
NAMO TASSA
BHAGAVATO ARAHATO SAMMÀSAMBUDDHASSA
Tôi đem hết lòng thành kính làm lễ Đức Thế Tôn,
Ứng cúng, Chánh Biến Tri.
*
Để góp phần váo sự hoằng dương Phật Pháp, tôi xin trích dịch một
bài luận thuyết của ngài DHAMMANANDA để cống hiến cho đồng bào, Phật tử và giúp
quý vị them tài liệu trong sự nghiên cứu để tìm hướng đi chân chính cho cuộc
đời.
Đây là lần đầu tiên làm, nên không tránh khỏi những khuyết điểm sơ
sót. Vậy xin các ngài Đại đức Cao Tăng hoặc các bậc Cao minh tha thứ và chỉ
giáo cho, tôi xin muôn vàn cảm tạ.
Sau đây tôi thành kính dâng quả phúc này đến thầy tế độ Hòa thượng
Tăng Thống Giới Nghiêm, thầy Yết Ma Thượng Tọa Hộ Nhẫn chủ trì Thiền Lâm Tự Huế,
song thân Trần Điệu và Lê Thị Bướm cùng các bậc hữu ân.
Đồng thời, tôi xin hồi hướng quả phúc này đến các bậc Đại Đức Cao
Tăng, thân bằng quyến thuộc nhứt là ông bà nội Trần Sậy và Trần thị Lưng cùng
toàn thể thiện nam tín nữ và Phật Tử, nhứt là Trần thị Ngọc Châu và Đoàn Văn
Xuân Thúy đã quá vãng xin hưởng được sự an vui.
Và tôi cũng không quên cảm ơn Ngài DHAMMANANDA tác giả quyển sách
này.
Phật Bảo Tự, ngày
7-3-1970
Tỳ khưu Pháp Tâm
Tỳ khưu Pháp Tâm
Mỗi người cần phải có một Tôn giáo và tôn giáo đó phải là một Tôn
giáo không đầu độc người theo trong sự mê tín dị đoan, phải minh bạch và hợp
với lý trí. Người nào không có tôn giáo, người đó sẽ trở nên nguy hiểm với xã
hội. Hiện nay các nhà khoa học và các nhà tâm lý học đã lan tàn khắp chân trời
của chúng ta. Nhưng họ chẳng đem đến cho ta mục đích thiết thực trong đời sống,
duy chỉ có tôn giáo mới làm được việc này. Do đó, con người cần nên chọn một
tôn giáo hợp với luân lý, đạo đức và khoa học do đức tin của chính mình. Không
ai có quyền áp buộc người khác tuân theo tôn giáo của họ. Và đưng để cho ai lợi
dụng sự nghèo hèn, sự thất bại hoặc tình cảm của mình để cho họ bắt chẹt mình
phải tuân theo Tôn giáo của họ.
Đã là con người, chúng ta nên tự do chọn một tôn giáo hiêp theo sở
thích, khả năng và lý trí của chúng ta. Nếu theo tôn giáo một cách mù quáng,
không cần đến sự tìm hiểu thì sẽ làm mất đi giá trị tinh thần của chính mình và
tôn giáo đó.
Loài người khác hẳn loài thú là nhờ có lý trí và tri giác để phân
biệt giữa sự đúng và sai, điều phải lẽ trái, việc thiện hoặc ác.Con người có
thể tùy cơ ứng biến trong mọi trường hợp. Vì vậy, con người nên nghiên cứu, tìm
hiểu hầu chọn tôn giáo nào hợp theo chân lý, không có giáo điều nào huyền bí
thần thoại.
*
CON ĐƯỜNG TRUNG ĐẠO
Tôn Giáo, tôi sẽ đề cập trong bài luận này, nó có một hệ thống
giáo dục hợp với khoa học, đã được khai sang ra cách đây trên 25 thế kỷ do một
vị Thầy hoàn toàn giác ngộ và đầy đủ long từ bi bác ái.
Tôn giáo này còn được hiểu như là:
"Con đường trung đạo, chánh đạo, một hệ thống triết học và là
một tôn giáo tự do và chân lý". Nó dạy cho chúng ta làm ba điều chánh gọi
là: tránh xa tội lỗi, làm việc lành và làm cho tâm trong sạch do sự bài trừ tất
cả thể trạng bợn nhơ".
Tôn giáo này đóng một vai trò quan trọng về sự hướng dẫn con người
làm thế nào hợp theo luân lý và đạo đức. Một ngày nọ, vị thượng sư đã nói rằng:
"Những lời nào mà tôi đã nói ra không nên vội tin mà cũng
không nên vội bỏ, hãy suy xét rồi hãy thực hành".
Tôn giáo này khuyến khích con người nên nghiên cứu tìm hiểu giáo
lý của nó một cách đầy đủ, và còn để họ tự do xem xét đặng quyết định, chấp
thuận những giáo lý ấy hay không.
Tôn giáo này không van nài cầu khẩn hoặc đem vật chất lo lót cho
ai để theo nó, ngoài sự hiểu biết về giáo lý của nó.
Những nghi thức, những phong tục rườm rà không làm cho tôn giáo ấy
có ý nghĩa và gía trị thực sự. Không có sự mê tín dị đoan không có sự thực hành
huyền hoặc và không có giáo lý huyền bí ở trong tôn giáo này. Mọi điều đều được
sang tỏ đối với sự lựa chọn của những người theo, họ tự do tìm hiểu, nghiên cứu
những giáo lý và học hỏi những câu hỏi bất cứ khi nào họ muốn làm cho sang tỏ
những nỗi nghi ngờ thắc mắc trong long họ. Nhờ vị sang lập ra tôn giáo vĩ đại
này. Ngài chấp thuận nó là một tôn giáo cao quý nhất đáng cho mọi người đặt
niềm tin vào. Vì vậy con người không nên tin tưởng điều gì một cách vội vàng,
hoặc xem nó như đã có từ trước do đáng trượng phu Ngài đã thuyết, mà nên dung
đến lý trí và sự tri giác của mình.
Tôn giáo này dạy rằng: con đường bát chánh đạo cao quý gồm có: 1/
Chánh kiến (hiểu thấy đứng đắn), 2/ Chánh tư duy (suy nghĩ chính chắn), 3/
Chánh ngữ (lời nói chân thật), 4/ Chánh nghiệp (nghề nghiệp chân chánh), 5/
Chánh mạng (nuôi mạng sống chơn chánh), 6/ Chánh tinh tấn (siêng năng chuyên
cần làm việc phước thiện hiệp theo lẽ đạo), 7/ Chánh niệm ( ghi nhớ những điều
chơn chánh), 8/ Chánh định ( gom tập không cho chạy theo ảo tưởng). Nó như là
một con đường trung đạo hiệp nhất, chỉ có con đường bát chánh đạo này mới đưa
chúng sanh đang bị chìm đắm, trầm luân thoát khỏi sự đau khổ cõi đời được.
Con đường trung đạo này chẳng phải là con đường huyền hoặc, chẳng
phải là con đường thuộc về nghi thức, chẳng phải chủ thuyết độc đáo hoặc hoài
nghi, chẳng phải chủ thuyết bi quan hoặc yếm thế, chẳng phải chủ thuyết tuyệt
đối hoặc lạc quan, nó là con đường về sự giác ngộ, một phương tiện để thoát
khỏi sự thống khổ. Tôn giáo này không bao giờ dạy rằng: loài người đang chịu sự
khổ não trong thế gian này ngày nay vì do những tội lỗi của tổ tiên truyền lại,
mà trái lại mỗi người đều mang theo cái phước hoặc tội tùy thuộc riêng mỗi cá
nhân họ đã tạo. Chính họ chịu sự đau khổ hoặc chính họ hưởng được sự an vui.
Người nào theo con đường trung đạo đã được đưa ra do tôn giáo này
chắc chắn sẽ tìm thấy chân hạnh phúc và sự thanh bình thật sự.
*
GIEO NHÂN NÀO GẶT QUẢ NẤY
Tôn giáo này làm cho ý nguyện sâu xa và cao thượng của con người
được toại nguyện và còn có thể đem lại một động cơ và khuynh hướng tốt trong
đời sống hằng ngàycủa con người, giúp họ giao thiệp với bạn bè, ngoài ra còn
cho họ một lý tưởng trong đời sống. Nó không đầu độc những sự sợ sệt lo âu vào
trong con người. "Làm thiện sinh ra thiện và làm ác sinh ra ác".
"Mọi hành động đều có sự phản ứng của nó” đây là luật định
thông thường. Tôn giáo này hoàn toàn đồng ý với những định luật đó. Vì vậy con
người gieo gì thì phải gặt cái đó. Những hành động xấu xa tội lỗi do người nào
đã phạm, tùy theo sự tham lam, sân hận và si mê. Những sự yếu kém như thế chỉ
có thể bị đánh bại do sự tự kềm chế của mình. Sung sướng và đau khổ, con người
đã từng trải trong cõi đời này không phải tùy thuộc uy quyền bên ngoài mà tùy
vào những hành động, lời nói và việc làm thiện hay ác của họ. Họ đã phạm chẳng
phải trong kiếp này hoặc một trong những kiếp quá khứ, mà họ đã tạo ra rất
nhiều. Vì chính nguyên nhân đó, tôn giáo này dạy rằng: "Hiện tại chúng ta
là kết quả của những gì mà chúng ta đã tạo và chúng ta sẽ gặt quả của những gì
mà chúng ta đang làm". Do lời dạy này, nhân và quả đóng một vai trò quan
trọng trong đời sống hằng ngày. Trong cái vòng tròn nhân và quả, không thể
tưởng tượng được nhân là đầu tiên vì nhân hằng trở nên quả và quả trái lại trở
nên nhân.
*
ĐẤNG THƯỢNG SƯ
Vị sáng lập ra tôn giáo duy nhất này không phải là một vị thần
tiên, nhưng là một vị Thầy cao cả đã thực sự sống trong thế gian này. Ngài
không bao giờ giới thiệu hoặc tự cho Ngài là một siêu nhân, nhưng là một con
người đã giác ngộ chân lý, sự bí mật của cuộc đời và nguyên nhân thực sự của sự
đau khổ và hạnh phúc. Ngày nay vị Thầy cao cả này không phải chỉ được ca tụng
do hằng trăm triệu tín đồ của Ngài mà còn do những nhà trí thức học giả khắp
thế giới đều ca tụng Ngài. Con người cao quý này còn gọi là vị giải phóng, nhà
cách mạng xã hội ,nhà dân chủ, nhà mô phạm, nhà đại từ đại bi đã sống một cuộc
đời cao thượng này, nhưng hiện nay Ngài không còn nữa, Ngài đã ra đi đến một
nơi vô sanh bất diệt, hưởng thọ được 80 tuổi, để lại hậu thế một kho tang pháp
bảo là những lời vàng ngọc của Ngàicho quần sanh hầu thực hành theo những gì mà
Ngài đã vạch sẵn, để hưởng hạnh phúc trong cõi đời này và sẽ đến nơi vô sanh
bất diệt là nơi thanh bình hạnh phúc và trường tồn vĩnh cửu.
Đấng Thượng sư, Ngài đã khuyên giải và an ủi đến những gia đình có
người chết, Ngài đã giúp đỡ cho những người nghèo khổ đã bị đời sống bạc đãi bỏ
quên, Ngài làm cho đời sống của những kẻ gian ngoa xảo trá trở nên cao quý và
đời sống của những kẻ đê hèn, tội lỗi trở nên hiền lương chất phát. Ngài khuyến
khích những kẻ nhu nhược nên đoàn kết, làm sang tỏ si mê, gạn lọc những mê tín
dị đoan, hướng dẫn ra khói sự tối tăm, bước lên nấc thang và làm cho trở nên
bậc cao quý. Tất cả các vị giàu sang, nghèo khổ, thánh nhân hoặc phàm nhân đều
quý mến Ngài.
Những đấng minh quân hay bạo chúa, các vị Hoàng Tử, Tướng tá có
tiếng tốt hay gian ác, những nhà bá hộ giàu lòng bác ái hay bỏn xẻn keo kiệt,
các bậc hiền triết hoặc tự tôn tự đại, những kẻ khốn cùng, những người ăn
mày,những người lao động, những kẻ sát nhân ác đức, những cô gái mãi dâm bị
người đời khinh rẻ, tất cả đều được lợi ích và quay đầu hướng thiện khi nghe
những lời dạy bảo cao siêu và đầy từ ái của Ngài. Gương cao quý của Ngài là
nguồn từ bi bác ái đối với tất cả quần sanh.
Sắc mặt, hình dung Ngài trầm tĩnh ung dung tự tại làm cho bất cứ
những ai nhìn thấy Ngài đều tôn kính ngay. Những lời an lành và đầy khoan dung
của Ngài đã được mọi người lãnh hội với niềm vui khó tả, là một ân huệ duy nhất
đối với những ai đã có cơ hội nghe thấy và thực hành theo lời lẽ đó.
Ngài có ý chí cương quyết, trí tuệ thâm trầm, tình thương đại
đồng, từ bi vô biên, không vị kỷ. Ngài đã từ bỏ cuộc sống vinh hiển đầy đủ uy
quyền trong thế gian, để sống một đời hoàn toàn trong sạch không mê chấp. Những
đức tính cao cả đó đã làm giáo lý của Ngài được truyền tụng cho đến hết nguyện
lực cuối cùng của Ngài.
Tât cả những yếu tố đó đã làm cho một phần năm quần chúng trên thế
giới ngày nay kính trọng và xem Ngài như là vị giáo chủ tối cao của họ.
Đức thầy cao cả này đã hy sinh mọi dục thú ở đời để quan tâm đến
chúng sinh đang đau khổ, do đo mà Ngài đã giác ngộ được chân lý, và Ngài chỉ
dạy con đường cho chúng sinh thoát khỏi sự thống khổ. Ngài hăng hái đi thăm
những kẻ nghèo khổ tật nguyền, trong khi đó các vị vua chúa và các quan tướng
lại đến thăm Ngài.
Trong 45 năm sau khi Ngài giác ngộ, Ngài đã hiến trọn đời Ngài, vì
sự quan tâm và thương xót đến quần sanh đang đau khổ mà Ngài chỉ nghỉ ngơi hai
giờ trong một ngày.
Đấng Thượng sư này chẳng sợ ai và cũng không đầu độc những nỗi sợ
sệt lo âu vào người nào. Đó là một trong những điểm chính đáng được gieo rải
khắp trong thế giới chiến tranh liên tiếp của chúng ta, vật quý báu nhất chính
là kiếp sống con người, thế mà đã bị cưỡng bách và làm tôi mọi cho năng lực nhục
dục và đã dược trang bị bằng những khí giới sợ sệt hoài nghi và oán hờn.
Ngài là một khoa học gia hoàn toàn trong lĩnh vực đời sống, đến
đỗi những lời dạy của Ngài đã được rất nhiều người ca tụng như là một Tôn giáo
khoa học độc nhất. Ngài xem xét con người một cách kỹ lưỡng về tên và hình thể
và biết rằng con người đó có khả năng có thể đạt đến chân lý. Ngài rọi vào tia
ánh sáng giác ngộ đánh tan đi màn vô minh (sự tối mê ngu dốt) che lấp. Đối với
đạo đức Ngài có một hệ thống kỷ luật cao nhất. và Ngài là một nhân vật điển
hình hoàn toàn về tất cả những đạo đức do Ngài đã giảng dạy, đời Ngài không còn
một vết nhơ nào nữa.
Ngài không còn e dè trong vấn đề thuyết phục tất cả thủ lãnh các
tôn giáo khác để tin theo, tuy vậy Ngài không bao giờ cưỡng bách, bắt buộc, họ
như là những phương tiện để lợi dung.
Ngài là một vị giúp việc hiền hoà đối với quần sinh, không quản
ngại hoặc chú trọng đến sự khen chê, trách móc, chính Ngài không than van khi
Ngài gặp sự đau đớn khóc liệt nhất.
*
THANH BÌNH HẠNH PHÚC VÀ TỊCH TỊNH
Đấng Thượng sư đã chỉ con đường đi đến nơi thanh bình hạnh phúc và
tịch tịnh cho mọi quần sinh. Con đường trong giáo lý của Ngài thì hợp tự do,
luân lý, đạo đức, khoa học và có thể làm cho thấy rõ hướng đi đến nơi giác ngộ.
Ngày nay, kim ngôn của đấng minh sư về sự thanh bình thì rất quan
trọng hơn trước. Khi con người đã bị say đắm trong sự sân hận, tham lam, ganh
tỵ và ngã mạn.
Vị Thầy này được sanh trong thế gian nầy đã vẹt tan đi cái màn vô
minh đen tối của sự si mê ngu dốt và hướng dẫn chúng sinh ra khỏi sự đau khổ ở
thế gian nầy khắp thế giới vẫn còn nhiều người chưa tin tưởng hoặc thực
hàoặcmojt nghi thức thuộc về tôn giáo. Tuy vậy, nếu họ chịu khó nghiên cứu và
tìm hiểu những gì mà đấng thượng sư đã dạy, họ có thể làm sang tỏ những nghi
ngờ thắc mắc trong long họ một cách dễ dàng, và bất cứ khi nào họ đã tin tưởng
đến tôn giáo, tôn giáo đó có thể đóng góp và làm họ được an vui hạnh phúc.
Dù người nào có tin tưởng Ngài hoặc không, tuy vậy giáo lý của
Ngài vẫn có ảnh hưởng đối với tất cả mọi chủng tộc, Giáo pháp của Ngài được
truyền bá trong thế gian nầy không dùng đến áp lực hoặc phải đổ một giọt máu
nào, Giáo pháp đó làm sáng tỏ lối đi để cho loài người có thể vượt khỏi thế
giới đau khổ phi lý này đến một thế giới mới đầy đủ ánh sáng, tình thương thanh
bình và hạnh phúc. Giáo lý của Ngài trải qua 25 thế kỷ vẫn còn đủ sức đương đầu
với bao nhiêu sự thử thách, không thay đổi hoặc đưa vào những luận thuyết mới
lạ, chen lẫn trong giáo lý căn bản nguyên vẹn của Ngài. Giáo lý nầy không đi
ngược lại với những chứng nghiệm hoặc phát minh của các nhà khoa học tân tiên
thuộc thế hệ ngày nay. Mặc dầu đạo đức rất cần thiết đến sự đạt đến nơi cứu
cánh tịch tịnh, nhưng chính nó vẫn chưa đủ, nó cần phải hiệp theo lý trí. Đạo
đức và lý trí giống như đôi cánh chim, Lý trí còn được so sánh như cặp mắt của
con người, đạo đức ví như cặp chân. Đạo đức còn có thể sánh như chiếc xe chở
con người đến ngõ giải thoát, nhưng chìa khoá hành động để mở ngõ là lý trí .
*
CHÂN HẠNH PHÚC THIÊN ĐÀNG
Những người theo tôn giáo này không bao giờ xem họ như những người
được ban ân huệ, mà họ có thể có cơ hội để đến thiên đàng. "Chính ta đã
tạo ra địa ngục và cũng chính ta tạo ra thiên đàng tùy theo lối sống của chính
ta". Theo đúng lời giáo huấn này, chúng tôi tin tưởng rằng: bất cứ ai cũng
có thể hưởng hạnh phúc thiên đàng lâu dài tùy theo họ hướng dẫn cuộc đời của họ
một cách chân chánh bất cứ điều gì mà họ tin tưởng họ đều dùng lý trí suy xét.
Thiên đàng không để dành riêng cho một ai cũng không bị độc chiếm do một môn
phái đặc biệt nào hoặc để dành cho người nào có đạo, nhưng nó là nơi để chung
cho tất cả.
*
CẢM PHỤC VÀ TRI KIẾN
Sự mến phục, hiểu thấy và kính trọng về những thể trạng của con
người nào đều căn cứ luân lý cao quý, những điều đó đã được duy trì do những
tín đồ của tôn giáo này. Sự quảng đại bao dung, tù bi thương sót đến những
chúng sinh khác, thì không giới hạn chỉ dành riêng cho loài người mà còn lan
tràn khắp tất cả mọi loài.
*
LẼ SỐNG
Tôn giáo này sáng tỏ và có ý nghĩa đến đổi nó giải đáp tât cả mọi
phương diện những câu hỏi thiết yếu và nó còn cung cấp một nền căn bản để giúp
loài người hướng đến đời sống thiện mỹ hơn.
Tôn giáo này không phân loài người ra làm hai nhóm là: được cứu
rỗi và bị đày đọa, nhưng nhờ sức mạnh văn minh tinh thần đã cải thiện đời sống
dã man và trở nên thuần lương, chất phát.
Những tín đồ của tôn giáo này không có tin vào sự cầu khẩn hoặc
van xin , họ chỉ tin vào sự quan trọng do chính hành động họ tạo và tin vào kết
quả do sự suy nghĩ mà đưa họ đến sự chiến thắng, điều khiển, trong sạch chính họ,
thoát khỏi tội lỗi và giác ngộ. Sự trầm tư mặc tưởng có ích lợi như viên thuốc
bổ quý báu của tâm lẫn trí.
*
CON NGƯỜI CÓ THỂ TỰ TẠO ĐỜI SỐNG
Các tín đồ của tôn giáo này tin rằng: Trí là một sức mạnh hoàn
toàn, nó vừa là người sáng tạo vừa là kẻ phá hoại con người và là kẻ kiến trúc
cho số mạng của con người. Do đó, con người có khả năng gieo trồng bất cứ điều
gì nếu họ biết làm thế nào để xử dụng trí óc của họ.
Thực ra, Tôn giáo này đã là một cái nhà đầy đủ ánh sáng và được
mọi người kính yêu vì sự dắt dẫn loài người đến nơi thanh bình, hạnh phúc và
tuyệt đối.
Thế giới ngày nay đòi hỏi, phân tích cho rõ về nguồn gốc loài
người, thuộc về kinh tế, quốc tế, Xã hội và những tư tưởng.
Để giải đáp những vấn đề phức tạp đó con người nên thực hiện lòng
từ thiện, thông cảm tương thân tương ái lẫn nhau, và điều đó, có thể phát triển
mạnh mẽ, nhờ sự hướng dẫn của tôn giáo này, làm cho tiêm nhiễm sự kết hợp luân
thường đạo lỷ trong trí để thực hiện lòng bác ái.
Đã là con người phải hiểu rằng: sự mở mang thuộc về tin thần quan
trọng hơn sự khuyếch trương về vật chất đối với sự hạnh phúc và an lạc của loài
người. Họ còn phải thực hiện sự chân thật, công bằng bình đẳng, bác ái và từ
bi, lúc đó chính họ sẽ trả lời những câu hỏi trên và thế gian này sẽ trở nên
một chỗ thiện mỹ hơn.
*
TÔN GIÁO CHÂN CHÍNH
Không có đạo đức nào hơn sự rải tình thương khắp cả quần sinh,.
Không có hạnh phúc thanh cao nào hơn sự yên lặng tinh thần, không có sự chân
thật nào rõ ràng hơn sự hiểu thấy chân tướng của vạn vật, không có tôn giáo nào
cao quý hơn cả sự phát triển thuộc về lý trí hợp với chân lý và không có triết
lý nào sâu xa hơn điều nào mà có thể đem lại về những kết quả có thể làm cho
mọi người thấy một cách hữu hiệu .
*
TÔN GIÁO TỰ DO
Tôn giáo này không ngăn chặn hay cấm đoán người nào nghiên cứu,
tìm hiểu giáo lý của các tôn giáo khác.Bởi vì lòng tin mãnh liệt thì không cần
đến những điều gì cả. Kẻ cuồng trí không thể cho phép chính họ được hướng dẫn
bằng một nguyên lý hay tốt hơn do điểm thiết yếu về sự quan sát và phân tích
hợp với khoa học . Do đó, người theo tôn giáo này phải là một con người tự do
chọn lựa có tâm hồn khoáng đạt, không chấp trước, không nhờ cậy người nào mở
mang kiến thức của họ.
Nếu quý vị cố gắng đọc thêm một ít nữa về con đường hợp đạo đức
của tôn giáo này quý vị sẽ tìm thấy rằng: quý vị sẽ đả phá những sự hiểu lầm từ
trước mà quí vị đã sẵn có về tôn giáo này.Con người không nên đánh giá trị của
một tôn giáo nào một cách vội vã, bằng cách quan sát những hành động nào đó đã
có sẵn do một số tín đồkhông được học hỏi thay vì con người nên luôn luôn cố
gắng tìm hiểu những giáo lý căn bản của tôn giáo đó.
*
CON NGƯỜI VÀ THƯỢNG ĐẾ
Thay vì đặt con người và số mạng của họ dưới quyền điều khiển độc
đoán của một vị thượng đế mà không một ai biết người là ai rồi tôn người là bậc
có quyền lực tối cao.
Tôn giáo này nâng cao địa vị loài người, và thừa nhận rằng: con
người có đức tin nhưng đức tin phải hợp với lý trí.
Tôn giáo này bảo chúng ta nên làm việc nghĩa đối với mọi người mà
không cần một ân huệ nào cả.
Các tín đồ thuộc tôn giáo này tránh xa điều tội lỗi không phải vì
sợ thượng đế trừng phạt , nhưng vì hiểu rằng đó là những nguyên nhân đem đến sự
đau khổ cho chúng sanh. Họ làm những việc thiện giúp đỡ kẻ khác không phải làm
cho Thượng đế hài lòng, hầu mong cầu ân huệ, nhưng vì lòng vị tha, thương xót
đến những kẻ khác.
Tôn giáo này dạy cho quý vị làm thế nào để tìm thấy một con đường
đến sự hoàn toàn thiện và trí tuệ siêu việt không cần một vị Thượng đế phiếm
chỉ.Sự hiểu biết cao siêu không cần đến tha lực.
Hệ thống đạo đức thế gian và ngay cả sự trừng phạt, tất cả cái đó
không do ai đặt ra mà do định luật thiên nhiên sẵn có và do chính con người
chúng ta tạo ra, sự sinh tồn vẫn tiếp diễn không một sự phân ly "linh hồn
bất diệt" chân hạnh phúc tuyệt đối không có thiên đàng giả tạm. Có thể xảy
ra những hình phạt , nhưng không có vị cứu thế nào tha thứ hoặc gánh chịu thế
cho ai. Nơi tịch tịnh, trong đó mọi người đều là vị cứu tinh của chính họ. Con
người nào được sanh trong kiếp này và ở trên quả địa cầu đều do kết quả mà họ
đã gieo.
Không có sự vui thú nhục dục , cuộc đời còn kéo dài chăng? Không
có tin tưởng sự vô sanh bất diệt con người có thể ở hợp luân thường đạo lý
chăng? Không van xin cầu khẩn đến thượng đế con người có thể tiến bộ đến chân
lý chăng? Đấng sáng lập tôn giáo này trả lời rằng: đúng thế, những điều sau
cùng đó có thể đạt đến được do công việc thiện, do sự làm cho tinh khiết, kỷ
luật và trí tuệ.
Những đức tính tốt đó sẽ mang lại sự yên tĩnh, thanh bình, hạnh
phúc và cứu cánh đối với đời sống.
*
ĐỊNH LUẬT VŨ TRỤ
Định luật vũ trụ như đã giảng giải ở trong tôn giáo này đã giải về
vấn đề đau khổ, sự bí ẩn về số mạng và thuyết tiền định do một số tôn giáo đưa
ra, các Thần đồng hoặc siêu nhân, cùng sự bất đồng của nhân loại . Tìm hiểu về
định luật đó làm cho họ thoả mãn, hy vọng, tự tin và lòng can đảm hợp theo đạo
lý. Sự hiểu biết đó làm cho họ tinh tấn (siêng năng). Thiện tâm và lòng nhiệt
thành của họ tăng lên mãi và khuyến khích con người làm phước thiện , nhẫn nại
và xem xét, vì họ hiểu rằng không có thế giới nào hoàn toàn thiện hoặc hoàn
toàn ác trong vũ trụ này, duy chỉ có một nơi hoàn toàn an lạc họ có thể đến đó
khi nào họ diệt được ái dục và đánh tan màng vô minh.
*
TÔN GIÁO TỐI TÂN
Đây không phải là lý thuyết nhưng là một con đường thực dụng cho
đời sống, đây là tôn giáo xưa nhất trong lịch sử . Tuy vậy, vẫn tối tân nhất
trong mọi phương diện. Nó khuyên con người không nên làm nô lệ cho bất cứ thần
tiên hoặc uy quyền tối thượng nào, nhưng nên khai thác uy lực ẩn kín, tiềm tàng
trong con người bằng cách dùng sự tinh tấn và lý trí để chiến thắng những khó
khăn đó.
Người ta muốn có những đức tính tốt nên nhờ vào tôn giáo hợp lý sẽ
làm vừa lòng trong kiếp này, và trong đời vị lai, tôn giáo đó phải là một tôn
giáo hợp với khoa học, luân lý đạo đức và sự tiến bộ văn minh. Tôn giáo này sẽ
làm cho tín đồ của nó được hãnh diện trong thế giới văn minh này.
Thực ra, tôn giáo này là một khoa học trên các khoa học khác, xã
hội học ở trên tất cả xã hội học khác và tiến bộ hơn tất cả sự tiến bộ thuộc
lãnh vực tinh thần .
*
KHÔNG PHÂN BIỆT GIAI CẤP
Đây là một tôn giáo lần đầu tiên trong lịch sử đã đứng lên cách
mạng hang rào giai cấp giữa người và người, đưa sự bình đẳng vào trong loài
người, nhờ có cơ hội bình đẳng đó mà con ngươgi có thể nhận ra lối đi trong
đời. Tôn giáo này còn đưa sự tự do thật sự đến phái yếu để nghiên cứu học hỏi
và thực hành một tôn giáo , sự bình đẳng xã hội nam nữ bình quyền đầu tiên
trong lịch sử của thế giới đều do tôn giáo này chủ xướng.
Đấng Thượng sư Ngài tuyên bố rằng: các cửa ngõ vô sanh bất diệt đã
mở rộng cho tất cả những ai dù cho địa vị cao sang hay thấp hèn, hiền lương
hoặc tội lỗi muốn quay đầu về với chân thiện mỹ và mong mỏi đến đó. Ngài không
có ép buộc tín đồ của Ngài trở nên nô lệ cho chính Ngài hoặc giáo lý của Ngài
mà Ngài để cho họ hoàn toàn tự do suy nghĩ.
*
VÔ THƯỜNG
Tôn giáo này phân chúng sanh ra làm hai phần, hồn và xác tất cả
đều ở trong trạng thái biến đổi, không duy trì hai sát na trong một thời gian.Sự
phát triển hoàn toàn về trạng thái hợp luân lý đạo đức này vẫn thay đổi một
cách chắc chắn. Vì vậy nên con người gây ra sự chém giết lẫn nhau và làm cho
bánh xe luân hồi tiếp tục xoay chuyển. Do đó chẳng có gì sẽ tồn tại thường,
luôn cả trong thế giới này lẫn thế giới khác. Tôn giáo này tin rằng: nhiều
chúng sanh tùy thuộc hệ thống trong mỗi thế giới khắp cả vũ trụ.
*
NHỮNG MỆNH LỆNH VÀ GIỚI LUẬT
Không có những mệnh lệnh nào trong tôn giáo này bắt buộc phải tuân
theo. Thay vì chỉ có những điều giới để quý vị tùy ý xem xét. Do sự xem giới
luật như: tránh xa sự sát sinh (không giết, không bảo người khác giết bất cứ
chúng sanh nào), sự trộm cắp ( không lấy vật gì mà người khác chưa cho), sự tà
dâm ( không quyến rũ vợ, chồng con người khác theo mình), sự nói dối ( không
nói những việc có nói không, không nói có hoặc tự mình đặt ra làm cho người
khác tin) và sự uống rượu hoặc các chất say. Họ có thể làm cho trong sạch chính
họ, và còn giúp sinh vật khác sống một cách an lành.
*
MỤC ĐÍCH CỦA CHÚNG TÔI
Mục đích của chúng tôi trong sự ấn tống bài luận thuyết này không
phải làm cho người khác phải theo đức tin của chúng tôi, nhưng chỉ làm cho thấy
rõ đường chân nẽo chánh để tìm đến sự thanh bình hạnh phúc. Và để thực hành tôn
giáo tùy theo sự tôn sung tín ngưỡng của họ, miễn sao đừng tin tưởng một cách
mù quáng. Chúng tôi khuyến khích mọi người thực hành tôn giáo của chính họ, nếu
họ có thể tìm thấy sự chân chính, thanh nhàn hạnh phúc, hợp lý trí và thoát
khỏi sự thống khổ cõi đời trong tôn giáo đó.
Tôn giáo này còn có thể trả lời bất cứ vấn đề gì về tinh thần hoặc
nó có thể vạch cho một hướng đi tươi sáng và làm sáng tỏ ý nghĩ của quý vị có
lien quan đến tôn giáo và triết học. Nó còn giúp quý vị hiểu đời sống văn minh
Á châu. Quý vị sẽ tìm thấy trong tôn giáo này một sự hướng dẫn tinh thần trong
thế giới tân tiến này, để xa lánh những điều xấu xa tội lỗi.
Tôn giáo này đã đem lại cho thế giới một tinh thần mới, hy vọng và
con đường mới. Sự chân thật và những điều thiết yếu mà đã được tìm hiểu và thấu
rõ trong ngày hôm nay cũng như nó đã có từ trước.
Quý vị đã có lý tưởng chưa? Nếu có hoặc không, chúng tôi mời quý
vị bỏ chút ít thì giờ để nghiên cứu về tôn giáo này và những tư tưởng của vị
sáng lập ra nó. Chúng tôi sẵn sàng giúp quý vị.
Tôn giáo vĩ đại đã được đề cập trong bài luận này là Phật Giáo
nguyên thủy và người sáng lập ra tôn giáo này chẳng ai khác hơn là Đức Phật
GOTAMA (Thích Ca)
Dịch xong ngày
7-3-1970
tại Phật học viện Phật Bảo
tại Phật học viện Phật Bảo
0 nhận xét:
Đăng nhận xét