Bài pháp này đã
được Đức Phật thuyết cho ẩn sĩ Subhadda ngay vào lúc sắp viên tịch Níp Bàn giữa
hai cây Sàlà (vườn Ingyin) gần thành Kusinãra, xin trích đoạn sau:
"Yasmim kho Subhadda
dhammavinaye Ariyo Ahhangiko Maggo na upalabbhati samanopi tattha na
upalabbhati dutiyopi tattha samano na upalabbhati tatiyopi tattha samano na
upalabbhati catutthopi tattha samano na upalabbhati" (Kinh Đại Viên tịch
Níp Bàn, Đại Phẩm, Trường Bộ Kinh, Đại Tạng Pàli).
"Này Subhadda,
Nếu một người được thanh tịnh và thành tựu viên mãn trong con đường Bát Chánh dưới sự hướng dẫn của một vị Thầy thiện xảo, thì người đó mới có thể chứng đạt trí Sơ đạo và Quả, hay Nhị Đạo - Quả, hay Tam Đạo - Quả, hay Tứ Đạo - Quả, giai đoạn cuối cùng của Con Đường".
Nếu một người được thanh tịnh và thành tựu viên mãn trong con đường Bát Chánh dưới sự hướng dẫn của một vị Thầy thiện xảo, thì người đó mới có thể chứng đạt trí Sơ đạo và Quả, hay Nhị Đạo - Quả, hay Tam Đạo - Quả, hay Tứ Đạo - Quả, giai đoạn cuối cùng của Con Đường".
Để tu tiến tám chi phần
của Thánh Đạo, Niệm Liên
Tục là điều quan
trọng nhất, hành giả gắn chặt tâm niệm thường xuyên trên đề mục của việc hành
thiền.
Giả sử bạn đang hành niệm
trên hơi thở ra - vào, cần ghi nhận không thiếu sót trong tâm sự phồng lên của
bụng khi thở vào và sự xẹp xuống của bụng khi thở ra (ghi nhận theo hơi thở tự
nhiên, không cố ý hít - thở để niệm) như Phồng, Xọp, Phồng, Xọp (rising,
falling).
- Sự tinh tấn ghi nhận
của hành giả, là chi đạo Chánh Cần (Sammàvayàma magganga).
- Chi đạo Chánh Định: khi
gắn chặt tâm ghi nhận trên đề mục.
- Chi đạo Chánh Tư Duy:
khi nhận định để đặt tâm trên đề mục.
- Chi đạo Chánh Kiến: Khi
liên tục chú ý bằng sự ghi nhận không ngừng, bạn có thể thấy hơi thở ra - vào
liên tục sanh diệt.
- Chi đạo Chánh Ngữ: lắng
dịu ác pháp khi tu tập và nói đúng, tương xứng theo pháp.
- Khi bạn còn ở trong
trạng thái ghi nhận, hoàn mãn chi đạo Chánh Nghiệp.
- Hành giả tu tập không
ngừng, hành vô tận, vị ấy cố gắng quan sát và giám sát đời sống, tức chi đạo
Chánh Mạng.
Bằng cách này, bạn thành
tựu viên mãn trong 5 chi đạo đầu tiên: Niệm, Định, Cần, Chánh Kiến, Chánh Tư
Duy. Và cũng trong 3 chi đạo giới phần: Chánh Ngữ- Nghiệp-Mạng.
Thành tựu hoàn mãn trong
tất cả tám phần của Thánh đạo, hành giả được xem là đã thực hành chi đạo để
bứng gốc mọi cấu uế lậu hoặc (defilement - àsava). Như Đức Phật đã
dạy, hành giả bấy giờ được trang bị bằng mọi thể trạng, mọi điều kiện cần và
đủ. Nên tận lực duy trì việc hành pháp đến lúc chín mùi, chứng đạt bốn Đạo -
bốn Quả và Níp Bàn.
Trong tư thế hành thiền,
những gì được giảng trên chỉ ở vị thế ngồi, bất cứ tư thế đi, đứng, nằm, ngồi
nào, cũng hành tương tự.
- Khi bạn khởi động đứng
lên cần ghi nhận là Muốn
đứng, Muốn đứng (Ghi
nhận: tức không lẩm bẩm trong miệng hay thì thầm ở tâm hai chữ "Muốn đứng").
Khi đã đứng, cần ghi nhận Đứng, Đứng. Chú tâm vào điểm chạm giữa chân và sàn
nhà, cần ghi nhận Đứng, Chạm, Đứng, Chạm.
- Khi muốn di chuyển tới
trước cần ghi nhận là Muốn
Bước, Muốn Bước. Chân phải di chuyển, cần ghi nhận . Bước chân phải, Bước chân
phải. Chân trái
cũng vậy. Bước chân trái,
Bước chân trái. Bạn
có thể tiếp tục ghi nhận tùng cử động Dở, Bước, Đạp - Dở, Bước, Đạp trong lúc
hành. Khi quay lại, cần ghi nhận Quay
Lại, Quay Lại.
Trong bất cứ tư thế nào,
cần ghi nhận theo bất cứ động tác và vị trí nào đang xử dụng. Nếu hành giả duy
trì việc ghi nhận như trên, thật rất tốt đẹp cho việc hành thiền Đại Niệm Xứ
theo Tám Thánh Đạo.
- Nếu muốn đổi tư thế Đi qua Ngồi, cần ghi nhận Muốn Ngồi, Muốn Ngồi. Khi ngồi xuống, cần ghi nhậnNgồi
Xuống, Ngồi Xuống.
- "Yathà yathà và panassa kàyo
panihito hoti tathà tathà nam pajànàti" Vị hành giả an trú theo lời dạy của
Đức Phật và duy trì niệm theo đó, Khi đổi tư thế Ngồi qua Nằm cần ghi nhận Muốn Nằm, Muốn Nằm.Khi
nằm xuống cần ghi nhận Nằm
Xuống, Nằm Xuống. Khi
nghiêng qua trái hay phải, cần ghi nhận tuần tự như đang làm. Trong cách này
bạn ghi nhận tiếp diễn cho tới khi ngủ thiếp đi. Nếu việc ghi nhận hữu ích, cần
ghi nhận tiếp tục.
Và nếu như cảm thấy Muốn Ngủ, bạn có thể thiếp đi trong sự ghi nhận!
Nếu bạn có dịp nghỉ ngơi: Khi ngủ bạn mới có thời gian giải lao. Rồi khi thức
dậy lại phải bắt đầu ghi nhận trở lại bằng
tâm thức đầu tiên!
Trong lúc hành như vậy,
sáu Cảnh tùy phiền não (àrammana nusaya kilesa) bên ngòai diễn ra một
cách rõ rệt bởi sáu cảnh của tâm thức như sắc, thính, khí, vị, xúc. Chúng duy
trì ngủ ngầm trong tâm thức của nội thân. Có những loại kiết sử khác như Tham -
Sân - Si bẩm sinh nhiều đời, được gọi là Điều Kiện Tùy Phiền Não, chúng cũng
ngủ ngầm tự tâm tưởng. Trong hai loại phiền não, loại đầu là Cảnh Tùy Phiền
Não, như tham lam, sân hận, si mê trở nên bất lực dưới động tác của Thiền Niệm
Xứ, những phiền não này không thể mạnh mẽ lên được. Trái lại, chúng muội lược,
yếu đi, đoạn giảm.
Đương nhiên là các lậu
hoặc bị đói kém bởi thiếu cảnh gợi cảm. Khi chúng đói chúng sẽ cố hồi tưởng
những kinh nghiệm thụ hưởng và cảnh qúa khứ, tự bộc lộ trong tâm thụ hưởng sung
mãn. Các lậu hoặc bấy giờ tự hưởng thụ những cảnh gợi cảm này để thỏa mãn.
Bạn có thể vứt bỏ nó ra
bằng sự ghi nhận Đang
Nghĩ, Đang Nghĩ.
Những phiền não được mang
đến do sáu cảnh có thể bị bứng bỏ cùng thế ấy, nhưng riêng phần Điều Kiện Tùy
Phiền Não không thể bứng gốc chỉ bằng sự ghi nhận .
- Bạn phải vận dụng cách
khác:
1. Thân cận bạn lành (Sappurisasamseva)
2. Nghe Pháp (Saddhammassavana)
3. Chơn Chánh Tác Ý (Yonisomanasikàva)
4. Hành Pháp Tùy Pháp (Dhammànudhamma patipatti)
2. Nghe Pháp (Saddhammassavana)
3. Chơn Chánh Tác Ý (Yonisomanasikàva)
4. Hành Pháp Tùy Pháp (Dhammànudhamma patipatti)
Tức hành và tu tiến ý,
khẩu, thân theo chín siêu thế phần. Mới gọi là phiền não bị đoạn tận, tận diệt
vừa theo ý bạn!
Kết Luận:
Tôi cầu chúc các hành giả
chúng ta có thể nỗ lực bằng nhiều phương pháp khác nhau như đã nói trên và tận
diệt hai loại phiền não, Cảnh Tùy Phiền Não và Điều Kiện Tùy Phiền Não. Như thế
bạn mới giải thóat các lậu hoặc vĩnh viễn, đạt Níp Bàn tầng tối thượng của sự
thanh tịnh và hoàn hảo.
Lời Nhắn Nhủ
của Ngài Mahasi Sayadaw:
"Niệm
liên tục đưa đến trí tuệ trong sự liên hệ tất yếu giữa thân tâm
- vô thường - khổ não - vô ngã. Trí tuệ này dẫn đến Níp Bàn".
- vô thường - khổ não - vô ngã. Trí tuệ này dẫn đến Níp Bàn".
-ooOoo-
Tóm Lại: (Nguyên văn Anh Ngữ là thể văn vần)
Trí tuệ phát triển thế
nào?
Trí tuệ phát triển bằng hành Thiền trên Ngũ Thủ Uẩn
Tại sao và khi nào chúng ta hành thiền trên ngũ thủ uẩn?
Bất cứ khi nào chúng khởi lên, để ta không bám chấp vào chúng.
Nếu ta thất bại trong việc hành thiền trên danh sắc, chúng khởi hiện, bám chặt lại vào ta.
Ta chấp thủ năm uẩn như thường hằng, an lạc và như của ta (thường, lạc, ngã).
Nếu ta hành thiền trên Danh Sắc khi chúng hiện, sự bám chấp Danh Sắc không sanh.
Chúng được quán xét rõ ràng, tất cả là vô thường, khổ não, những diễn tiến sanh diệt liên tục rất đơn thuần.
Rồi một lúc chấp thủ diệt, Đạo sanh, dẫn đến Níp Bàn.
Ngay sau đó, là những chi phần của trí tuệ thiền định.
Trí tuệ phát triển bằng hành Thiền trên Ngũ Thủ Uẩn
Tại sao và khi nào chúng ta hành thiền trên ngũ thủ uẩn?
Bất cứ khi nào chúng khởi lên, để ta không bám chấp vào chúng.
Nếu ta thất bại trong việc hành thiền trên danh sắc, chúng khởi hiện, bám chặt lại vào ta.
Ta chấp thủ năm uẩn như thường hằng, an lạc và như của ta (thường, lạc, ngã).
Nếu ta hành thiền trên Danh Sắc khi chúng hiện, sự bám chấp Danh Sắc không sanh.
Chúng được quán xét rõ ràng, tất cả là vô thường, khổ não, những diễn tiến sanh diệt liên tục rất đơn thuần.
Rồi một lúc chấp thủ diệt, Đạo sanh, dẫn đến Níp Bàn.
Ngay sau đó, là những chi phần của trí tuệ thiền định.
-oo0oo-
Thiền Quy (Thiền
Viện Mahasi)
Hành giả cần phải:
1. Hành 14 giờ chính thức
mỗi ngày bằng thiền, trong tư thế ngồi và đi.
2. Độc cư, giữ yên tịnh.
Mọi giao tiếp không được khuyến khích tại đây.
3. Kềm chế việc hở môi
nói chuyện.
4. Hạn chế tối thiểu việc
đọc và viết.
5. Cư sĩ phải giữ Bát Quan
Trai giới. Cấm hút thuốc. Nhà sư và tu nữ phải trì giữ cẩn mật giói luật hàng
xuất gia.
6. Cẩn trọng theo sát
hướng dẫn của Thiền Sư và không hành theo bất cứ lối thiền nào khác tại đây.
7. Không được có bất cứ
hành vi nào không liên quan đến việc
hành thiền liên tục (như
nghe radio, cassette, xoa bóp, chụp hình, giữ sách vở - dù là kinh, châm cứu,
tiếp khách, nấu ăn, học tiếng Miến Điện, Anh văn hay Pàli ...)
8. Thu thúc các Căn. Sống
như Mù, Điếc, Câm, Ngu, Bệnh, và như người chết rồi.
9. Cử động thật chậm.
10. Hạn chế ngủ từ 4-6
giờ trên 24 giờ mổi ngày.
11. Hành giả phải hành
thiền bằng:
- Lòng tôn kính và thật
tâm
- Sáng suốt, trung thực và chân chính.
- Tinh cần và dũng mãnh.
- Thông suốt mọi việc.
- Kiên định.
- Trì chí, liên tục từng giây phút niệm, từ khi kinh hành sáng đến lúc an nghỉ buổi tối.
- Sáng suốt, trung thực và chân chính.
- Tinh cần và dũng mãnh.
- Thông suốt mọi việc.
- Kiên định.
- Trì chí, liên tục từng giây phút niệm, từ khi kinh hành sáng đến lúc an nghỉ buổi tối.
12. Không thể gián đoạn
niệm để suy nghĩ, liên tưởng, suy tính, phân tích hay giải thích trong khi hành
niệm liên tục.
13. Thông thường, việc
hành thiền dành cho người bình thường và tâm trí quân bình. Nếu người mà tâm
trí không sắc bén để hành thiền liên tục, nhất là để theo sát giáo huấn, thì
không thể gọi là hành giả. -- (Lời dạy của các Thiền Sư ).
-oo0oo-
Tóm Lược Hướng
Dẫn Cách Trình Pháp
1. Mỗi hiện pháp gặp phải trong một lần ngồi thiền cần được mô
tả trong những thuật ngữ sau:
a. Sự phát sanh
b. Sự ghi nhận
c. Sự quan sát
b. Sự ghi nhận
c. Sự quan sát
Trình bày những hiện pháp
(Đề Mục) gặp
phải theo một cách trình tự từ hiện pháp đầu tiên, như chuyển động lên - xuống,
phồng - xọp của bụng.
Chẳng hạn:
- Sự phồng lên của
bụng đã phát sanh tôi ghi nhận là Phồng rồi quan sát sự giãn nở, sự nén hơi, sự căng cứng ".
- "Sự xọp xuống của bụng đã phát sanh, tôi ghi nhận là Xọp rồi quan sát sự xẹp xuống, sự thư giãn tinh thần"
- "Sự xọp xuống của bụng đã phát sanh, tôi ghi nhận là Xọp rồi quan sát sự xẹp xuống, sự thư giãn tinh thần"
2. Trình bày sự biết rõ các hiện pháp đồng phát sanh ra sao và
ta quan sát chúng liên tục như thế nào?
Chẳng hạn: "Sự biết rõ chỉ đến sau khi
sự Phồng đã sanh diệt và tôi chỉ có thể quan sát một hay hai những sự phồng và
những sự xọp, trước khi tâm ý trôi mất" hay "sự biết hiện pháp phát
sanh ngay ở sát na phồng và sự kéo dài của nó, và tôi có thể quan sát phồng -
xọp từ 20 đến 30 lần trước khi tâm ý phóng đi".
Điều quan trọng nhất là
trình hiện pháp đầu tiên trong sự rõ ràng, đơn giản, ngôn từ chuẩn xác trong
mọi chi tiết chính xác mà ta đã quan sát. Chỉ sau khi đó bạn mới có thể trình
bày những hiện pháp kế tiếp đã được ghi nhận và biết rõ trong lúc ngồi.
3. Trình bày những hiện pháp kế tiếp đã được ghi nhận và quan
sát rõ rệt khi ngồi thiền .
Chẳng hạn: Những tâm cảm
thọ từ thân thể: đau nhức, ngứa ngáy,.... suy nghĩ và ý tưởng, phóng dật, hoạch
định, nhớ tưởng, .... những trạng thái tâm: sân hận nóng nảy, ngã mạn tự cao,
an lạc, vừa ý, v v...
Xin thuật lại những chi
tiết, ý liệu sau trong mỗi hiện pháp được trình bày:
a) Sự phát sanh của một
hiện pháp. Ví dụ: "Đau nhức đã phát sanh ở đầu gối,...."
b) Những gì ta đã làm, ta
ghi nhận chúng ra sao. Ví dụ: tôi ghi nhận rằng "đau đau"
c) Những gì ta đã quán
sát. Ví dụ: tôi quan sát sự đau nhói.
d) Những gì sẩy ra cho
hiện pháp Ví dụ: đau nhói đổi thành đau nhức.
e) Những gì ta đã làm kế
đó. Ví dụ: tôi ghi nhận chúng khi "nhức, nhức".
f) Những gì ta quan sát.
Ví dụ: tôi quan sát nhịp đau nhức dập chậm (nhói lên từng nhịp).
g) Những gì xảy ra . Ví
dụ: khi tôi ghi nhận chúng, chúng đã diệt đi.
h) Những gì ta đã làm kế
đó. Ví dụ: tôi trở về sự ghi nhận Phồng
và Xọp.
i) Tâm phóng dật khởi
hiện pháp (Đề Mục). Ví dụ: đầu tiên tôi không ghi nhận chúng. Nhưng khi tôi đã
hành, tôi ghi nhận chúng là: phóng dật" và phóng dật đã chấm dứt. Ngay sau
đó, tôi trở về sự quan sát Phồng - Xọp.
4. Ta phải trình bày diễn tiến toàn diện của ta trong mỗi hiện
pháp (đề mục) kế tiếp.
- Sau khi trình bày về
thiền toạ (ngồi), ta có thể trình bày tiếp về thiền hành (đi kinh hành)
- Lại nữa, mô tả trước
tiên về những hiện pháp ban đầu: Dở,
Bước, Đạp của mỗi
chân.
Chẳng hạn: "Khi kinh
hành, tôi dở chân, ghi nhận sự dở chân và quan sát X,Y,Z.... Chuyển chân tới
trước, tôi ghi nhận bước chân và quan sát A,B,C... Khi đặt chân xuống, tôi ghi
nhận sự đặt chân và quan sát L,M,N... Tôi có thể ghi nhận, theo dõi liên tục từ
10 đến 15 bước trước khi tâm ý trôi mất (phóng dật), hay tôi đã bị tác động bởi
các cảnh vật và các âm thanh (sắc và thinh).
Những hiện pháp kế tiếp
có thể liền được trình bày trong diễn tiến toàn diện của chúng.
a) Khi tâm ý phóng dật,
tôi đã nhận biết chúng ngay tức thời.
b) Tôi đã ghi nhận "phóng dật", chúng nhòa đi một cách chậm dần và biến mất, rồi tôi trở lại quan sát, theo dõi sự dở, bước, đạp.
b) Tôi đã ghi nhận "phóng dật", chúng nhòa đi một cách chậm dần và biến mất, rồi tôi trở lại quan sát, theo dõi sự dở, bước, đạp.
*
Hình thức này dành cho
việc trình pháp (trình bày những kinh nghiệm hành thiền) đã minh chứng là hữu
ích vô cùng cho nhiều hành giả. Nó chỉ đường cho tâm an trụ trong đường hướng
hành thiền, thông qua việc khai mở toàn bộ những
tiến trình nào có thể xảy ra trong
thân - tâm chúng ta.
Bất cứ cái gì bạn kinh
nghiệm được trong việc hành thiền, có thể được đúc kết trong việc trình pháp
của bạn, cho dù đó là trạng thái an trú hỷ lạc của tâm, những giai đoạn tình
cảm hay tâm tư gặp khó khăn hay chướng ngại pháp mạnh mẽ. Lợi ích lớn nhất của
cách thức trình pháp hành thiền đặc biệt này là, giúp bạn tập trung niệm một
cách trực tiếp trên sự tu chứng, còn hơn là đánh
mất mình trong tư duy
miên man và tản mác về những gì xảy ra.
Sự liên hệ nan giải này
trong việc trình pháp cùng sự nhận thức mạnh mẽ, sâu sắc hơn, làm minh bạch và
thấu đáo về thiền định.
Nguồn: Budsas
0 nhận xét:
Đăng nhận xét