Đã
đọc: 1592

Tứ diệu đế, tiếng
Pāli viết là, Cattāri Ariya Saccāni, Phạn ngữ, चत्वारि
आर्यसत्यानि, chữ la tinh hóa đọc là catvāry āryasatyāni.
Catvāry trong phạn ngữ có
nghĩa là con số bốn, viết từ chữ, चत्वारि,catvāri [dạng trung tính.
catur] thuộc về số. Catvāraḥ là thân danh từ dạng nam tính và Catasraḥ thuộc về
giới nữ tính.
Arya là một chủ đề còn
nhiều bàn luận trong giới nghiên cứu ngôn ngữ cổ, ngày nay. Tuy nhiên nó cũng
có nhiều định nghĩa được xử dụng qua các bài thánh ca trong Rigveda hay các văn
bản của các tôn giáo như là : Ấn giáo, đạo Jain và Phật giáo… và đôi khi
được gọi chung là Arya pháp.
ārya, आर्य,
viết từ chữ अर्य,arya có gốc động từ [ṛ], thân từ có bốn dạng : Cách
tách li, nam tính, nữ tính, trung tính. Thuật ngữ này là một từ trong
tiếng Phạn xưa, có nguồn gốc từ thời Ấn-Ba tư, hay thời tiền Ấn-Âu.
Arya có nhiều ý nghĩa
như sau : người phục vụ với lòng nhiệt thành, tận tâm, trung tín,
trung thành, thân thiện, chăm sóc, cao quý, đẳng cấp thứ ba trong 4 giai cấp Bà
la môn, đức tính, quý tộc, tốt hơn, chúa, làm chủ, đáng kính, danh dự, thầy,
chủ nhân, chân chính, chiến binh tinh thần, anh hùng, người đã làm việc cho sự
bình đẳng của tất cả và được yêu mến tất cả mọi người, tiến bộ, văn minh, các
kinh nghiệm, người tiên tiến, cấp trên,
Trong các văn bản Phật
giáo, thường thấy chữ ariya hay ārya được dùng với các danh từ
như : Dhammavinayo ariyassa, Việt dịch là Phật Pháp và Giới Luật,
āryasatyāni catvāry, ý Việt là Bốn chân lý cao qúy, hay Tứ diệu đế và Bát Chánh
Đạo được gọi là āryamārga hay āryāṣṭāṅgikamārga hoặc ariyamagga trong tiếng
Pāli.
Những người tu Phật giữ
giới luật nghiêm chỉnh theo con đường Phật giáo cũng gọi là āryas. Phản nghĩa
của āryas là anāryas.
Trong văn bản Phật giáo
Trung Quốc, Arya được dịch là : thánh.
Satyāni được viết từ chữ,
सत्य satya [sat-ya] thân từ có bốn dạng : Cách tách li,
nam tính, nữ tính, trung tính. Satyā có nhiều nghĩa như sau : Đúng,
sự thực tế, sự thật, lời hứa, lời thề, chân thành, trung thực.
Qua những định nghĩa trên
trong Phạn ngữ. चत्वारि आर्यसत्यानि, Catvāry āryasatyāni, Cattāri Ariya Saccāni, ý Việt được
hiểu là : Bốn sự thật cao qúy mà Đức Phật đã thuyết pháp, cho năm anh em A
nhã Kiều Trần Như nghe lần đầu tiên, tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la
nại, sau khi Ngài thành đạo.
Làm thế nào để
hiểu được sự mầu nhiệm của Tứ Diệu Đế trong cuộc sống ngày nay ?
Không nỗi bất hạnh nào có
thể so sánh được, khi nghịch cảnh của cuộc đời đưa những bé thơ vào cuộc mưu
sinh không Cha thiếu Mẹ. Những đứa trẻ đang lầm lũi với những ước mơ nhỏ bé của
mình là mong được mọi sự giúp đỡ và được lớn lên trong vòng tay ấm áp của mọi
người.
Một dấu chấm hỏi lớn đặt
ra giữa cuộc đời, trong tâm hồn non nớt, đang cần sự chia sẻ giúp đỡ hảo tâm
của những tấm lòng Từ, Bi, Hỷ, Xả, muốn được cảm thông và sẻ chia cùng
các em.
Số phận nghiệt ngã của
những đứa trẻ đang ở tuổi ăn chưa no, lo chưa tới, vẫn tin rằng, trên trái đất
này, vẫn còn đâu đó, những bàn tay rộng mở sẽ nắm lấy những bàn tay côi cút, bé
bỏng, để các em có cơ hội được sống và được thực hiện mơ ước nhỏ nhoi hiền hoà
của mình.
Người học Phật thấy khổ,
hiểu được nguyên nhân của sự khổ, tìm cách giúp cho đỡ khổ, bằng những phương
tiện mình có trong khả năng, thì đây cũng chính là sự áp dụng một phần của Tứ
Diệu Đế mà Đức Phật đã dạy khi xưa, đi vào đời sống hiện thực ngày nay.
Ngài cũng có nói rằng :
Phải tự, sống, chiêm nghiệm, kiểm chứng, xác thực bằng bản thân cá nhân của
mình trước, cho đến khi cảm thấy điều đó là Ngài nói đúng, thì mới đem chỉ cho
người khác, để đạt được thành qủa giống như cái mình đã làm.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét