tri về bản chất của hành giả (kiến
tánh thành Phật). Mặt khác Phật giáo Tịnh Ðộ cho rằng đạt được giác ngộ thông
qua sự tế độ của Ðức Phật A-di-đà. Phật giáo Thiên Thai kể ra năm mươi hai giai
đoạn hành giả phải vượt qua trước khi đạt giác ngộ viên mãn. Một số trường phái
cho rằng chứng đạt giác ngộ phải tu tập từng bước (tiệm ngộ), trong khi đó một
số trường phái khác lại cho rằng chứng đạt giác ngộ là sự trực ngộ nhanh chóng
(đốn ngộ). Chính sự khác nhau này đưa đến việc hình thành hai trường phái thiền
Phật giáo riêng biệt./.
* * *
[Dịch từ nguyên tác tiếng Anh "Bodhi" trong Từ
Ðiển Bách Khoa Phật Giáo (Encyclopaedia of Buddhism), tập III, do giáo sư G.P.
Malalasekera làm tổng biên tập. Ceylon: The Government Press, 1971, trang
178-180]
Chữ Viết Tắt
A. A"nguttara NIkaaya, I - VI, ed. R. Morris, E. Hardy,
C. A. F. Rhys Davids, PTS. 1885-1910.
DA. Diighanikaaya A.t.thakathaa (Suma"ngalavilaasinii),
I - III, ed. T. W. Rhys Davids, J. E. Carpenter, W. Stede, PTS. 1886-1932.
J. Jaataka (with commentary), I - VI, ed. V. Fausbưll, PTS.
1962.
Lal. Lalitavistara, ed. P. L. Vaidya, PTS. 1, 1958.
M. Majjhima Nikaaya, I - IV, ed. V. Trenckner, R. Chalmers,
Mrs. Rhys Davids, PTS. 1888-1925.
M.A Majjhimanikaaya A.t.thakathaa (Pa~ncasuudani), I-V, ed.
J. H. Woods, D. Kosambi, I. B. Horner, PTS. 1922-38.
Mhvu. Mahaavastu, I - III, ed. E. Senart, Paris, 1882-97.
S. Sa'myutta Nikaaya, I - VI, ed. L. Féer and Mrs. Rhys
Davids, PTS. 1884-1904.
Sn. Suttanipaata, ed. D. Anderser and Smith, PTS. 1913.
SnA. Suttanipaata A.t.thakathaa (Paramatthajotikaa II), ed.
H. Smith, PTS. 1916-18.
tr. trang
VbhA Vibha"nga A.t.thakathaa (Sammohavinodanii), ed. A.
P. Buddhadatta, PTS.
Vin. Vinayapi.taka, I - V, ed. H. Oldenberg, London,
1879-83.
VinA Vinaya A.t.thakathaa (Samantapaasaadikaa), I - VII, ed.
J. Takakusu, M. Nagai, PTS. 1924-47.
vctkt. và các trang kế tiếp
Chú Thích
[1] Bodhin- manas: Rg- veda, v. 75. 1. viii, 82, 18.
[2] Trong ngữ cảnh này 'trí tuệ' có nghĩa là thấy rõ được
bản chất thật của các pháp (yathaabhuuta~naa.na).
[3] Xem thêm các thuật ngữ pacceka - bodhi (J. III, tr. 348;
trong SnA. tr. 73 dùng để phân biệt với thuật ngữ sammaa - sambodhi) và pacceka
- bodhi - ~naa.na (J. IV, tr. 114). Ðiều đáng lưu ý là thuật ngữ saavaka -
bodhi không thấy xuất hiện trong kinh điển Paali và văn học sớ giải mặc dù
thuật ngữ Sanskrit tương đương là 'sravaka - bodhi được dùng phổ thông trong
các bản văn Sanskrit Phật giáo. Ghi chú trong DA. I, tr. 100 có liệt kê ba cấp
độ trí tuệ: Trí tuệ Thanh văn (saavaka-paaramii-~naa.na), Trí tuệ Duyên Giác
Phật (pacceka-buddha-~naa.na), Trí tuệ của Phật (sabba~n~nuta-~naa.na). Ðôi
khi, thuật ngữ bodhi cũng được dùng để chỉ cho trí tuệ cao tột của người tu khổ
hạnh (ví dụ như trong J. V, tr. 229-230).
[4] Rhys Davids cho rằng thuật ngữ này tuyệt nhiên không có
nghĩa là trí tuệ của Ðức Phật mà nó luôn luôn chỉ cho tuệ quán ở trạng thái cao
hơn bậc Arahant (Dialogues, I, tr. 190 vctkt). Tuy nhiên, quan điểm của ông
không chấp nhận cách giải thích các dữ kiện liên quan đến nguyên bản (xem thêm
S. I, tr. 181; M. I, tr. 17, 163; Sn. kệ. 693, 696).
[5] Sa'myutta Nikaaya (Tương Ưng Bộ Kinh), tập V, tr. 423.
[6] Bodhiiti maggo (con đường giác ngộ): M.A. I, tr.54;
VinA. I. tr. 139.
[7] Xem thêm I. B. Horner, Early Buddhist Theory of Man
Perfect, London, 1936, tr. 34 vctkt. VàVbhA. tr. 310.
[8] Có nhiều đoạn trong kinh mô tả các vị đệ tử của Ðức Phật
chứng quả Giác ngộ. Trong Thera and Theri - gaathaa (Trưởng Lão TăngKệ và
Trưởng Lão Ni Kệ) cũng có rất nhiều đoạn mô tả như vậy.
[9] M. I., tr.160-161., 240-241; Sn. Kệ 425- 49; xem thêm
Lal. tr. 218 vctkt., Mhvu. II, tr. 238).
[10] dukkha: M. I, tr. 163; A. I, tr. 145; S. II, tr. 104;
III, tr. 65.
[11] M. I, tr. 167.
[12] Trong kinh Ariyapariyesana (M.I, tr. 163) không sử dụng
thuật ngữ đặc biệt này, tuy nhiên ý tưởng đã diễn đạt ý nghĩa quan trọng của
nó.
[13] M. I. tr.23, 249.
[14] Vin. I, tr. 14
[15] S. II, tr. 105; V, tr. 160-161; M. III, tr.8.
[16] Liên quan đến sự khác nhau giữa Ðức Phật và các vị
A-la-hán.
[17] Xem ERE. II, tr. 740.
[18] M. V, tr. 127-128.
[19] S. V, tr. 127-128.
[20] Liên quan đến lời giải thích Bodhi của Mật Tông.
[21] Những quan niệm này về sau được trường phái Nguyên thủy
Phật giáo (Theravaada Buddhism) công nhận. Dường như nó được giới thiệu vào
Phật giáo Tích lan trong thời kỳ Polonnaruwa, trong suốt thời gian đó, đông đảo
Phật tử của Ðại thừa Phật giáo cũng đã tìm ra hướng đi cho chính họ.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét