Như chúng ta đã biết, thế giới quan là một khái niệm triết
học, tức là cá nhân đối với thế giới, cho đến cách nhìn rất căn bản về vũ trụ,
từ năng lực tư duy của nhân loại hiện khởi, chứ không phải dừng lại ở sự nghiên
cứu hay suy xét đối với một vấn đề nào đó. Như vậy, Phật giáo có cách nhìn ra
sao về vấn đề trên?
Lúc còn tại thế, suốt bốn mươi chín năm thuyết giảng, khai
mở hơn ba trăm pháp hội, đức Phật luôn luôn lấy hai phạm trù : phá ngã chấp[1]
và phá pháp chấp[2] làm ý nghĩa trọn vẹn cho giáo pháp của mình. Ngã chấp chính
là cái “ta” mang tính chủ quan, và pháp chấp chính là vũ trụ vạn hữu mang tính
khách quan. Nói chung, nội dung của phật pháp không ngoài việc giải thích rõ
thực tướng của nhân sinh tức “ngã” (cái ta) và vũ trụ tức là hoàn cảnh nơi mà
chúng ta nương ghá để sinh tồn. Phật pháp cho rằng nếu nhận thức được chân
tướng của “ngã” và “pháp”, thì chúng ta không bị tự ngã và hoàn cảnh khách quan
gây bức bách. Nghĩa là chúng ta hân hoan chuyển mê khai ngộ, từ đó lìa khổ được
vui và đạt đến giải thoát vĩnh cửu.
Do vậy, thực chất “pháp” được đức Phật thuyết giảng chính là
nguyên tắc tự nhiên của vũ trụ, là bản hữu của vũ trụ, chứ không phải mơ hồ như
một số tôn giáo khác nói “pháp là do thần linh sáng tạo ra”. Đức Phật luôn huấn
thị: “pháp vốn như vậy”, nghĩa là vạn hữu vũ trụ xưa nay đều hiện tồn theo nguyên
tắc tự nhiên và được đức Thích Ca Mâu Ni khám phá nhờ vào trí tuệ vô thượng của Ngài. Đức Phật
phát hiện sự bí áo của nhân sinh và vũ trụ để rồi tự tại an nhiên giải thoát
trở thành bậc Giác Ngộ. Tuy nhiên, đức Phật không hề lấy đó làm niềm hạnh phúc
tuyệt đối cho chỉ riêng bản thân mình, ngược lại, Ngài vô cùng hoan hỷ đem sự
bí áo ấy thuyết giảng cho chúng sanh khiến họ nương vào giáo pháp thâm diệu để
học tập tu hành, đồng thời thấu triệt huyền cơ bí yếu và trở thành người giác
ngộ như Ngài. Trong lịch sử nhân loại, chúng ta có thể nói rằng chưa có vị giáo
chủ nào vĩ đại như thế, và điều ấy đã trở thành bản ý trong sự nghiệp thuyết
pháp độ sanh của đức Phật.
Nói đến nhân sinh và vũ trụ, thực sự đây là một vấn đề hết
sức nan giải khiến chúng ta khó mà nắm bắt hết được. Ví dụ vấn đề được đặt ra:
Vũ trụ do đâu sanh khởi? Nó nương vào đâu để hình thành? Thời gian tồn tại của
nó là bao lâu? Phạm vi hay không gian chiếm hữu của nó rộng bao nhiêu? Với muôn
hình vạn trạng hết sức phức tạp của nó rốt cuộc
liệu có hay không có quy luật? Hoặc nó có một chủ tể? Hơn nữa, vũ trụ
nhân sinh do đâu mà có? Đến đi về đâu? Giá trị của sinh mạng nằm ở chỗ nào? Ý
nghĩa của nó tồn tại ở đâu? Những vấn đề này, từ xưa đến nay, rất nhiều các nhà
tư tưởng, các triết gia, các nhà khoa học đã hơn một lần tìm tòi nghiên cứu,
nhưng thực chất không ai đưa ra lời giải đáp hoàn toàn thích đáng.
Vũ trụ này, theo Phật giáo, đó chính là thế giới. Duy Nam Tử
nói: “bốn phương trên dưới là Vũ; xưa, nay và mai sau là Trụ”. Kinh Phật nói:
“quá khứ, hiện tại và tương lai là Thế; Đông, Tây , Nam ,
Bắc, trên, dưới là Giới”. Như vậy, cả hai quan điểm này đều nói đến sự hợp
xướng của thời gian và không gian vô lượng. Do đó, thế giới quan của phật giáo
cũng chính là vũ trụ quan mà chúng ta thường gọi.
Nói đến vũ trụ quan là nói đến cách nhìn của chúng ta về sự
cấu thành và hủy hoại của vũ trụ, cũng tức là nói đến sự hiểu biết của nhân
loại về hiện tượng giới. Từ xưa đến nay, các học giả phương Đông cũng như
phương Tây đã đưa ra nhiều quan điểm lý luận cho vấn đề này dưới nhiều phạm
thức như duy tâm, duy vật.., và hiện tại chỉ lược nêu ra một số luận điểm của
các trường phái như sau.
1.Duy Vật Luận
Vũ trụ quan của duy vật luận khẳng định vũ trụ chỉ là hình
thái tồn tại của vật chất. Nếu loại trừ vật chất, thì không có thế giới. Do
vậy, trường phái này đi đến quyết định rằng con người cũng do vật chất tạo ra.
Các học giả của duy vật luận nói nếu con người không có buồng tim hay võ não,
thì không thể suy nghỉ. Do đó, họ cho rằng tư tưởng đều nương vào vật chất để
tồn tại; con người sau khi chết, nhục thân sẽ biến mất và tinh thần theo đó
cũng tiêu vong. Họ không thừa nhận có một tinh thần tồn tại trong vũ trụ.
Trường phái này khẳng định bất cứ một hoạt động nào của vũ trụ, đều là hoạt
động của vật chất. Các phạm trù như không gian, thời gian, trật tự vv cũng đều
trực thuộc đặc tính của vật lý, chứ con người không thể căn cứ vào hư không để
sáng tạo ra quy luật vật lý. Do đó, nguyên lý của thế giới tự nhiên không lệ
thuộc vào con người để tồn tại mà nó tồn tại độc lập. Họ vẫn công nhận rằng con
người có tâm linh, nhưng tâm linh đều do vật chất tạo ra. Nói chung, Duy vật
luận đã chứng minh rõ mối quan hệ giữa
vật chất và tinh thần qua ba luận cứ: tinh thần là thuộc tính của vật chất,
tinh thần là sản phẩm của vật chất, tinh thần là một phần của vật chất. Thuyết
duy vật luôn chú trọng vào yếu tố vật chất để hình thành nên thế giới hiện
tượng cũng như nội tại nhằm lý giải sự xuất hiện của vũ trụ trong phạm trù duy
vật biện chứng. Họ cho rằng xã hội là do con người quyết định và con người đều
bắt nguồn từ vật chất, sau đó mới nảy sinh tinh thần để suy nghỉ hay định liệu.
Trên cơ sở này, họ chối bỏ khởi nguyên của tinh thần và đặt tinh thần vào bậc
thứ yếu. Trong khi đó, mọi hiện tượng cũng được đúc khuôn theo một hệ thức
không thay đổi “vật chất có trước, tinh thần có sau”. Do vậy, họ khẳng định
tinh thần là sản phẩm của vật chất và đã phá những luận điểm của các tôn giáo
có mặt trong thế giới này. Thế giới, theo họ, là sự đúc kết của một khối vật
chất tạo nên.
2. Duy Tâm Luận
Duy tâm luận còn được gọi là Quan niệm luận. Trường phái này
lấy tinh thần làm nền tảng căn bản của vũ trụ, đối lập với thuyết duy vật. Do
vậy họ đưa ra quan điểm rằng bất cứ một sự vật nào tồn tại trong vũ trụ đều
xuất phát từ tinh thần. Tác dụng của loại tinh thần này được biểu hiện qua quan
niệm của con người và ngay nơi năng lực của sự vật. Như vậy, vật chất là sản
phẩm của tinh thần và chính tinh thần quyết định vật chất. Con người có quan
niệm cũng như sự vật có năng lực. Con người hiểu rõ vũ trụ là nhờ vào quan niệm
nắm bắt sự vật một cách thực sự. Nếu không có tinh thần, thì vũ rụ vạn hữu
không thể hình thành và diệt vong ngay từ buổi đầu sơ khởi. Do tinh thần vốn
mang ý nghĩa như vậy nên nguồn gốc của vũ trụ có sự phát triển hợp lý để tạo
thành. Có tinh thần thì có sự vật. Chính tinh thần là nền tảng làm phát sinh
mọi thứ trong vũ trụ. Một sự vật tồn tại, nếu vắng bóng tinh thần, thì sự vật
ấy chết cứng ngay khi chưa thể mường tượng. Tinh thần là nguyên nhân tạo ra vật
thể, đồng thời tự thân của nó có đủ lý tánh để điều phối sự vật. Tất cả vạn vật
trong vũ trụ đều bắt nguồn từ tinh thần, chịu sự chi phối của tinh thần, cho
nên chúng mới hình thành có trật tự và không bị hổn loạn.
3. Nhị Nguyên Luận
Quan điểm của trường phái này chủ trương vũ trụ được tạo
thành từ tính chất dung hợp của hai phạm trù vật chất và tinh thần. Tâm và vật
hiện hữu trong vũ trụ là hai chủng tánh tương quan tương liên không thể tách
rời. Nguồn gốc của tâm và vật là thuộc tính hòa hợp, bản thân của chúng là thực
thể bất biến. Trường phái này đem mối quan hệ tinh thần và vật chất chuyển biến
thành mối quan hệ của thân và tâm, lấy quá trình bất đồng giữa tư tưởng và vật
chất tổ chức thành nhất thể, đem thân tâm và vật chất tổng hợp làm một không
thể tách rời. Thuyết nhị nguyên đem vật chất và tinh thần dung hợp ở đỉnh cáo
của vạn hữu. Sự chia chẻ hay phân biệt giữa tinh thần và vật chất, theo thuyết
này, là một cách nhìn sai lầm không có tính thống nhất. Vạn hữu vũ trụ là sự
dung hòa chặt chẻ của tinh thần và vật chất. Nếu tách rời tinh thần để tìm vật
chất, thì hoàn toàn không thấy sự tồn tại của vật chất. Ngược lại, nếu tách rời
vật chất để nắm bắt tinh thần, thì tuyệt đối không có tinh thần tồn tại độc
lập. Thế giới này là quá trình dung hợp của cả tinh thần lẫn vật chất. Nếu vắng
bóng sự hòa hợp của hai yếu tố này thì thế giới nhất định không thể hình thành
và tồn tại. Như vậy, theo Nhất nguyên luận, vũ trụ vạn hữu được tạo nên nhờ vào
sự kết hợp nhuần nhuyển và có thứ tự của hai lãnh vực vật chất và tinh thần.
4. Đa Nguyên Luận.
Tương phản với Nhất nguyên luận, Đa nguyên luận cho rằng yếu
tố tạo nên vũ trụ không phải là một cá thể mà tổ hợp nhiều cá thể. Vì bản thể
của vũ trụ vạn hữu mang nhiều yếu tố, cho nên vũ trụ mới có nhiều hiện tượng.
Do đó, trong hiện tượng bất đồng này vốn đã chứa đựng nguồn gốc bất đồng, chứ
không phải chỉ có một căn nguyên nào đó biến dịch ra hiện tượng.
Căn cứ vào tính chất của bản thể vũ trụ mà nói, thì vốn có
sự hiện hữu của duy vật, duy tâm, nhị nguyên, đa nguyên bất đồng. Nhưng nếu dựa
vào sự hình thành của bản thể vũ trụ để trình bày, thì vốn có nhiều phương pháp
diễn thuyết như cơ giới luận, mục địa luận, điều hòa phái, siêu việt phái .v.v
Tuy nhiên, các học thuyết trên, mỗi học thuyết đều có khuyết điểm của nó. Thực
chất của bản thể vũ trụ, nếu nói theo duy vật, thì sự sáng tạo của sinh mạng,
tác dụng của tinh thần, chuyển biến của năng lực đơn thuần không thể chấp nhận
được. Nếu căn cứ vào duy tâm mà nói, thì sự tồn tại của vật chất cũng là sự
thực, và tinh thần không thể sáng tạo ra vật chất. Theo thuyết nhị nguyên, tâm
và vật đều có đặc tính không tương quan của nó, nhưng tinh thần không thể tách
rời nhục thể để tồn tại và hoạt động độc lập. Đa nguyên luận cho rằng có nhiều
yếu tố tạo thành vũ trụ chứ không phải chỉ một yếu tố, và các yếu tố này có
tính mâu thuẩn thống nhất với căn nguyên của vũ trụ. Ngay cả sự lý giải về diễn
biến hình thành vũ trụ của cơ giới luận, mục địa luận, điều hòa phái, siêu việt
phái, mỗi thuyết cũng có sở trường và sở đoản của nó, nhưng không thể giải đáp
được tính viên mãn của vũ trụ mà chúng ta đề cập đến.
Có một số tôn giáo cho rằng chính thần linh sáng tạo ra thế
giới, sáng tạo ra nam nữ, sáng tạo ra vạn vật v.v. Tuy nhiên, cách lý giải này
mang tính thần thoại chứ thực tế không thể biểu hiện được chân lý của nhơn sanh
vũ trụ. Vậy, phật giáo có cách gì giải thích triệt để về chân lý của nhơn sanh
vũ trụ? Trước hết, chúng ta nên căn cứ vào quan điểm “ngũ ấm thế gian’ mà trong
kinh Phật thường nói đến để giải thích.
1.Ngũ ấm[3] thế gian
Nói đến vũ trụ hay thế giới là nói đến sự tổng hợp của tất
cả hiện tượng sanh diệt biến dị qua không gian và thời gian. Theo phật giáo,
các hiện tượng sanh diệt biến dị này đều chịu sự chi phối của nhân duyên, nghĩa
là các pháp đều do nhân duyên sanh ra và cũng theo nhân duyên mà hoại diệt.
Nhưng nguồn gốc nhân duyên sanh diệt của vũ trụ vạn hữu được bắt nguồn từ
“thức” và “danh sắc”. Nói chung do chủ thể nhận thức (thức) và đối tượng nhận
thức (vạn pháp) tương quan tương duyên với nhau trong phạm vi đối đãi để hình
thành nên thế giới. Bởi vậy, trong kinh phật thường nói: “thức duyên danh sắc,
danh sắc duyên thức”. Vậy, danh sác này là gì? Xin trả lời rằng “danh sắc”
chính là năm uẩn. Đức Phật dạy vũ trụ vạn hữa đều do năm uẩn với nhân duyên hòa
hợp tạo thành. Năm uẩn này chính là: sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Trong năm uẩn
này, sắc uẩn được gọi là “sắc”; còn thọ, tưởng, hành, thức được gọi là “danh”,
cho nên mới có tên gọi chung là “danh sắc”.
Trong Đại Thừa Ngũ Luận nói: “sao gọi là uẩn, nghĩa là bốn
đại và sự tạo tác của bốn đại..”. Trong
Đại Thừa A Tỳ Đạt Ma Tạp Tập Luận nói: “ hỏi: sắc uẩn là tướng? đáp: biến ra
hiện tượng là tướng. Có hai dạng: (1) xúc đối với biến hoại; (2) tướng hiện
thấy…”. Như vậy, theo cách lý giải này, nếu nói theo ngôn ngữ hiện đại, thì
“sắc” tương đương với thể tích, nhĩa là một vật nào đó chiếm hữu không gian rồi
biến hoại mà trong khoa học gọi đó là “vật chất”. Tuy nhên, hai chữ “vật chất”
đôi lúc hoàn toàn không tương đồng với “sắc” vì nó không bao hàm toàn bộ ý
nghĩa của sắc uẩn.
Sắc uẩn trong bốn đại
là chỉ cho đất, nước, gió, lửa thuộc tính của vật chất. Bốn đại này cũng
chỉ cho bốn tính chất cứng, ướt, nóng và động. Sắc uẩn do bốn tính chất này tạo
nên với sự vật muôn hình vạn trạng. Và trong đó được phân ra hai lãnh vực cơ
bản: (1) sự vật có hình tướng tức chỉ cho “xúc đối với biến hoại”, nghĩa là thế
giới tự nhiên như sông núi, cỏ cây, mắt tai mũi lưởi của con người, hay các vật
dụng mà con người tạo nên v.v Tất cả những vật này, tay của chúng ta có thể sờ
mó và biết chúng tồn tại, mắt thấy được hình thể của chúng, nhưng vì sức con
người hoặc các nhân tố khác tác động đến khến chúng biến hình hoặc hoại diệt.
Như vậy, quá trình này được đúc kết trong một thành ngữ “xúc đối với biến
hoại”. (2) Nếu có dấu vết, chúng ta có thể tìm thấy, được gọi là “tướng hiện
thấy” như trên đã đề cập đến. Ví dụ mọi khía cạnh như vuông, tròn, dài, ngắn;
hoặc các màu sắc như trắng, đen, hồng, tím v.v và nhiều khái niệm trừu tượng
khác. Các lãnh vực này khi tiếp xúc, chúng ta sẽ có ấn tượng về tên gọi của
chúng.
Thọ uẩn là sự lãnh thọ hay nhận lấy, nghĩa là đem tâm thọ
nhận moi hiện tượng xảy ra xung quanh mình. Diều này chỉ cho hữu tình chúng
sanh với tác dụng của tình thức cảm nhận láy mọi thứ trong vũ trụ vạn hữu. Ví
dụ khi tâm mình cảm nhận những gì thích hợp thì sanh khởi trạng thái vui thích
(lạc thọ), ngược lại thì sanh khởi trạng thái buồn khổ (khổ thọ). Theo tâm lý
học, tình huống này được gọi là cảm tình.
Tưởng uẩn là sự nắm bắt tướng trạng, nghĩa là khi nhận thức
về cảnh giới, chúng ta đem tâm nhiếp thủ mọi thứ để tạo thành khái niệm. Theo
tâm lý học, tình huống này được gọi là ý thức.
Hành uẩn là sự tạo tác, nghĩa là đối cảnh sanh tâm hoặc suy
xét và quyết đoán khi tiếp xúc hiện tượng giới. Sau đó, chúng ta phát khởi các
hoạt động qua ngôn ngữ và hành vi. Theo
tâm lý học, tình huống này được gọi là ý chí.
Thức uẩn là sự phân biệt, nghĩa là khi mắt nhìn thấy sắc lại
phân biệt trắng, đen, hồng, tím; tai nghe thấy tiếng lại phân biệt tốt, xấu;
mũi ngưởi thấy mùi lại phân biệt thối, thơm; lưỡi nếm mùi vị lại phân biệt dở,
ngon; thân tiếp xúc hiện tượng lại khởi phân biệt lạnh, nóng. Theo tâm lý học,
tình huống này được gọi là nhận thức.
Như vậy, chính năm uẩn trên đã tạo thành vũ trụ vạn hữu theo
quan điểm của phật giáo. Nghĩa là con người và tất cả các chúng sanh có tình
thức nương ghá vào sơn hà đại địa để
sinh tồn. Cũng theo phật giáo, vũ trụ và con người đều thống nhất được gọi là
thế gian; còn con người và tất cả chúng sanh có tình thức thì gọi là hữu tình
thế gian; chúng sanh nương vào sơn hà đại địa để sanh tồn thì gọi là khí thế
gian.
Năm uẩn này cũng được gọi là “danh sắc”, là nguồn gốc để tạo
nên vũ trụ vạn hữu. Do đó, “thể thức nhận biết mang tính chủ quan” và “sự vật
được nhận biết mang tính khách quan” đều tồn tại trong năm uẩn này. Thức uẩn
chính là thể thức nhận biết mang tính
chủ quan; bốn uẩn còn lại chính là sự vật được nhận biết mang tính khách quan.
Theo như đã trình bày ở trên, thì thọ, tưởng và hành vốn là
hoạt động của tinh thần. Như vậy lại nảy sinh một vấn đề mà chúng ta cần giải
quyết là tại sao sự vật được nhận biết mang tính khách quan hiện hữu trong đó,
và hiện hữu như thế nào. Để giải đáp vấn đề này, chúng ta nên khảo cứu một đoạn
dối thoại trong Đại Thừa A Tỳ Đạt Ma Tạp Luận, như sau:
“Hỏi: Sao uẩn chỉ có năm loại? Đáp: Vì chỉ hiển bày năm việc
của ngã. Nghĩa là hiển bày thân tướng (sắc) của ngã, sự thọ dụng (thọ) của ngã,
ngôn thuyết (tưởng) của ngã, sự tác tất cả pháp và phi pháp (hành) của ngã,
nương gá vào tự thể (thức) của ngã. Trong năm loại này, bốn loại trước là sự
việc của ngã sở, loại thứ năm là sự việc của ngã tướng…Sao vậy? Vì hữu tình thế
gian đa phần đều lệ thuộc vào thức uẩn, rồi chấp dó làm ngã; các uẩn khác chấp
làm ngã sở”.
Đoạn hội thoại trên muốn nói con người thường lấy mắt, tai,
mũi, lưỡi làm ngã; lấy sắc, thanh, hương, vị làm sự tiếp xúc của ngã, cảm giác của ngã (thọ) làm sở hữu của ngã, ký
ức của ngã (tưởng) làm sở hữu của ngã, hành động của ngã (hành) làm sở hữu của
ngã. Bốn hiện tượng tâm lý và vật lý này do ngã quán sát và nhận thức cho nên
đều thuộc về “ngã sở”. Tuy nhiên cái ta hay ngã có khả năng quán sát mang tính
chủ quan chỉ là thức thuộc trạng thái hoạt động thống nhất của tâm lý. Thức
chính là cái tôi hay ngã mang tính chủ quan, còn sắc, thọ, tưởng, hành là sự
vật mang tính khách quan. Do ngã của chủ quan và sự vật khách quan hổ tương đối
đãi để tạo thành thế giới vạn hữu, cho nên trong kinh, đức Phật nói: “thức
duyên danh sắc, danh sắc duyên thức”. Hơn nữa, có một điểm quan trọng cần phải
cú ý ở đây là thức và danh sắc tức chủ quan và điều kiện khách quan hoàn tòan
không có sự tách biệt, ngược lại, thức là thức có mặt trong danh sắc và danh
sắc là danh sắc có mặt trong thức. Do đó, chủ quan là điều kiện tạo nên thế
giới khách quan và khách quan cũng là điều kiện tạo nên thế giới chủ quan. Nếu
loại bỏ chủ quan thì không có khách quan và ngoài thế giới khách quan, không có
thế giới chủ quan tồn tại riêng biệt. Bởi vậy, trong kinh Phật nói, như trên đã
trình bày: “thức duyên danh sắc, danh sắc duyên thức; cái này sanh thì cái kia
sanh, cái này diệt thì cái kia diệt”. Mối quan hệ của thức và danh sắc hay chủ
quan và khách quan là mối quan hệ bền vững không thể tách rời. Nếu chúng ta đem
khái niệm phân biệt để chia chẽ hai phạm trù này, thì vô hình dung chúng ta
giết chết sự tồn tại của chính mình và thế giới hiện tượng.
2. Các pháp do nhân duyên[4] sanh.
Khi còn tại thế, đức Phật thường ở tinh xá Trúc Lâm, tọa lạc
trong thành Vương Xá để thuyết pháp giảng kinh. Lúc ấy, có hai vị sa môn tu
theo ngoại đạo là Xá Lợi Phất và Mục
Kiền Liên. Hai vị này đều có trí tuệ siêu quần,
có đức độ cao cả nên được nhiều người kính trọng trong xã hộ Ấn Độ đương
thời. Một ngày nọ, Xá Lợi Phất[5] đã gặp được tỳ kheo Mã Thắng[6], một trong
các đệ tử của đức Phật. Khi nhìn thấy Tỳ kheo Mã Thắng với oai nghi thù thắng,
cử chỉ đỉnh đạc, trong tâm Xá Lợi Phất rất mến mộ nên liền hỏi Tỳ kheo Mã Thắng
rằng: “xin hỏi sư phụ của ngài là ai, tôi có thể nói chuyện về giáo pháp với
ông ấy có được không?” Mã Thắng liền đáp: “Thầy tôi là Thích Ca Thế Tôn, người
có trí tuệ và thần thông không ai sánh kịp. Tuổi tôi còn nhỏ với lại tư chất thấp
kém nên tuy học tập theo thầy tôi mỗi ngày, nhưng không sao hiểu hết pháp vi
diệu của ngài”. Xá Lợi Phất lại hỏi tiếp: “xin ngài từ bi lược nói điểm chính
yếu về diệu pháp mà sư phụ ngài đã ban dạy”. Tỳ kheo Mã Thắng liền nói kệ: “
Các pháp do duyên sanh
Các pháp do duyên diệt
Thầy tôi: Đại Sa Môn
Thường nói như thế đó”.
Sau khi nghe qua bài kệ này, Xá Lợi Phất liền hốt nhiên đại
ngộ và bảo Mục Kiền Liên[7] cùng đến gặp Phật và nương tựa theo Ngài để tu tập.
Qua đoạn hội thoại này, một vấn đề nảy sinh là tại sao Xá
Lợi Phất khi nghe “các pháp do duyên sanh, các pháp do duyên diệt” lại tự bỏ
hết sở học của mình để quy y với đức Thế Tôn? Để giải mã vấn đề này thực ra
không khó. Vì chắc chắn rằng hai câu kệ trên chính là chân lý của vũ trụ và Xá
Lợi Phất là người đã trực ngộ được chân lý ấy trở thành bậc đệ nhất trí tuệ
trong hàng đệ tử của đức Phật. Tuy trước đó
ông ta chưa hề biết Thế Tôn, nhưng do đã có nhiều năm tu tập nghiền ngẩm
về chân lý ấy, cho nên mới nghe qua lập tức khai ngộ và quy y Thế Tôn. Căn cứ
vào phật pháp mà nói, thì sự hình thành và hoại diệt của vũ trụ đều do hai chữ
“nhân duyên”. Cũng theo phật pháp, hai chữ “nhân” và “duyên” này chưa hề tách
rời nhau. Tuy nhiên, nếu đứng trên lập trường tương đối mà nói, thì “nhân” tức
chỉ cho đặc tính của vạn hữu, còn “duyên” là chỉ cho những tác dụng thiết thực
tạo nên vạn hữu. Nhân là chỉ cho điều kiện chủ yếu của sự vật sanh diệt, còn
duyên là chỉ cho điều kiện hổ trợ cấu thành vạn hữu. Như vậy, hai chữ “nhân
duyên”, nếu dùng ngôn ngữ hiện đại mà nói, thì đó chính là điều kiện và mối
quan hệ của điều kiện. Do dó, sự sanh diệt của một sự vật trong vũ trụ luôn
luôn có đầy dủ các điều kiện nào đó; sự tồn tại của mỗi sự vật cũng cần phải có
mối quan hệ hổ tương lẫn nhau. Điều kiện hay mối quan hệ tồn tại hoặc sanh diệt
của một sự vật được gọi là nhân duyên
của sự vật ấy.
Hai chữ “nhân duyên” này, trong kinh A Hàm, đức Phật giải
thích rằng: “vì cái này có nên cái kia có, vì cái này sanh nên cái kia sanh, vì
cái này không nên cái kia không, vì cái này diệt nên cái kia diệt”. Đoạn kinh
này nói lên tất cả sự vật trong vũ trụ đều không có sự tồn tại tuyệt đối mà tất
cả chỉ là mối quan hệ nương ghá tồn tại mang tính tương dối. Mối quan hệ tồn
tại nương gá lẫn nhau này chứa đựng hai loại hiện tượng là đồng thời và khác
thời. Hiện tượng đồng thời chính là “vì cái này có nên cái kia có, vì cái này
không nên cái kia không”. Hiện tượng này
nêu rõ mối quan hệ giữa chủ thể và khách thể. Hiện tượng khác thời chính là “vì
cái này sanh nên cái kia sanh, vì cái này diệt nên cái kia diệt”. Hiện tượng
này nêu lên mối quan hệ giữa nhân và quả. Như vậy, cả hai hiện tượng đều phô
diễn mối quan hệ phong phú của không gian và thời gian. Nếu căn cứ vào thời
gian mà bàn luận, thì vũ trụ chính là sự tương tục của nhân quả, đồng thời nhân
và quả này nối tiếp nhau từ vô thủy đến vô chung. Nếu dựa vào không gian mà
nói, thì vũ trụ này là mối tương liên giữa chủ thể và khách thể tác động qua
lại với nhau liên tục nhưng không hề có trung tâm và biên tế tuyệt đối. Mối
quan hệ nhân quả tương tục và sự tương liên của chủ thể và khách thể này tạo
nên thế giới vạn hữu ràng buộc và tồn tại nương gá lẫn nhau.
Tuy nhiên, bất luận mối quan hệ nhân quả khác thời hay mối
quan hệ giữa chủ thể và khách thể khác thời, thì điều kiện căn bản của nó đều
không thoát ra ngoài năm uẩn. Do nhân duyên năm uẩn hòa hợp mà tạo thành khí
thế gian[8] với sơn hà đại địa và hữu tình thế gian[9] với chúng sanh có tình
thức. Nhưng thế gian năm uẩn và xum la vạn tượng đều sanh diệt biến dị trong
từng sát na không ngừng. Trong quá trình sanh diệt biến dị của vạn hữu hoàn
toàn tuân thủ theo nguyên tắc “luật nhân quả của các pháp”.
3. Luật nhân quả của vạn hữu.
Sự hình của vũ trụ không phải do thần linh sáng tạo ra; sự
biến đổi của vạn hữu cũng không phải do thượng đế chi phối. Ngược lại, tất cả
đều do vay mượn các duyên hòa hợp để hình thành nên. Sự sanh khởi từ “không”
đến “có” này nếu căn cứ vào “nhân” mà nói, thì gọi là “duyên khởi”[10], còn
đứng trên lập trường của kết quả mà nhìn nhận, thì gọi “duyên sanh”. Do vậy,
phật giáo nói muôn sự vạn vật tồn tại trong vũ trụ là pháp được nhân duyên sanh, và sự sanh khởi của vạn hữu
là nhân duyên sanh của vạn pháp.
Vũ trụ vạn hữu vốn vay mượn các duyên để sanh khởi và hoại
diệt, do đó, từ hữu tình thế gian đến
khí thế gian, từ hiện tượng tinh thần đến hiện tượng vật chất đều hiện tồn
trong lưu chuyển biến động, sanh diệt biến hóa từng sát na[11] không ngừng. Sự
sanh, già, bệnh, chết của hữu tình chúng sinh và bốn giai đoạn[12]: thành, trụ,
hoại, không của khí thế gian đều biểu hiện qua vạn pháp lưu chuyển, sanh diệt
vô thường. Trong quá trình sanh diệt lưu chuyển này bị chi phối bởi một quy
luật cơ bẩn nhất định là luật nhân quả của các pháp, theo quan điểm của phật
giáo. Luật nhân quả này chính là quy tắc nguyên nhân và kết quả để nghiên cứu
sự vật. Khoa học hiện đại cũng có nói đến luật nhân quả, nhưng nhân quả của
khoa học chỉ áp dụng dựa trên sự biến hóa của vật lý. Luật nhân quả của phật
giáo ứng dụng cho cả sự biến hóa của tinh thần lẫn vật chất và sự biến hóa tương
liên của tâm và hiện tượng. Phật pháp lấy quy tắc này dể phân tích sự vật một
cách hết sức cẩn mật rõ ràng, dựa vào quy tắc này để thiết lập nên nhân sinh
quan của ba đời, đồng thời dùng mối liên của khái niệm nghiệp báo, luân hồi v.v
để hổ tương sáng lập nên tư tưởng luan lý về nhân quả thiện ác trong ba đời.
Như vậy, nhân quả tức là nhân duyên và quả báo. Nhân là
nguyên nhân; duyên là trợ duyên. Do nhân duyên hòa hợp mà sanh ra sự vật được
gọi là quả. Quả này lại tiếp tục tạo ra nhân nên gọi là “báo”. Thế gian và xuất
thế gian, từ chúng sanh đến thành phật, từ căn thân đến khí giới, tất cả sanh
diệt biến dị đều bị quy tắc này chi phối. Bất cứ sự vật nào tồn tại trên đời
này đều có nguyên nhân của nó. Tuy nhiên, có nhân nhưng không có duyên thì cũng
không thể sanh khởi. Ví dụ hạt đậu là nhân nhưng nếu không có các trợ duyên như
người gieo trồng chăm sóc bỏ nó vào đất, ánh sáng mặt trời, mưa v.v thì hạt đậu
ấy không thể nảy mầm và sanh trưởng. Cũng vậy nếu không có nhân duyên hòa hợp,
thì không thể hình thành nên quả báo. Không chỉ sự sanh thành của sự vật là thế
mà ngay cả sự biến dị và hoại diệt của sự vật cũng vậy.
Phật giáo nói rõ mối liên hệ nhân quả của các pháp bao gồm
có sáu nhân, bốn duyên và năm quả. Sáu nhân này được gọi là nhân năng tác, nhân
câu hữu, nhân tương ưng, nhân đồng loại, nhân biến hành, nhân dị thục. Năm quả
chính là quả tăng thượng, quả đồng thời, quả đẳng lưu, quả dị thục, quả ly hệ.
Bốn duyên chính là thân nhân duyên, đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên và tăng
thượng duyên. Tuy nhiên, đối với “nhân”, chúng ta đã trình bày khá rõ như trên
đã bàn luận đến trong quá trình lý giải về
sự đắc thất của vạn pháp. Hơn nữa, điểm chính của tiêu đề này chúng ta
chỉ nhấn mạnh vào sự thực của vũ trụ quan theo cách nhìn của phật giáo dựa trên
học thyết duyên sanh mà trong đó yếu tố “duyên” là cốt lõi để thúc đẩy quá
trình hình thành thế giới, nên không mổ xẻ rộng cũng như giải thích cặn kẻ các
yếu tố khác. Bây giờ chúng ta tìm hiểu
rỏ bốn duyên này để thấu triệt vũ trụ vạn hữu.
Thân nhân duyên tức là nguyên nhân chủ chốt. Nếu căn cứ vào
tâm pháp hay tinh thần mà nói, thì tất cả hành vi của thân miệng ý thuộc về ý
niệm đều được gọi là nghiệp. Nếu dựa vào tâm pháp để giải thích, thì nghiệp
chính là nguyên nhân của sự biến hóa lưu chuyển. Nếu căn cứ vào sắc pháp tức
vật chất mà nói, thì như đất đá là nguyên nhân chủ yếu của núi đồi.., hoặc hạt
giống là nguyên nhân chủ yếu của cây cỏ..
Đẳng vô gián duyên chỉ thích ứng áp dụng cho tâm pháp (tinh
thần) như vọng tâm của con người khởi lên từng giây từng phút không bao giờ
dừng nghỉ, tuôn chảy trong từng sát na sanh diệt. Khi niệm trước diệt vong thì
niệm sau liền sanh khởi với tác dụng sanh diệt tương tục không gián đoạn.
Sở duyên duyên là chỉ cho tâm phân biệt và dối tượng phân
biệt trong mọi lúc mọi nơi mang tính cách tương đối. Đối tượng hay tướng bị
duyên chính là trợ duyên khiến tâm phát khởi phân biệt.
Tăng thượng duyên là chỉ cho tất cả tâm pháp (tinh thần) và
sắc pháp (vật chất). Đây chính là tác dụng của chiều thuận và chiều nghịch có
ảnh hưởng sâu rộng đến thế giới nội tại và thế giới hiện tượng. Nếu căn cứ trên
sắc pháp mà nói, thì chỉ cần có thân nhân duyên và tăng thượng duyên là có thể
sanh kết quả đối với một sự vật nào đó. Tuy nhiên, nếu kết hợp cả sắc pháp và
tâm pháp để bàn luận, thì phải có đủ bốn duyên mới đem lại kết quả hiện hữu của
sự vật. Như vậy, chúng ta có thể biết rõ luật nhân quả có ba nguyên tắc. (1)
Quả do nhân sanh ra, nghĩa là không có nhân thì không có quả và nếu có nhân thì
chắc chắn phải sanh ra kết quả. (2) Sự nương vào lý để biến hiện, nghĩa là sự
sanh diệt của các pháp luôn luôn có sự chi phối của nhân quả, nhưng trong nhân
quả vẫn có lý tánh tồn tại phổ biến. Nếu có nhân thì tất nhiên phải có quả, đó
là nguyên lý bất dịch, cũng như có sanh thì phải có chết, có thành thì có diệt,
đều là nguyên tắc tự nhiên. (3) Cái có nương vào cái không để thiết lập, nghĩa
là tất cả các pháp đều nương vào bản tính của thực tại phủ định để hình thành.
Cũng như nói hể có tồn tại thì điều đó đều bắt nguồn từ không tồn tại. Cái có
được thiết lập từ cái không. Trong luật
nhân quả, còn có các điểm quan trọng cần phải chú ý như sau. (1) Trong luật
nhân quả không có nhân đầu tiên và không có quả sau cùng. Vì nhân trước đã hàm
chứa nhân nên nó là nhân vô thủy, và vì quả sau lại có quả nên nó trở thành vô
chung. Điều này cũng giống như cha là nhân của con, tuy nhiên, vì cha lại có
cha cho nên cha cha có sự kết nối từ vô thủy, con lại có con nên con con tiếp
nối vô chung. (2) Trong luật nhân quả, có sự tương đối giữa nhân và quả chứ
chẳng phải mối quan hệ tuyệt đối. Giống như hạt bông là nhân của bông hoa, và
bông hoa chính là quả của hạt bông. Khi bông hoa hiện hình tức là nhân của y
báo. Điều này như dịch học của Trung Quốc trên lãnh vực thiên can vì có nhân
“giáp” nên có quả “ất”, và “ất” trở thành quả của “giáp”. Từ “ất” lại sản sanh
ra “bính” tức “ất” trở thành nhân của “bính”. (3) Nhân quả thông cả ba đời: ba
đời ở đây không phải chỉ cho kiếp trước, kiếp này và kiếp sau, mà ba đời chính
là chỉ cho thời gian quá khứ, hiện tại và tương lai. Bởi vì nhân không tự diệt
mất, cho nên bất luận thời gian dài hay ngắn, nếu gặp duyên thì sẽ khởi hiện
hành. (4) Bản chất của nhân quả vốn là một: nếu có nhân năng sanh thì phải có
quả sở sanh; nếu có quả năng sanh thì phải có nhân sở sanh. Nếu căn cứ vào sắc
pháp mà bàn luận, thì trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu. Hạt đậu không thể
trưởng thành sinh ra mầm dưa, và ngược lại, hạt dưa không thể sinh trưởng thành
mầm đậu. Còn căn cứ vào tâm pháp để nói, thì tự tạo nhân, nhất định phải nhận
lấy quả. Nhân thiện không sanh ra quả ác và quả ác không xuất phát từ nhân
thiện, chúng hoàn toàn không vay mượn lẫn nhau.
Trong kinh Phật, có một bài kệ nói rõ nguyên tắc căn bản của
nhân quả như sau:
Giả sử trăm ngàn kiếp
Chổ tạo nghiệp không mất
Khi nhân duyên hội tụ
Tự nhận lấy quả báo
Bài kệ trên nêu lên ý nghĩa nghiệp nhân không diệt; bất luận
thời gian lâu hay mau, một khi gặp duyên thì sanh khởi hiện hành; tự tạo nghiệp
thì tự nhận lấy quả báo.
Trong vũ trụ vạn hữu, mọi sự vật đều có nhân quả rõ ràng.
Nhân quả của tâm và vật đều được phân định rõ rệt. Giống như hoàn cảnh vật chất
khiến con người có cảm thọ khổ vui. Nếu sống trong môi trường với điều kiện đầy
đủ thì thân tâm vui thích, còn thiếu thốn đói khát thì thân tâm sanh khởi bệnh
khổ, nhưng nhân quả của tâm và vật chất không phải dể dàng nhận biết. Tuy
nhiên, tâm làm nhân gây ảnh hưởng đến vật chất là điều đã hình thành trong quy
luật nhân quả. Nhân quả của tâm pháp thực sự rất khó hiểu, nhưng nếu khởi tâm
động niệm, thì tất cả đều trở thành nghiệp nhân. Chính tâm là nguyên nhân gây
ra nghiệp quả trong vạn hữu vũ trụ này. Một khi tâm dấy khởi thì mọi hiện tượng
theo biến động mà hình thành. Địa ngục hay cực lạc cũng do tâm tạo tác. Tâm
sanh khởi khiến thân hoạt động để tạo ra nghiệp quả. Nghiệp này được phân thành
hai lãnh vực là thiện và ác, nhưng đều hiện hữu trong tám thức. Chính nghiệp
thiện và nghiệp ác chi phối tất cả chúng
sanh thăng trầm trong sáu nẻo luân hồi. Nhân quả này tuy người đời không dể gì
hiểu hết, nhưng quả do nhân sanh, sự đợi lý thành, tự nhân tự thọ nhận, rốt
cuộc hoàn toàn không sai khác. Cũng như trong nhân gian có câu: “thiện có thiện
báo, ác có ác báo, chứ không phải không có báo ứng, mà vì thời gian chưa đến đó
thôi”. Câu nói này tuy mang tính thông tục nhưng rất là chí lý.
4. Tâm và vật không hai trong duyên sanh.
Chúng ta dựa vào năm uẩn thế gian mà nói đến các pháp do
duyên sanh, dựa vào các pháp do duyên sanh mà nói đến luật nhân quả của vạn
hữu. Nói một cách rốt ráo, thế giới quan của phật giáo nếu căn cứ trên mặt bản
chất để trình bày, thì chẳng phải duy tâm luận, cũng chẳng phải duy vật luận,
mà cả hai đều hợp nhất không thể chia chẻ, tâm và vật không hai, năm uẩn thế
gian đều đồng nhất thể viên dung, như nói: “thức duyên danh sắc, danh sắc duyên
thức”. Thức là thức có mặt trong danh sắc, và danh sắc là danh sắc có mặt trong
thức. Thức và danh sắc luôn luôn dung hòa chuyển hoán cho nhau trong một trình
tự hợp lý. Chúng thường liên hệ mật thiết không thể tách rời và giao biện với
nhau trên bề mặt hiện tượng cũng như trong sâu thẳm của thế giới nội tại.
Nếu căn cứ trên sự hình thành của các pháp mà nói, thì đó
chẳng phải là cơ giới luận, cũng chẳng phải mục đích luận, mà là nhân quả tương
tục; chủ và tớ tương quan, trùng trùng hiện khởi, tương quan tương duyên. Nếu
đứng trên kết quả để nhìn nhận, thì đó là “nhân duyên sanh các pháp”, còn dựa
vào nguyên nhân để quán sát, thì đó là “vạn pháp do nhân duyên sanh”, nghĩa là
do nhân duyên hòa hợp mà có thế giới. Nếu căn cứ vào nguyên tắc vận hành của vũ
trụ vạn hữu mà nói, thì hoàn toàn không có chủ tể hay thượng đế, cũng không có
qủy thần chi phối, mà là quả do duyên sanh, sự đợi lý thành, nghiệp nhân không
diệt, tức là các pháp phải tuân theo luật nhân quả với phương châm tự tạo
nghiệp thì tự nhận lấy quả báo. Nói chung, thế giới quan của phật giáo có thể
nói là tâm vật không hai, nhất thể viên dung, trực tiếp từ nhận thức luận làm
phát sinh nhân duyên sanh quan.
5. Ba ngàn đại thiên thế giới[13].
Theo phật pháp, thế giới được chia làm hai loại, đó là hữu
tình thế gian và khí thế gian. Hữu tình thế gian được gọi là chánh báo, tức là
do nghiệp nhân mà cảm lấy chánh quả. Hữu tình là chỉ cho các chúng sanh có tình
thức qua sự kết hợp của nhục thể và tinh thần. Khí thế gian còn được gọi là y
báo, tức nơi chốn để hữu tình chúng sanh nương ghá sinh sống. Khí thế gian là
chỉ cho sông núi, đất đai, cây cỏ hoa lá v.v
Hữu tình thế gian bao gồm sáu nẻo[14], đó là địa ngục, ngạ
quỷ, súc sanh, cỏi trời, cỏi người và A-tu-la. Chúng sanh trong sáu nẻo này,
theo phật giáo, tồn tại ở ba cỏi[15] là dục giới, sắc giới và vô sắc giới. Dục
giới giới là cảnh giới mà trong đó các chúng sanh thường có những ham muốn về
ăn uống, ngủ nghỉ và quan hệ nam nữ. Sắc giới là cảnh giới mà trong đó các
chúng sanh chỉ có hình sắc thù thắng chứ không ham muốn ô nhiểm. Vô sắc giới là
cảnh giới mà trong đó chúng sanh tồn tại với tinh thần thuần túy, chứ không
vướng vào hình sắc cũng như mọi ham muốn.
Trong kinh Phật nói ba cõi lấy núi Tu Di làm trung tâm, nên
gọi chung là cảnh giới Tu Di. Do lấy núi Tu Di làm trung tâm, nên chẳng phải
chỉ riêng cho một thế giới nhỏ bé nào đó, mà là biến khắp cả hư không. Nếu gom
một ngàn thế giới nhỏ lại, như vậy, được gọi là “tiểu thiên thế giới”. Nếu gom
một ngàn tiểu thiên thế giới lại, thì gọi đó là “trung thiên thế giới”. Nếu gom
một ngàn trung thế thế giới lại, thì gọi đó là “đại thiên thế giới”. Vì trong
ba luân chuyển với con số ba ngàn, cho nên gọi là ba ngàn đại thiên thế giới.
Ba ngàn đại thiên thế giới vốn chẳng phải một, mà là vô biên vô số cảnh giới
tồn tại trong không gian của vũ trụ. Do đó, trong kinh Phật nói “mười phương vi
trần thế giới”, hoặc “mười phương hằng sa thế giới”. Sự phát triển của thiên
văn học trong thời cận đại đã chứng minh rằng trong hư không có nhiều hành tinh
khác biệt không thể tính hết, nhờ đó, chúng ta biết chắc trong kinh phật nói
không có sai lầm. Từ đây, chúng ta xây dựng niềm tin vững bền vào phật pháp.
Nếu căn cứ vào không gian mà nói, thì thế giới là hư không
vô tận, thế giới vô tận; nếu dựa vào thời gian để bàn luận, thì thế giới là một
chuổi dài từ vô thủy đến vô chung. Tuy nhiên, nếu đứng trên luật nhân quả để
nhìn về, thì thế giới là một chuổi nhân quả tương tục, nghĩa là nhân trước tiếp
nối nhân sau, quả sau lại tiếp nối quả kéo dài từ vô thủy đến vô chung trong
thời gian của vô tiền khoáng hậu. Nhưng nếu căn cứ vào một phương diện khác mà
nói, thì thế giới có sanh tức có diệt, có thành tức có hoại, do vậy, thế giới
này mới có bốn thời kỳ: thành, trụ, hoại và không. Thành, trụ, hoại, không này
là một vòng tuần hoàn vô tận trên mặt thời gian, là vòng xoáy từ vô thủy đến vô
chung. Bốn phạm trù này cũng được gọi là bốn kiếp, tức là kiếp thành, kiếp trụ,
kiếp hoại và kiếp không.
Kiếp thành chính là thời kỳ mà thế giới được tạo thành khi
nhân duyên kết tụ đầy đủ. Kiếp trụ là thời kỳ hữu tình chúng sanh an trú. Kiếp
hoại là thời kỳ hoại diệt của thế giới chúng sanh. Kiếp không là thời kỳ tan rả
hoàn toàn của thế giới. Sau khi tan rả, thế giới lại đi vào kiếp thành trở về
điểm ban đầu, và cứ thế xoay vần vô cùng vô tận.
Theo quan điểm của phật giáo, thời gian một kiếp chính là
quá trình thành, trụ, hoại, không của thế giới, tức một chu kỳ như vậy là một
đại kiếp. Đây là một thời gian lâu dài trong đời sống của chúng sanh. Từ đại
kiếp trở xuống tạo nên vòng xoáy của thành, trụ, hoại, không là một trung kiếp.
Mỗi một trung kiếp bao hàm mười hai tiểu kiếp. Thời gian của một tiểu kiếp là
tám vạn bốn nghìn năm.
Như vậy, không gian vô biên vô cùng, thời gian vô thủy vô
chung, chúng sanh vô lượng vô số đều nương vào luật nhân quả để tồn tại. Sự
sanh diệt biến dị vô cùng vô tận chính là thế giới mà trong kinh đức Phật đã
nói tới. Thế giới này tuy bao la vô cùng, nhưng nó bị chi phối bởi luật sanh
diệt tương tục trong hệ thức nhân quả. Hệ thức nhân quả bao trùm lên cả không
gian và thời gian trong thế giới chúng sanh. Mọi khái niệm về hiện tượng giới
cũng bị luật nhân quả chi phối một cách có thứ tự. Thế giới mà chúng ta đang
sống cũng không ngoại lệ, nó biến hoại theo từng sát na sanh diệt dưới sự chiếu
soi của luật nhân quả.
[1] Ngã chấp: Chấp chặt vào nhận thức có thân mình tồn tại ,
nghĩa là chấp trước vào cái ta. Ngã chấp này cũng được gọi là ‘nhân chấp”. Nhân
chấp nghĩa là chấp trước vào con người gây nên khổ đau trong đường sanh tử.
Trong Duy Thức Thuật Ký nói: “phiền não khổ chướng có rất nhiều thứ, nguồn gốc
của nó xuất phát từ sự chấp trước vào cái ta”. Trong Thành Duy Thức Luận nói:
“Chấp ngã có hai thứ: một là câu sanh ngã chấp. Loại này phải được đoạn trừ ở ngôi
tu đạo. Hai là phân biệt ngã chấp. Loại này phải được đoạn trừ ở bậc kiến đạo.
Hai loại ngã chấp này gây nên hạt giống khiến cho các loại hữu tình phân biệt
mình và người khác nhau”.
[2] Pháp chấp: Cố chấp với ý niệm hư vọng cho rằng ở ngoài
tâm có thực pháp hữu vi và vô vi tồn tại. Người tu theo tiểu thừa, tuy đã dứt
bỏ được sự mê chấp về ngã, nhưng chưa lìa bỏ được sự mê chấp về pháp. Đến địa
vị Bồ-tát, ý niệm chấp pháp từ từ được lìa bỏ. Luận Bồ Đề Tâm nói: “người theo
đạo Nhị thừa, tuy đã phá vở được sự mê chấp về con người, nhưng còn mê chấp về
pháp.”. Sự mê chấp này khiến chúng sanh không nhận rõ thực tướng không của các
pháp nên thường bám víu một cách cố hữu
khiến sanh tử luân hồi trong biển khổ sanh tử.
[3] Ngũ ấm: Tiếng phạn là Skadas, Trung Hoa dịch là ngũ ấm
hay ngã uẩn. Ngũ ấm có hai nghĩa: ấm phú tức là che lấp, và ấm tích tức là tích
tụ. Nũa ấm này chánh là năm yếu tố cần thiết tạo nên thế giới vũ trụ. Năm yếu
tố ấy là sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Sắc: chỉ chung cho mọi thứ vật chất hữu hình
tồn tại trong thế giới này. Thọ: chỉ cho tác dụng cảm thọ sự vật của tâm đối
với trần cảnh. Tưởng: chỉ cho tác dụng
tưởng tượng sự vật của tâm đối với trần cảnh. Hành: chỉ cho tác dụng về
mọi hành động thiện, ác như tham sân .v.v đối với trần cảnh hay hoàn cảnh khách
quan. Thức: bản thể hiểu biết phân biệt sự vật của tâm đối với trần cảnh. Nếu
căn cứ vào một hữu tình mà suy xét, thì “sắc” tức là thân, còn bốn uẩn khác tức
là tâm. Trong tâm, ba uẩn: thọ, tưởng, hành có một tác dụng đặc biệt dược gọi là
“tâm sở hữu pháp”, tức pháp sở hữu của tâm vương. Còn thức là tự tánh của tâm
nên được gọi là tâm vương. Như vậy, năm uẩn tức là hai pháp: thân và tâm, như
các loài hữu tình có thân ở cõi Sắc và cõi Dục đều do năm uẩn tạo thành; các
loài hữu tình không có thân ở cảnh giới Vô Sắc đều do bốn uẩn kia (thọ, tưởng,
hành, thức) tạo thành. Trong kinh Tăng Nhất A Hàm, quyển 27, nói: “sắc như bọt
nước tụ lại, thọ như bong bóng nổi phập phòng, tưởng như hơi nước bốc lên, hành
như cây chuối, thức như huyển pháp”. Trong kinh Ngũ Uẩn Thí Dụ, do An Thế Cao
dịch vào đời Hậu Hán, nói: “Sắc như đóng bọt do gió thổi nước mà thành, nên thể
tướng của nó không có thật. Thọ như bọt nước có rồi mất ngay, thông thường niềm
vui và nổi khổ của chúng sanh cũng như vậy. Tưởng như ánh nắng nơi cánh đồng xa
do phản chiếu ánh mặt trời mà trông như là mặt nước làm cho người khát thèm
uống hoặc những hình ảnh mà chúng sanh nhớ lại. Tất cả những cái đó chỉ là hư
ảo. Hành như cầy chuối trong ốp không thật, mọi hành vi tạo tác của chúng sanh
cũng như vậy. Thức như trò huyển thuật giả tạo tạo ra người và vật không có
thực thể. Tùy theo cảnh mà thức tâm chúng sanh nảy sinh mọi sự phân biệt các
pháp, đó là trò dối không thật”.
[4] Nhân Duyên: Một vật sinh ra, cái gì đích thân tăng cường
lực sống cho nó thì gọi là nhân; cái gì thúc đẩy nó phát triển thì gọi là
duyên. Ví dụ hạt giống là nhân, còn mưa móc, người nông dân v.v là duyên. Nhân
duyên đó hòa hợp thì sinh ra lúa gạo. Trong Lăng Nghiêm Kinh Sớ (Trường Thủy
biên soạn) nói: “phật iaos lấy nhân duyên làm tông, vì thánh giáo của đức Phật
từ cạn đến sâu đều nói các pháp không ngoài hai chữa nhân duyên”. Kinh Duy Ma nói: “La Thập nói: lực mạnh là
nhân, lực yếu là duyên”. Tăng Triệu nói: “trước sau tương sinh đó là nhân; hiện
tương trợ thành đó là duyên. Các pháp cần phải có nhân duyên kết hợp lẫn nhau
mới thành lập được”. Nhân duyên còn là một trong mười hai bộ kinh, được dịch
ngĩa từ thuật ngữ Nidana của tiếng Phạm như trong Đại Trí Độ Luận nói “Nidana
là nhân duyên bản khởi của các pháp. Đức Phật vì nhân duyên gì mà thuyết sự
việc đó? Có người hỏi nên thuyết sự việc đó. Trong Tỳ-ni, có người phạm giới đó
nên kết giới đó. Mọi sự duyên khởi lên lời phật dạy đều gọi là Nidana”.
[5] Xá Lợi Phất: Tiếng Phạm là Sariputra, Trung Hoa dịch là
Xá Lợi Phất. Xá Lợi Phất còn được gọi là Xá-lị-phất-đa, hay Xá-lị-tử. Còn có
một cách dịch khác là Xá-lị-phất-đa-la, hoặc Xá-lị-phú-đa-la, hay
Xá-lị-bồ-đát-la. Xá-lị là tên mẹ. Phất hay Phất-đa hoặc Phất-đa-la là tên gọi
tắt, nghĩa là con của bà Xá-lị. Do vậy, nên gọi là Xá-lị tử. Hơn nữa cha của
ngài tên là Ưu-bà-đề-xá, nên đôi lúc người ta cũng gọi tên ngài là Ưu-bà-đề-xá.
Trong Kinh Pháp Hoa Huyền Tán (quyển 1) nói: “Xá-lị là chim thu, tức chim Bách
thiệt, cũng gọi là Xuân cù. Phất-đát-la có nghĩa là con. Đem tài biện luận giỏi
của người mẹ ví như chim thu. Xá-lị-phất là con của bà ấy, đem mẹ để làm rỏ con
cho nên gọi là Thu tử. Còn gọi là Ưu-bà-đề-xá, vì có tài biện luận cho nên gọi
như thế”. Ngài Xá Lợi Phất sinh ra ở nước Nalada. Theo sử liệu ghi chép, khi
mang thai ngài, mẹ ngài trở nên thông minh tuyệt vời, biện luận đạo lý và giảng
kinh hay hơn cả cha ngài và cậu ngài là những học giả nổi tiếng đương thời. Sau
khi ra đời, ngài trở nên thông minh xuất chúng, biện luận đạo lý và giảng kinh
Bà-la-môn hay hơn cả cha của mình. Ngài kết bạn với Mục Kiền Liên và hai người
đã cùng nhau đi tìm thầy học đạo. Khi đến thành Vương Xá hỏi đạo lý với sáu vị
danh sư, nhưng không lấy làm thỏa mãn, nên hai ngài bèn đến thọ giáo với San-xà-đa, một trong những đạo sĩ nổi
tiếng đương thời. Tuy nhiên, trước khi qua đời, San-xà-đa đã bảo hai ngài đến
gặp Thích Ca Mâu Ni để học đạo. Nhân duyên hội tụ, dọc đường di, hai ngài gặp
được Tỳ-kheo Mã Thắng. Sau một lúc trò chuyện qua lại, Mã Thắng đã đọc kệ “các pháp do duyên sanh,
các pháp do duyên diệt, thầy tôi Đại Sa-môn, thường nói như thế đó”. Nghe xong
bài kệ này, hai ngài thoát nhiên liễu ngộ và cùng nhau quyết định đến gặp đức
Phật. Sau khi xuất gia theo Phật, cả hai tinh tấn tu tập và chẳng bao lâu đã
chứng đắc quả vị A-la-hán, trở thành một rong đệ tử bậc nhất của đức Phật. Kinh
Tăng Nhất A Hàm (quyển 1) nói: “trí tuệ vô cùng, giải quyết mọi nghi ngờ, đó là
Tỳ-kheo Xá Lợi Phất”. Trong phẩm Thọ Ký của kinh Pháp Hoa, đức Phật đã thọ ký
cho Xá Lợi Phất sẽ thành Phật với danh hiệu Hoa Quang an trú ở cõi nước Ly Cấu.
[6] Mã Thắng: Còn được gọi là Mã Sư, là một trong năm vị tỳ
kheo theo hầu đức Phật khi ngài mới xuất gia. Ngài có phong thái đoan chánh uy
nghi, như người thầy hướng dẫn đạo lý cho mọi người. Theo sử liệu, có một lần
Mã Thắng cùng các vị tỳ kheo vào thành Vương Xá để khất thực, một vị trưởng giả
nhìn thấy tướng mạo đoan nghiêm của Mã Thắng, ông ta liền phát tâm xây dựng
ngôi tăng xá bao gồm 60 phòng để dâng cúng cho tăng đoàn.
[7] Mục Kiền Liên: Tiếng Phạm là Maudgalyayana, Trung Hoa
dịch là Mục Kiền Liên, là một vị Tỳ-kheo nổi tiếng với thần thông đệ nhất trong
hàng đệ tử của đức Phật. Trong kinh Pháp Hoa và kinh A Di Đà, đức Phật thường
gọi ngài là Đại Mục Kiền Liên, hay Ma-ha Mục Kiền Liên. Ngài còn được gọi là
Mục Liên, Ma-ha Một-đặc-già-la, hay Một-đặc-già-la-tử. Đây là họ của ngài, được
dịch là Đại Tán Tụng, Đại Lai, hay Phục Căn, hoặc Đại Hồ Đậu, Đại Thái Thục
.v.v Lúc đầu ngài cùng với Xá Lợi Phất đều là lục sư ngoại đạo tinh thông giáo
học. Tuy đã quản lý một trăm đệ tử, nhưng trong lòng vẫn có những vương vấn bất
an. Ngài bèn giao ước với Xá Lợi Phất nếu ai giải thoát trước thì nói cho nhau
biết. Nhân đó cả hai ngài đều tinh tấn tu hành. Một hôm Xá Lợi Phất vào thành Vương
Xá gặp được Mã Thắng và sau khi nghe kệ
nhân duyên, Xá Lợi Phất hốt nhiên đại ngộ. Sau đó, Xá Lợi Phất đến tinh xá Trúc
Viên nghe Phật giảng pháp, và trực ngộ nhãn tịnh. Xá Lợi Phất không quên lời
hứa bèn quay về nói cho Mục Kiền Liên biết và hai ngài đã trở thành đệ tử đắc
lực của đức Phật. Mục Kiền Liên là một trong mười đại đệ tử của Phật với danh
hiệu Thần thông đệ nhất.
[8]Khí thế gian: Nơi mà chúng sanh nương ghá để sinh sống.
Khí thế gian tức là thế giới y báo, nơi sinh sống của hữu tình. Tiểu thừa Đại
thừa đều nói đến mười phương thế giới, vô số vô lượng. Luận Đại Trí Độ 4 nói:
Thế giới trải khắp mười phương nhiều vô số lượng, nhưng không lộn vị trí, bởi
nghiệp lực của hữu tình mà sự khu hoạch khác nhau. Chỉ một khu vực cũng đủ rộng
lớn vô cùng. Có thể chia ra ba hạng: Tiểu thiên thế giới, gọi chung là Tam
thiên Đại thiên thế giới.
Cứ một mặt trăng mặt trời hay một thái dương hệ với ánh sáng
chiếu khắp các cõi các châu ở cõi Dục, cho đến Sơ thiền ở cõi Sắc, trong chu vi
đó gọi là một thế giới. Gồm 1.000 thế giới gọi là Tiểu thiên thế giới. Gồm
1.000 Tiểu thiên thế giới gọi là một Trung thiên thế giới. Gồm 1.000 Trung
thiên thế giới gọi là một Đại thiên thế giới. Đại thiên thế giới này là Tam
thiên Đại thiên thế giới. Đây là phạm vi hóa độ của một đức Phật (Phật sát).
Theo nhã ngữ gọi là Ta-bà thế giới, Kham nhẫn. Kinh Bi Hoa nói, chúng sanh ở
đây nhẫn chịu ba độc tham, sân, si và sự thống khổ nên gọi là nhẫn độ. Các
Bồ-tát hành đạo tại đây gặp nhiều sự oán ghét, bức não khó nhọc phải nhẫn chịu
lướt qua, nên gọi Kham nhẫn.
Theo kinh Tăng Chi 1 (bản Việt) chép, một mặt trăng, một mặt
trời đến cõi Phạm thiên gọi là một thế giới. 1.000 thế giới cộng lại thành một
Tiểu thiên, 1.000 Tiểu thiên thế giới cộng lại thành một Trung thiên, 1.000
Trung thiên cộng lại thành một Đại thiên, tức Tam thiên Đại thiên thế giới. Như
Lai có thể làm cho tiếng mình được nghe xa khắp Đại thiên thế giới, hay xa hơn
nữa, nếu muốn. Tại sao vậy? Như Lai chiếu ánh sáng cho đến 3.000 Đại thiên thế
giới, cho đến khi nhận thức được ánh sáng ấy, rồi Ngài mới phát âm làm cho
tiếng mình được nghe. (Theo Khuy Cơ, phạm vi cõi Dục mới bằng một Sơ thiền,
1.000 Sơ thiền mới bằng một Nhị thiền, 1.000 Nhị thiền mới bằng một Tam thiền,
1.000 Tam thiền mới bằng một Tứ thiền. Đây gọi là một Tam thiên Đại thiên thế
giới).
[9] Hữu tình thế gian: Chỉ cho tất cả chúng sanh có tình
thức sống trong thế giới này. Lại nữa,
chúng ta có thể giải thích cặn kẻ như sau: Thế gian, thế là đời, trải quá khứ,
hiện tại, vị lai, lưu chuyển biến hoại. Gian là trong, những gì lọt vào trong
vòng luân chuyển, biến hoại thì gọi là thế gian. Loài hữu tình là căn thân
chánh báo của chúng sanh và vũ trụ thế giới là y báo, chỗ nương dựa của chúng
sanh, tức là khí, khí cụ, đều ở trong vòng lưu chuyển biến hoại, nên gọi là hữu
tình và thế gian .
Đây trước nói về hữu tình thế gian, như đã biết hữu tình
trong ba cõi, bốn loài, sáu đường khác nhau nhưng đều ở trong vòng luân hồi,
sanh tử, sanh rồi chết, chết rồi sanh qua bốn giai đoạn hữu, là tử hữu, trung
hữu, sanh hữu, bản hữu, rồi lại tử hữu, trung hữu v.v...
Xét đến bốn giai đoạn hữu nơi nhân loại như sau sẽ rõ:
Tử hữu: Là giai đoạn con người do phiền não nghiệp đời trước
chiêu cảm lấy quả báo thân đời nay, sống cho đến sát na cuối cùng, xả bỏ báo
thân.
Trung hữu: Là giai đoạn sau khi xả bỏ báo thân cho đến khi
đủ duyên đầu thai, sự hiện hữu của hữu tình giữa khoảng thời gian đó, gọi là
trung hữu. Song đối với vấn đề trung hữu này, Đại chúng bộ và Hóa địa bộ không
thừa nhận có. Vì họ dựa theo kinh chỉ nói đến " thuận tam thọ
nghiệp", chứ không nói đến trung hữu nghiệp và kinh cũng chỉ nói đến hữu
tình Dự lưu chỉ phải trải bảy phen sanh (bảy hữu) là chứng A-la-hán chứ không
nói đến trung hữu. Trái lại Tát-bà-đa-bộ thì dẫn kinh và lý để chứng minh có
thân trung hữu. Kinh nói: Có năm quả vị Bất hoàn (trong đó có Trung ban Bất
hoàn) và kinh cũng nói: "Khi nhập thai có ba sự hiện hữu là tinh cha,
huyết mẹ và Càn-thạc-phước, Tát-bà-đa còn chủ trương thân trung ấm của loài
người cỡ như con nít năm sáu tuổi, đủ cả sáu căn nhưng vì đó là tịnh sắc cực vi
tế, mắt thịt không thấy được, chỉ có thiên nhãn cực tịnh và những hữu tình cùng
ở giai đoạn trung hữu mới trông thấy được. Và thời gian tồn tại của thân trung
hữu cũng có bốn nhà chủ trương khác nhau: Tỳ-bà-sư cho rằng nó chỉ có trong
khoảnh khắc, chết liền đầu thai. Luận sư Thế Hữu cho rằng nó tồn tại lâu nhất
bảy ngày. Luận sư Thiết-mat-đạt-đa cho rằng nó có thể tồn tại trong bảy bảy bốn
mươi chín ngày. Còn Luận sư Pháp Cứu thì cho rằng không nhất đ?nh vì tùy theo
nhân duyên thọ sanh bất thường. Do nghiệp lực rất mạnh thúc đẩy trung hữu đáng
thọ sanh vào loài người thì hội đủ duyên liền sanh vào loài người, trung hữu
đáng thọ sanh vào loài súc thì hội đủ duyên liền sanh vào loài súc.
Sanh hữu là giai đoạn từ trung hữu chết, do vọng tưởng khởi
lên tâm ái dục hoặc sân nhuế đối với cha mẹ, liền đầu thai, hay gọi là kiết
sanh. Chính ngay ở giây phút kiết sanh này gọi là sanh hữu.
Bản hữu: Chỉ thời gian từ sanh hữu cho đến tử hữu, chấm dứt
một đời. Về thân bản hữu này có chia hai giai đoạn là giai đoạn ở trong thai và
giai đoạn ra ngoài thai. (Đại Cương Về Luận Câu Xá, do Hòa Thượng Thích Thiện
Siêu biên soạn).
[10] Duyên Khởi: Chỉ cho sự vật đều nhờ vào duyên mà nảy
sinh và tồn tại, nghĩa là tất cả các pháp hữu vi đều sinh ra từ duyên. Trung
Luận Sớ (quyển 10) nói: “Duyên khởi là cái thể tính có thể khởi lên, rồi chờ
duyên mà nảy sinh ra nên gọi là duyên khởi”. Trong phẩm Phương Tiện của kinh
Pháp Hoa nói: “hạt giống Phật theo duyên mà nảy sinh”. Tất cả các pháp đều do
duyên sinh, cũng do duyên mà diệt mất. Đây là một chân lý tối diệu rất khó nghĩ
bàn. Bằng hình tượng cụ thể mà nói thì chúng ta thấy mọi sự vật hiện tượng
trong vũ trụ sinh diệt, diệt sinh luôn đi theo một nguyên lý nhất định. Nguyên
lý ấy chính là Duyên khởi. Đây là điểm khởi nguyên cho tiến trình giải thoát,
nếu ai chứng ngộ được nó thì người ấy đồng với Phật không khác. Bởi vậy, lúc
sắp thành đạo, khi sao Mai vừa mọc, thái tử Tất-đạt-đa ngồi dưới cội Bồ-đề đã
chứng ngộ quả vị Phật từ chân lý này; và từ đó mười hiệu Như lai, Ứng cúng,…
được trời người tôn xưng trong thế gian.
Không những nguyên lý ấy chỉ là đặc điểm cá biệt của sự
chứng ngộ của đức Phật Thích-ca Mâu-ni, mà còn là điểm chung về sự chứng ngộ
của lịch sử bảy đức Phật trong quá khứ. Thế nên, trong kinh có đoạn: “Thế Tôn
Tỳ-bà-thi(Vipassi) và sáu Thế Tôn tiếp theo Thế Tôn Tỳ-bà-thi đến Thích-ca
Mâu-ni và cả chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Bồ-đề bằng giáo lý Duyên khởi”
Vậy tại sao giác ngộ duyên khởi là giác ngộ tối thượng, nếu
không muốn nói là giác ngộ “pháp nhĩ như thị” (pháp vốn như vậy)? Câu trả lời
đơn giản nhất là Duyên khởi nói lên thực tính của các pháp. Thực tính ấy chính
là duyên sanh tính hay vô ngã tính. Từ đó, chúng ta có thể khẳng định rằng: “Ai
thấy duyên khởi là thấy pháp, ai thấy pháp là thấy Phật, tức thấy Phật là chứng
ngộ quả vị tối thượng. Đây chính là nền tảng thành lập hệ thống giáo lý Phật
giáo Bắc tạng cũng như Nam tạng.
Đi vào phân tích giáo lý duyên khởi, chúng ta thấy rõ vô ngã
tính của các pháp là giáo lý độc đáo nhất của Phật giáo, độc đáo nhất của lịch
sử tôn giáo và cả tư tưởng nhân loại.
Vậy duyên khởi là gì? Đức Thế Tôn định nghĩa: “Do vô minh có
hành sinh, do hành có thức sinh, do thức có danh sắc sinh, do danh sắc có lục
nhập sinh, do lục nhập có xúc sinh, do xúc có thọ sinh, do thọ có ái sinh, do
ái có thủ sinh, do thủ có hữu sinh, do hữu có sinh sinh, do sinh có lão sầu bi
khổ não sinh, hay toàn bộ khổ uẩn sinh. Đây gọi là duyên khởi (duyên sinh)”.
Do đoạn diệt tham ái vô minh một cách hoàn toàn nên hành
diệt, do hành diệt nên thức diệt,… lão tử sầu bi khổ não diệt. Như vậy là toàn
bộ khổ uẩn diệt.”
Khi mười hai nhân duyên sinh khởi thì đồng nghĩa với toàn bộ
khổ uẩn khởi; ngược lại khi mười hai nhân duyên diệt thì gọi là sự đoạn diệt,
tức đồng nghĩa với toàn bộ khổ uẩn đoạn diệt. Nguyên lý sinh diệt thuận nghịch
ấy gọi là duyên khởi, là sự thật về sự có mặt của các pháp đã được Thế Tôn xác
nhận: pháp duyên khởi ấy dù có Như Lai xuất hiện hay không xuất hiện thì nó vẫn
có sẵn; vì thế khi an trú vào giới tịnh ấy, pháp quyết định tính ấy, y duyên
tính ấy, Như Lai hoàn toàn chứng ngộ, chứng đạt chân lý ấy. Sau khi hoàn toàn
chứng ngộ, Như Lai đã tuyên thuyết, khai triển, khai thị phân biệt, minh hiển
minh thị cho chúng sinh, Ngài dạy: “Duyên vô minh, này các Tỳ-kheo có các hành,
v.v… Như vậy, này các Tỳ-kheo, đây là như tánh, bất hư vọng tính, bất dị như
tánh y duyên tính, này các Tỳ-kheo đây gọi là duyên khởi”. (Đại Cương Về Luận
Câu Xá, do Hòa Thượng Thích Thiện Siêu biên soạn).
[11] Sát na: Danh từ sát na (Khana) được dùng để chỉ thời
gian chớp nhoáng của mỗi biến đổi. Theo Abhidhamma Mahàvibhàsa (Đại Trí Luận)
những sự biến đổi của hiện tượng giới được giải thích một cách rõ ràng như sau:
"Vạn pháp luôn luôn biến đổi, không một vật gì có thể tồn tại trong hai
sát na liên tiếp". Một ngày 24 giờ được tính bằng sáu ngàn bốn trăm tỷ,
chín vạn, chín ngàn, chín trăm tám mươi sát na.
Vào thế kỷ thứ 5, Ngài Phật Âm (Buddhaghosa) đã viết trong
Visuddhimagga (Thanh Tịnh Đạo) như sau:
"Theo nghĩa rốt ráo, mỗi sát na của sự sinh tồn rất
ngắn ngủi, chớp nhoáng như một ý niệm phát khởi. Giống như một bánh xe, khi lăn
chỉ tiếp xúc với mặt phẳng tại một điểm, khi dừng cũng chỉ tựa trên một điểm,
cũng vậy mỗi sát na sinh tồn của chúng sanh chỉ tồn tại trong một tâm niệm, khi
tâm niệm chấm dứt, thì đời sống chúng sanh ấy cũng chấm dứt. Ở quá khứ, chúng
sanh ấy chỉ sống trong một tâm niệm quá khứ chứ không sống trong một tâm niệm hiện
tại và vị lai; trong hiện tại chúng sanh ấy chỉ sống trong một tâm niệm hiện
tại, không sống trong một tâm niệm quá khứ, vị lai; trong vị lai chúng sanh ấy
chỉ sống trong một tâm niệm vị lai chứ không sống trong tâm niệm quá khứ và
hiện tại."
12 Bốn giai đoạn: Thành, trụ, hoại, không. Bốn giai đoạn này
cũng dược gọi là bốn kiếp, tức kiếp thành, kiếp trụ, kiếp hoại và kiếp không.
Để hiểu rõ bốn giai đoạn hay bốn kiếp này, chúng ta có thể trình tự giải thích
như sau. 1.Kiếp-thành: Khi thế-giới đã
tiêu hoại, chỉ còn một khoảng hư không trống rỗng trải qua thời gian rất lâu
xa. Do nghiệp lực của chúng-sanh, bấy giờ từ nơi không gian bỗng nhiên biến
hiện ra áng mây to rộng che khắp một vùng bằng khoảng
Tam-thiên-đại-thiên-thế-giới. Kế đó lại có mưa to đổ xuống, mỗi giọt mưa lớn
như cái bánh xe. Cứ mưa như thế hết trận nầy đến trận khác. Do nghiệp
chúng-sanh, có nhiều trận mưa sai biệt: có cơn mây mưa lớn tên là Năng-Diệt,
làm cho tiêu tan những hơi nóng bức. Có cơn mây mưa lớn tên là Năng-Khởi, làm
cho nước dâng lên cao. Có cơn mây mưa lớn tên là Năng-Chỉ, làm cho nước lắng hạ
xuống. Có cơn mây mưa lớn tên là Năng-Thành, hay tạo thành chất ngọc ma-ni và
các thứ trân bảo. Có cơn mây mưa lớn tên là Phân-Biệt hay khu phân các vùng của
Đại-thiên-thế-giới. Mưa như thế trải qua ngàn muôn năm, nước lần lần dâng cao
đến cõi Phạm-Thiên. Trong khi mưa lại có bốn thứ gió to xen lẫn. Một là
Năng-Trì-phong-luân, thứ gió nầy duy trì khiến cho nước không tan rã. Hai là
Năng-Tiêu-phong-luân, thứ gió nầy làm cho nước tiêu bớt. Ba là
Kiến-Lập-phong-luân, thứ gió nầy làm cho các xứ sở được thành lập. Bốn là
Trang-Nghiêm-phong-luân, thứ gió nầy phân bố các xứ sở một cách thiện xảo.
Khi nước đã dâng lên cao đầy khắp cõi Đại-thiên, lại có
những hoa sen to lớn tự sanh ra che trải giáp mặt nước. Thứ hoa sen nầy có
1.000 cánh, tên gọi là Như-Lai-Xuất-Hiện-Công-Đức-Bảo-Trang-Nghiêm, chư thiên ở
cõi trời Tịnh-Cư trông thấy, bay xuống đếm xem được bao nhiêu hoa sen, liền
biết trong đại-kiếp nầy có bao nhiêu vị Phật ra đời. Sau khi hoa sen mọc ra
không bao lâu, bỗng có cơn gió lớn tên gọi A-Na-Tỳ-La, thổi nước xao động thành
những cụm bọt to đọng đặc lại. Kế tiếp lại có thứ gió tên gọi là
Thiện-Tịnh-Quang-Minh, gió nầy thành lập các Thiên-cung thuộc cõi Sắc. Trước
tiên cõi Tam-thiền được thành lập, thứ đến cõi Nhị-thiền, thứ nữa đến cõi
Sơ-thiền. Kế tiếp lại có thứ gió tên là Tịnh-Quang-Minh-Trang-Nghiêm, gió nầy
thành lập các cung điện của Không-cư-thiên thuộc cõi Dục. Kế tiếp lại có thứ
gió tên là Kiên-Mật-Vô-Năng-Hoại, gió nầy thành lập các Luân-Vi-Sơn lớn nhỏ và
Kim-Cang-Sơn. Kế tiếp lại có thứ gió tên Thắng-Cao, gió nầy thành lập các núi
Tu-Di. Kế tiếp lại có thứ gió tên là Bất-Động, gió nầy thành lập mười loại núi
lớn là: núi Khê-Đà-La, núi Tiên-Nhơn, núi Phục-Ma, núi Đại-Phục-Ma, núi Trì-Song,
núi Ni-Dân-Đà-La, núi Mục-Chơn-Lân-Đà, núi Ma-Ha-Mục-Chơn-Lân-Đà và Hương-Sơn,
Tuyết-Sơn. Kế tiếp lại có thứ gió tên là An-Trụ, gió nầy thành lập các miền đại
địa của Đại-thiên-giới. Kế tiếp lại có thứ gió tên là Trang-Nghiêm, gió nầy
thành lập các cung điện của Địa-cư-thiên, cung điện Long-vương và thần
Càn-Thát-Bà. Kế tiếp lại có thứ gió tên là Vô-Tận-Tạng, gió nầy thành lập tất
cả biển lớn của cõi Đại-thiên. Kế tiếp lại có thứ gió tên là
Phổ-Quang-Minh-Tạng, gió nầy thành lập các báu ma-ni của Đại-thiên-thế-giới. Kế
tiếp lại có thứ gió tên là Kiên-Cố-Căn, gió nầy thành lập tất cả các cây Như-Ý.
Như thế do nghiệp duyên của chúng-sanh không đồng, nên tự nhiên nổi lên những
thứ gió sai biệt để tạo thành các cõi sai biệt.
(Đoạn thành lập các núi trên đây là trích dẫn theo kinh
Hoa-Nghiêm) xin lược dẫn thêm một đoạn trong luận Du-Già-Sư-Địa để học giả so
sánh: Bấy giờ giữa hư không lại nổi lên các Giới-tạng-vân. Do những ánh mây
nầy, có nhiều thứ mưa to đổ xuống, nước mưa đều y trụ trên Kim-tánh-địa-luân.
Kế đó lại có gió mạnh khởi lên cổ động làm cho nước thành những chất đặc. Các
chất tinh diệu bậc thượng hợp thành núi Tu-Di. Núi nầy khi hoàn thành, thể chất
của nó là bốn thứ báu: vàng, bạc, lưu ly, pha lê. Những chất đặc bậc trung, kết
thành bảy núi vàng như: núi Trì-Song, núi Trì-Trục, núi Chiêm-Mộc, núi
Thiện-Kiến, núi Mã-Nhĩ, núi Tượng-Nhĩ, núi Trì-Địa. Bảy dãy núi nầy an lập theo
thứ lớp và đều vây quanh núi Tu-Di. Những chất đặc bậc hạ kết thành bốn
đại-châu, tám trung-châu, núi Thiết-Vi, cung điện của hàng Phi-thiên,
Long-cung, Tuyết-Sơn, bờ núi bao quanh A-Nậu-Trì, các chánh ngục, biên ngục, và
một phần biệt xứ của loài Ngạ-quỷ, Bàng-sanh. Cung điện của hàng Phi-thiên ở
dưới chân núi Tu-Di gần mé nước Long-cung ở rải rác theo các Hương-thủy-hải,
giữa bảy núi vàng. Trong các Long-cung nầy có tám đại Long-vương, thọ lượng
đồng một trụ kiếp. Tám Long-vương ấy là: Trì-Địa long-vương, Hoan-Hỷ
long-vương, Mã-Loa long-vương, Mục-Chơn-Lân-Đà long-vương, Ý-Mãnh long-vương,
Trì-Quốc long-vương, Đại-Hắc long-vương, Ế-La-Diệp long-vương.
Tóm lại, kiếp thành là giai đoạn thế-giới đang thành lập.
Thời gian nầy kể có 20 tiểu-kiếp.
2. Kiếp-trụ: Kiếp-trụ là gì? Ấy là thế-giới đã thành, có thể
khiến cho chúng-sanh được an trụ mà thọ dụng. Kinh Hoa-Nghiêm nói: “Tam-thiên-đại-thiên-thế-giới
đã thành lập, khiến cho vô lượng chúng-sanh được nhiều sự nhiêu ích: những loài
thủy tộc được sự nhiêu ích của nước; những loài ở lục địa được sự nhiêu ích của
đất; những loài ở cung điện được sự nhiêu ích của cung điện; những loài ở hư
không được sự nhiêu ích của hư không”.
Khi thế-giới mới vừa thành lập, đất như chất sữa đặc, có đủ
mùi vị thơm tho ngon đẹp. Lúc ấy hàng chư thiên phước, mạng đều hết, từ cõi
trời Quang-Âm hóa sanh xuống miền đại địa. Loài hữu-tình nầy các căn đầy đủ,
thân có ánh sáng, bay đi tự tại giữa hư không lấy sự hỷ lạc làm thức ăn, thọ số
rất lâu dài. Bấy giờ thế-giới không có mặt trời, mặt trăng, các ngôi sao, thời
tiết và ngày đêm, cũng không phân biệt ai là nam, nữ, sang, hèn mọi người gặp
nhau chỉ gọi là “Tát đỏa, tát đỏa”. Khi đó các hữu-tình hóa sanh thấy lớp địa
tô trắng nhuyễn, lấy ngón tay chấm đưa vào lưỡi nếm thử. Nếm vài ba lần, cảm
thấy thơm ngon, mùi vị đặc biệt, họ liền sanh lòng tham trước. Những kẻ nào ăn
chất địa tô nhiều, thân thể lần lần thô phì, người ăn ít thì nhan sắc quang
nhuận hơn. Do đó họ sanh tâm phân biệt tốt xấu hơn kém. Khi các hữu-tình ấy
tham nhiễm chất địa tô, thì thần thông ánh sáng và diệu sắc của thân thể cũng
lần suy mờ và mất hẳn, thế-giới trở nên tối tăm. Lúc đó các ngọn hắc phong thổi
vào mặt biển, từ nơi đây phát hiện mặt trời, mặt trăng bay lên hư không soi
sáng thế gian. Người thời bấy giờ thấy mặt trời mọc thì mừng, thấy mặt trời lặn
thì lo lắng sợ hãi, từ đó mới có ngày đêm phân biệt. Khi loài người đã sanh lòng
hơn kém thị phi, phước đức cũng suy giảm, chất địa tô biến thành địa bì, mùi vị
kém hơn trước. Lần lần chất địa bì cũng diệt, sanh ra chất địa phu; chất địa
phu lại diệt, biến ra chất địa phì, mùi vị như rượu bồ đào. Kế đó chất địa phì
cũng mất, từ dưới đất mọc lên cây bồ đào trái ngon ngọt, nhơn loại hái thứ trái
ấy mà ăn, ăn hết lại có trái khác sanh ra tiếp tục. Lần lần cây bồ đào thưa
thớt không còn trái, từ dưới đất lại mọc lên thứ gạo không có vỏ thóc bên
ngoài; thứ gạo nầy không cần gia vị mà vẫn có đủ mùi chất thơm ngon.
Bấy giờ loài người hóa sanh ăn thứ gạo thơm, còn lại cặn bã
nơi thân, thể chất lại biến sanh ra đại, tiểu tiện đạo, hiện rõ căn hình nam
nữ. Những kẻ tình nhiễm hơi nặng biến thành nữ nhơn, người tình nhiễm nhẹ hơn
biến thành nam tử; hai bên đối nhau cười nói, dục niệm càng tăng, lần lần đi
đến sự phối hợp và kết thành chồng vợ ở chung nhau. Từ đấy loài người sanh ra
đều từ thai tạng của mẹ. Thứ gạo thơm thuở ấy dài độ bốn tấc, ban mai cắt chiều
liền sanh, chiều cắt mai lại sanh, hạt nào hạt nấy đều chín mọng. Trong khi đó
đôi kẻ sanh tâm lười biếng, họ cắt luôn thật nhiều, để dành ăn trong ba ngày,
năm ngày, hoặc nhiều ngày. Những người kia trông thấy thế bắt chước làm theo,
do nghiệp tham lam phóng dật ấy, gạo lần lần sanh ra vỏ thóc, khi cắt rồi không
mọc lại liền như lúc trước. Trước cảnh trạng ấy, loài người buồn rầu khóc lóc,
cùng nhau phân chia ranh giới của ruộng nương, mỗi gia đình đều tàng trữ lúa
riêng, rồi ra sức gieo trồng để tự nuôi sống.
Thời gian sau, lại có kẻ tham lam lười biếng, không chịu
gắng sức làm việc, lén cắt trộm lúa của người khác, nhân đó sanh ra sự tranh
đấu lẫn nhau. Bấy giờ đại chúng họp lại lựa bậc có đức công cử lên làm điền
chủ, với nhiệm vụ xử đoán việc phải quấy, trách phạt kẻ có tội, mỗi người đều
trích bớt phần ăn của mình để thù đáp công lao của vị ấy. Đây là mầm móng xuất
phát hàng vua chúa và giai cấp Sát-Ðế-Lỵ về sau. Lúc đó lại có những kẻ thấy
nhơn loại lần trở nên ô nhiễm xấu xa, sanh lòng thương xót yểm ly, bỏ vào núi
tu hành, giữ hạnh trong sạch được mọi người tôn kính cúng dường. Đây là nguồn
gốc của hàng xuất-gia tu tịnh hạnh và giai cấp Bà-La-Môn về sau. Lại có những
kẻ học tập các kỹ nghệ, hoặc giúp việc cho người khác để tự mưu sanh. Đây là
hàng thứ dân và tiện dân, cũng là nguyên ủy của hai giai cấp Phệ-Xá, Thủ-Ðà-La
sau nầy.
Tóm lại, thời gian của kiếp-trụ cũng gồm có hai mươi
tiểu-kiếp. Mỗi tiểu-kiếp khi tăng thạnh đều có bốn bậc Luân-vương ra đời, lúc
giảm cực đều có tiểu-tam-tai.
3. Kiếp-hoại: Khi trụ-kiếp đã mãn, thế-giới bắt đầu hư hoại
đây gọi là kiếp-hoại. Sự hư hoại nầy có hai phương diện: thú-hoại và giới-hoại.
Thú-hoại là chỉ cho sự tiêu hoại của chúng-sanh trong Thất-thú, tức là
hữu-tình-giới. Lúc đó những chúng-sanh nào có phước nghiệp liền được sanh về
các tầng trời không tiêu hoại, hoặc sanh về các thế-giới khác tương xứng với
nghiệp của mình. Những chúng-sanh nghiệp nặng, sau khi thân xác tiêu tan liền
được chuyển sanh về ác đạo ở tha phương. Giới-hoại là sự tiêu hoại của non sông
vạn vật, tức là khí-thế-giới.
Về kiếp-hoại lại có tướng đại-tam-tai là: hỏa-tai, thủy-tai
và phong-tai.
Khi hỏa-tai sắp khởi, những chúng-sanh có phước đức đều sanh
lên cõi Nhị-thiền. Do nghiệp của loài hữu-tình kế đó hắc phong nổi lên dữ dội,
khởi thỉ có hai mặt trời hiện ra, làm cho nước ở các ao hồ rạch nhỏ đều khô
cạn. Kế tiếp có ba mặt trời hiện ra, làm cho nước ở các sông lớn đều khô cạn.
Kế lại có bốn mặt trời hiện ra, làm cho nước ở A-Nậu-Trì (Vô-nhiệt-trì) khô
cạn. Khi năm mặt trời hiện ra biển lớn đều khô; sáu mặt trời hiện ra núi non
đất liền bốc cháy khói lên ngùn ngụt; bảy mặt trời hiện ra núi Tu-Di sập đổ,
chư thiên trời Lục-Dục thảy đều mạng chung, sức lửa hủy hoại cả Dục-giới và
tầng Sơ-thiền của Sắc-giới. Lúc ấy từ cõi trời Quang-Âm trở xuống, vạn vật đều
thành tro bụi, chư thiên mới hóa sanh lên đây thấy cảnh tượng chưa từng có ấy,
đem lòng sợ hãi. Các thiên-tử cựu trụ đến an ủi rằng: “Chư vị chớ lo sợ, kiếp
lửa không thể tiêu hủy được cõi nầy”.
Khi thủy-tai nổi lên, những chúng-sanh có phước đức đều sanh
trước lên cõi Tam-thiền. Do nghiệp lực của loài hữu-tình, tam-thiên-thế-giới
nổi lên cơn mưa mãnh liệt. Từ cõi Tam-thiền trở xuống, cung điện chư thiên, núi
Tu-Di, Thất-Kim-Sơn, Tứ-đại-châu đều ẩn hình trong biển nước. Cả cõi Dục và
tầng Sơ-thiền, Nhị-thiền của Sắc-giới đều bị sức nước xung phá tiêu tan. Ví như
một khối muối to bỏ xuống nước bị tiêu tan thế nào những sắc chất của cõi nầy
cũng bị tiêu tan như thế ấy.
Khi phong-tai nổi lên, những chúng-sanh có phước đức đều
sanh trước lên cõi Tứ-thiền. Do nghiệp lực của loài hữu-tình, có cơn gió mãnh
liệt tên là Đại-Tăng-Già nổi lên. Từ cõi Tứ-thiền trở xuống, cung điện chư
thiên, núi non, tất cả các sắc chất đều va chạm nhau tan nát như vi-trần trong
sức quay cuồng dữ dội của gió. Nói chung, phong-tai tiêu hoại đồng thời tất cả
trời Tam-thiền, Nhị-thiền, Sơ-thiền, và 1.000.000.000 cõi Dục của
Đại-thiên-thế-giới.
Đại-tam-tai không phải đồng thời khởi lên trong một
đại-kiếp. Như đại-kiếp thứ nhất bị hỏa-tai tiêu hoại, đến đại-kiếp thứ tám mới
bị thủy-tai tiêu hoại, cứ bảy lần hỏa-tai có một lần thủy-tai, bảy lần thủy-tai
mới có một lần phong-tai. Đại-tam-tai tuần hoàn 64 lần trong một kiếp vận, nếu
đại-kiếp thứ nhất bị hỏa-tai tiêu hoại, đến đại-kiếp thứ 64 mới có phong-tai
tiêu hoại thế-giới. Như thế trong một kiếp-vận (64 đại-kiếp), có 56 lần đại
hỏa-tai, 7 lần đại thủy-tai, 1 lần đại phong-tai.
Hiển-Tông-Luận nói: “Chư thiên cõi Sơ-thiền do sức phiền não
vi tế của tâm sở tầm, từ bên trong, nên chiêu cảm hỏa-tai bên ngoài. Chư thiên
cõi Nhị-thiền do sức nhuận trạch của tâm khinh an, hoan hỷ bên trong, nên chiêu
cảm thủy-tai bên ngoài. Chư thiên cõi Tam-thiền do sức dao động của tâm lạc thọ
bên trong, nên chiêu cảm phong-tai bên ngoài. Bậc Sơ-thiền vì có đủ ba tai nạn
bên trong, nên phải thọ ba tai nạn bên ngoài. Bậc Nhị-thiền vì có hai tai nạn
(thủy, phong-tai) bên trong, nên phải thọ hai tai nạn bên ngoài. Bậc Tam-thiền
vì có một tai nạn (phong-tai) bên trong, nên phải thọ một tai nạn bên ngoài”.
Cứ theo đây mà xét thì trong thời kỳ hỏa-tai cũng có thủy-tai và phong-tai,
nhưng thế lực của nước và gió kém hơn lửa, nên chỉ kể phần lửa là đại hỏa-tai.
Trong thời kỳ thủy-tai cũng có hỏa-tai và phong-tai, nhưng thế lực của lửa và
gió kém hơn nước, nên chỉ kể phần nước là đại thủy-tai. Trong thời kỳ phong-tai
cũng có hỏa-tai và thủy-tai, nhưng thế lực của lửa và nước kém hơn gió, nên chỉ
kể phần gió là đại phong-tai. Hỏa-tai phá hoại đến cõi Sơ-thiền, thủy-tai phá
hoại đến cõi Nhị-thiền, phong-tai phá hoại đến cõi Tam-thiền. Tạp-Tâm-Luận nói:
“Bậc Tứ-thiền không có lửa giác-quán như Sơ-tịnh-lự, không có nước hoan-hỷ như
Nhị-tịnh-lự, không có gió lạc-thọ như Tam-tịnh-lự nên không bị tam-tai làm hại.
Vì thế cõi Tứ-thiền vĩnh viễn không tiêu hoại. Nhưng đệ Tứ-thiền chưa được gọi
là chân thường vì định cảnh nầy không vĩnh viễn tương tục khi sức định đã mòn
thế lực của nó phải tiêu tan. Vì thế cõi Tứ-thiền tuy không bị tam-tai, nhưng
còn bị sự sanh diệt vô thường làm hư hoại. Tướng hư hoại ấy như thế nào? Như
khi vị thiên-tử cõi Tứ-thiền mới hóa sanh, cung điện và bao nhiêu y-báo tùy
thân cũng đồng thời hiện; khi họ mạng chung y-báo riêng cũng đồng thời tiêu
diệt”.
4. Kiếp-không: Sau khi đã trải qua đại tai, vạn vật đều tiêu
tan, chỉ còn một khoảng không gian vô hình. Trạng thái nầy kéo dài 20 tiểu-kiếp
mới qua giai đoạn thành lập của thế-giới tương lai. Thời kỳ trống không ấy gọi
là không kiếp. Không kiếp không có ngày đêm thời tiết, làm sao mà biết được là
trải qua 20 tiểu-kiếp. Đây là do trí huệ vô ngại của Phật thấy suốt mười
phương, so sánh với các cõi trời không hư hoại và trụ của thế-giới phương khác,
nên biết rõ thời gian ấy trải qua 20 tiểu-kiếp.
Như một năm có bốn mùa: xuân, hạ, thu, đông; một đại-kiếp
phải trải qua bốn kiếp tướng là thành, trụ, hoại, không, liên tục không dứt.
Thời tiết hết đông kế sang xuân, kiếp tướng hết thời kỳ trống không lại qua
thời kỳ thành lập. Đối-Pháp-Luận nói: “Như suốt qua phương đông có vô lượng
thế-giới, các cõi ấy hoặc sắp thành, hoặc đang hoại, hoặc đang thành, hoặc đã
thành rồi trụ, hoặc đã hoại rồi không. Cũng thế, vô biên quốc độ ở mười phương
sanh diệt theo bốn giai đoạn: thành, trụ, hoại, không, liên tục không dứt.
Chánh-báo và y-báo ở mười phương thế-giới có xấu, đẹp, sạch, dơ, đều do đồng
nghiệp của chúng-sanh mà cảm hiện”. Kinh Hoa-Nghiêm cũng nói: “Ví như lá trong
rừng có non, già, khô, rụng, thế-giới trong các sát chủng cũng có thành, trụ,
hoại, không”. (Phật Học Tinh Yếu, do Hòa Thượng Thích Thiền Tâm biên soạn)
[13] Ba ngàn đại thiên thế giới: Lấy núi Tu di làm trung
tâm, xung quanh có bảy núi tám biển; lại có núi Thiết vi làm bức thành bao
quanh ở bên ngoài, đó gọi là một tiểu thế giới. Gộp một ngàn tiểu thế giới lại,
thì tạo thành một tiểu thiên thế giới. Gộp một ngàn tiểu thiên thế giới lại,
thì tạo thành trung thiên thế giới. Gộp
một ngàn trung thiên thế giới lại, thì tạo thành đại thiên thế giới. Ba ngàn
đại thiên thế giới là chỉ đại thiên thế giới đó được hình thành bởi ba loại thế
giới : tiểu thiên, trung thiên và đại thiên.
[14] Sáu nẻo: Là sáu con đường mà chúng sanh phải trỉa qua
trong luân hồi sanh tử. Sáu nẻo ấy được trình bày như sau:
1. Ðịa ngục (Nãraka)
Ðây là cảnh giới mà mức độ chấp hữu lớn nhất. Nghiệp lực dồn
thần thức tới mức độ bị nghiệp lực sai khiến hoàn toàn. Từ trong cảm giác không
của chân tâm bất hoại, thần thức khởi lên ý niệm căm ghét. Sự căm ghét làm thần
thức muốn gây khổ cho ai đó, nhưng không có ai là đối tượng, nên thần thức quay
lại làm khổ chính mình. Vừa khởi tâm muốn đánh đập ai đó thì hành động đánh đập
đã quay lại hành hạ chính thân mình. Ðó là cơ sở của địa ngục.Trong tác phẩm
“Niềm vui giải thoát”, Gampopa đã mô tả một cách sinh động cõi địa ngục và nỗi
đau khổ, mà thật sự là đang diễn ra trong tâm ý chúng ta. Thật sự thì không có
ai đứng ra trừng phạt ta trong cõi địa ngục cả, chính cái năng lực căm thù hiện
ra thành một thế giới đầy lửa, ta thường hay gọi là hỏa ngục.Còn một dạng khác
của cảnh giới địa ngục hoàn toàn ngược lại. Khắp nơi ngự trị một thế giới băng
giá lạnh lùng. Ðó cũng là một dạng của sự căm ghét, làm ta không muốn liên hệ
với bất cứ ai. Sự căm ghét này phần lớn xuất phát từ sự kiêu ngạo, ngã mạn, làm
hiện ra một thế giới lạnh lẽo chung quanh, trong đó thần thức tự cho rằng chỉ
có mình là nắm được lẽ phải.
2. Ngạ quỷ (Preta)
Cảnh giới thứ hai của lục đạo là ngạ quỷ hay quỷ đói. Từ
trong chân tâm thanh tịnh, thần thức không khởi lên sự căm thù như trong cảnh
giới địa ngục, mà khởi lên sự thèm khát và ganh tị. Ðiều đáng nói là thần thức
vừa có cảm giác đầy đủ sung mãn, không thiếu thứ gì, lại vừa thấy vô cùng thiếu
thốn, luôn thèm khát muốn được nhiều hơn nữa.Trong cảnh giới này, sự thỏa mãn
của thần thức không phải là cái có được, mà chính là sự săn đuổi. Có thể so
sánh với những người đi câu cá không phải để ăn con cá, mà để tìm cái khoái cảm
lúc bắt được con cá. Hãy tưởng tượng có người đã quá no nê không thể ăn được gì
thêm, nhưng vẫn thèm ăn vì cái khoái cảm khi được ăn. Người ấy nảy sanh sự thèm
khát và ganh tị với những ai thực sự đói và có thể ăn được.Biểu tượng của loài
quỷ đói (ngạ quỷ) là một người có cái bụng to như cái trống, nhưng cổ họng chỉ
như cái ống nhỏ xíu. Tùy theo nghiệp lực, quỷ đói cảm nhận khác nhau về các
loại thức ăn. Có loài vừa cầm thức ăn trên tay, thức ăn đã biến mất hay không
ăn được. Có loài đưa vào miệng nhưng không nuốt được. Có khi thức ăn biến thành
lửa, không tiêu hóa được. Thật ra, trong đời sống thông thường, chúng ta vẫn
thường xuyên chứng kiến những trạng thái tương tự như thế.
3. Súc sanh (Paśu)
Ðặc điểm của cảnh giới súc sanh là sự thiếu vắng của cảm
giác hỷ lạc, tâm thức hài hước. Biểu tượng của cõi này là thế giới thú vật.
Chúng có cảm giác hạnh phúc hay đau khổ, nhưng không hề biết cười.Trong đời
sống thông thường, ta sẽ đi vào cõi này một khi chỉ nhắm mắt đi theo một quan
điểm cực đoan nào đó, hoặc một khuôn khổ lý thuyết nhất định, rồi tuyệt đối tin
tưởng vào đó, một cách cố chấp, không suy xét, không thay đổi. Một con người
như thế có thể rất siêng năng cần mẫn và vui lòng với cuộc sống. Như một bác
nông phu với cái cày và cách thức canh tác của mình; như một thương gia, một
người cha trong gia đình, chỉ mong muốn không có gì bất ngờ xảy ra, tránh mọi
bất trắc. Tất cả đều theo những tiêu chuẩn, lề luật đã định sẵn, tất cả đều
phải được tính toán từ trước.Trong cảnh giới súc sanh, mỗi một điều lạ, mỗi một
bất ngờ là một thứ tai họa và sẽ là nguyên nhân gây sợ hãi, hỗn loạn dữ dội. Ðó
cũng chính là nét tiêu biểu của thế giới thú vật mà chúng ta đều biết.
4.Người (Nãra)
Nếu cảnh giới súc sanh chỉ cần được sống sót và an lành thì
cảnh giới người khác hơn một bước. Ðặc trưng của thế giới loài người là sự khao
khát, tìm tòi, khám phá và thụ hưởng. Ðây là thế giới của những nhà nghiên cứu,
tìm tòi, luôn muốn làm giàu thêm tri thức và kinh nghiệm. Cõi người có một vài
dấu vết của loài quỷ đói là luôn muốn có được nhiều hơn; đồng thời cũng có yếu
tố của súc sanh, cố gắng giữ cho mọi thứ được ổn định. Nhưng cõi người có một
đặc trưng mà hai cõi kia không có, đó là sự khôn ngoan, thường xuyên suy xét và
tìm tòi không ngưng nghỉ. Vì vậy tâm thức loài người đã đạt đến những thành quả
lớn lao, rồi trên những thành quả đó nảy sanh thêm những thành quả khác, kể cả
những âm mưu quỷ quyệt, những khao khát vô cùng.
5. A-tu-la (Āsura)
Cảnh giới a-tu-la có thể xem là cao hơn loài người một bậc.
Ðặc trưng của cõi này là mối liên hệ với nhau rất cao, đặt trên một trình độ
tri thức phát triển. Vừa rời chân tâm trống rỗng vắng lặng đi vào cõi a-tu-la,
thần thức có cảm giác rơi vào một nơi hoang địa và khôn ngoan quan sát rình rập
mọi thứ. Trong thần thức nảy sanh một mối nghi ngờ với tất cả và luôn tìm cách
thắng cuộc.Khác với các cảnh giới người và súc sanh, a-tu-la là cảnh giới của
những âm mưu quỷ quyệt, của những sự khôn ngoan gian hùng, những toan tính lớn
lao liên quan đến toàn xã hội.
6. Trời
Từ trong chân tâm thanh tịnh, thần thức bỗng khởi lên niềm
hỷ lạc và muốn lưu giữ niềm vui đó. Thay vì lưu trú trong thức vô ngã, thần
thức cảm giác về một tự ngã và muốn giữ gìn tự ngã đó trong một trạng thái đại
định. Ðó là ý muốn duy trì đời sống trong trạng thái thiền định sâu lắng, an
lạc. Thần thức ngần ngại không muốn lưu trú trong cảnh giới vô ngã, chỉ muốn an
trú vào một nơi nào đó, muốn là một cái gì đó.
[15]. Ba cỏi: Là Dục-giới, Sắc-giới và Vô-sắc-giới. Dục-giới
là chỗ ở của các loại hữu-tình chưa ly dục, còn tạp phiền não và các uẩn sai
biệt. Sắc-giới là chỗ ở của các loại hữu-tình đã ly dục, nhưng còn tạp phiền
não và các uẩn sai biệt. Vô-sắc-giới là chỗ ở của các loại hữu-tình đã ly dục
và sắc, song cũng còn tạp phiền não và các uẩn sai biệt. Trong tam giới lại còn
có năm thứ sai biệt khác là tướng sai biệt, thô trọng sai biệt, phương xứ sai
biệt, thọ dụng sai biệt và nhiệm trì sai biệt.
Tướng sai biệt là trong cõi Dục có nhiều sắc tướng, những
tướng không trong sạch và các thứ tạp tướng; trong cõi Sắc có ít sắc tướng,
những tướng trong sạch và không có tạp tướng; còn cõi Vô-sắc tuy thuộc về không
nghiệp nhưng cũng có sắc, mà sắc thuộc về định, về vô kiến, vô đối. Lại nữa,
trong cõi Dục có tướng khổ thọ tương ưng, tướng sân nhuế tương ưng và tướng nhiều
tùy phiền não tương ưng. Trong cõi Sắc và Vô-sắc có tướng khổ thọ bất tương
ưng, tướng sân nhuế bất tương ưng và tướng ít tùy phiền não tương ưng.
Thô trọng sai biệt là trong Dục có những sự thô trọng thô mà
tổn hại, trong cõi Sắc và Vô-sắc sự thô trọng tế mà không tổn hại.
Phương xứ sai biệt là cõi Dục ở phương dưới, cõi Sắc ở
phương trên, còn cõi Vô-sắc thì không phương xứ.
Thọ dụng sai biệt là chúng-sanh cõi Dục thọ dụng cảnh giới
bên ngoài, chúng-sanh cõi Sắc và Vô-sắc thọ dụng cảnh giớibêntrong.
Nhiệm trì sai biệt là chúng-sanh ở cõi Dục nương nơi bốn sự
ăn mà trụ, chúng-sanh cõi Sắc và Vô-sắc nương nơi ba sự ăn mà trụ. (Luận
Hiển-Dương-Thánh-Giáo)
Trong ba cõi, Dục-giới thuộc về xứ sở hạ phương. Được mệnh
danh là Dục-giới, vì chúng-sanh ở nơi đây nhiễm năm thứ dục lạc: sắc dục, tiền
của, danh vị, ăn mặc, ngủ nghỉ. Dục-giới cũng gọi là chỗ Ngũ-thú-tạp-cư.
Ngũ-thú là: Trời, Người, Súc-sanh, Ngạ-quỷ, Địa-ngục. Tạp-cư có hai nghĩa: 1.
Trong cõi Dục gồm có năm chủng loại ở. 2. Trong mỗi chủng loại lại có các chủng
loại khác ở lẫn lộn, như nơi cõi trời cũng có Súc-sanh, Quỷ-thần, nơi cõi người
có Súc-sanh, Ngạ-quỷ, Địa-ngục. Nếu nói đại khái theo thứ bậc thấp cao, thì
trong Dục-giới có ba loại: loại ác thú, loại người, loại trời. Loại ác thú có
bốn: A-tu-la, Súc-sanh, Ngạ-quỷ, Địa-ngục. Loại người gồm có nhơn chúng ở bốn
nơi: Nam-Thiệm-Bộ-Châu, Tây-Ngưu-Hóa-Châu, Đông-Thắng-Thần-Châu và
Bắc-Câu-Lư-Châu. Loại trời có sáu cõi từ thấp đến cao: trời Tứ-Vương, trời
Đao-Lợi, trời Dạ-Ma, trời Đâu-Suất, trời Hóa-Lạc và trời Tha-Hóa-Tự-Tại. Trong
cõi Dục, về hữu-tình giới thì kể từ cõi Tha-Hóa đến ngục Vô-Gián; nếu về khí
thế-giới, phải kể đến phong luân.
Trên Dục-giới là Sắc-giới, gồm nhiếp-hữu-tình và
khí-thế-gian. Sở dĩ gọi Sắc-giới, vì chúng-sanh ở cõi nầy lìa sự nhiễm dục, từ
thân đến cảnh đều là sắc chất trang nghiêm, thanh tịnh. Cõi nầy chia ra làm 18
thiên vức khác nhau; ba Thiền-thiên trước mỗi nơi có ba, đệ tứ thiền có chín.
Ba thiên vức ở Sơ-thiền Ly-sanh-hỷ-lạc-địa là: Phạm-Chúng-Thiên, Phạm-Phụ-Thiên,
Đại-Phạm-Thiên. Ba thiên vức ở Nhị-thiền Định-sanh-hỷ-lạc-địa là:
Thiểu-Quang-Thiên, Vô-Lượng-Quang-Thiên, Quang-Âm-Thiên. Ba thiên vức ở
Tam-thiền Ly-hỷ-lạc-địa là: Thiểu-Tịnh-Thiên, Vô-Lượng-Tịnh-Thiên,
Biến-Tịnh-Thiên. Chín thiên vức ở Tứ-thiền Xả-niệm-thanh-tịnh-địa là:
Vô-Vân-Thiên, Phước-Sanh-Thiên, Quảng-Quả-Thiên, Vô-Tưởng-Thiên,
Vô-Phiền-Thiên, Vô-Nhiệt-Thiên, Thiện-Kiến-Thiên, Thiện-Hiện-Thiên,
Sắc-Cứu-Cánh-Thiên. Trong chín thiên vức, năm cõi ở sau cùng tên là
Ngũ-Tịnh-Cư-Thiên, cũng gọi là Ngũ-Bất-Hoàn-Thiên, vì là chỗ ở của bậc thánh
A-na-hàm.
Theo các đại luận-sư ở xứ Ca-Thấp-Di-La thì Sắc-giới chỉ có
16 thiên vức, vì Đại-Phạm-Thiên nguyên là một vùng lâu các rộng lớn ở cõi
Phạm-Phụ, chớ không phải biệt trí nơi khác. Còn trời Vô-Tưởng thì nhiếp về
Quảng-Quả-Thiên, vì hai thiên chúng nầy đồng một thân lượng và thọ lượng.
Trên Sắc-giới là Vô-sắc-giới. Được mệnh danh là Vô-sắc, vì
nơi đây không có sắc uẩn chỉ có thọ, tưởng, hành, thức bốn ấm mà thôi. Cõi nầy
do không có sắc pháp biểu hiện, nên không có phương sở đời quá khứ vị lai đều
như thế, lý đã quyết định. Nhưng về phần dị thục sanh sai khác thì có bốn bậc:
Không-Vô-Biên-xứ, Vô-Sở-Hữu-xứ, và Phi-Tưởng-Phi-Phi-Tưởng-xứ. Bốn bậc nầy
không phải có riêng xứ sở cao thấp, mà do nghiệp chúng-sanh hơn kém khác nhau.
(Luận Câu-Xá, Lục-Đạo-Tập)
0 nhận xét:
Đăng nhận xét