Ý nghĩa của đế thứ nhất khổ, là chúng ta phải hiểu sự thật
thứ nhất này một cách rõ ràng và chính xác, bởi vì như đức Phật dạy:
"Người nào thấy rõ được khổ cũng thấy luôn nguyên nhân của khổ, cũng thấy
luôn sự diệt khổ và cũng thấy luôn con đường đưa đến sự diệt khổ"

4. Hành uẩn (Skt: vijñāna-skandha, Pāli: samkhàrakkhandha).
Uẩn thứ tư là chỉ cho những sự tạo tác của tâm thức hay các hoạt động của ý
chí, gồm xấu hay tốt. Những tác nhân do tâm ý tạo ra thuộc nội tâm thì thường
được gọi là nghiệp, chúng thuộc vào uẩn nầy. Như chính đức Phật đã định nghĩa
về nghiệp như sau: "Hỡi các Tỳ Kheo, chính ý muốn ta gọi là nghiệp. Khi đã
muốn, thì người ta liền thực hành bằng thân, miệng, ý. Ý muốn là sự tạo tác
bằng tâm ý, hoạt động tâm linh. Công việc của nó là dắt dẫn tâm ý trong phạm vi
những hoạt động xấu, tốt hoặc không xấu không tốt" (trang 19, sđd). Cũng
như cảm giác (thọ) hay tri giác (tưởng), hành cũng gồm sáu loại, tương quan với
lục căn (sáu quan năng nội giới) và sáu cảnh (6 đối tượng ngoại giới tương ứng)
cho cả vật lý và tâm lý. Ở đây, cảm giác và tri giác không phải là những hoạt
động ý chí, vì chúng không phát sinh những nghiệp quả, chỉ có những hoạt động
do ý chí mới phát sinh nghiệp quả. Có tất cả 52 tâm sở (những hoạt động tâm ý)
như thế, tạo nên hành uẩn.
Hành uẩn ở đây được quan niệm như là những hoạt động của ý
chí vậy. Cũng như cảm giác, tri giác, ý chí có được về thế giới vật chất, chúng
ta có thể nhận biết qua những trung gian bằng mắt ... bằng xúc chạm đối với thế
giới bên ngoài, không những chỉ có tác ý thôi mà còn cộng thêm vào phân biệt
nữa và còn mang những tri giác đó trở thành đối tượng của tâm thức qua ký ức
nữa như thọ uẩn, tưởng uẩn. Nhưng ở đây, ý chí khác với cảm giác và tri giác ở
chỗ: cảm giác và tri giác không phát sinh ra những nghiệp quả, còn hoạt động
của ý chí phát sinh ra nghiệp quả. Và những ý chí này theo đức Phật dạy trong
kinh Tạp A-hàm q. 1, Đ. 1, phẩm 1, Tương ưng I, Ngũ uẩn. Từ kinh 1 đến kinh 7,
đức Phật dạy các Tỳ-kheo là hãy quán sát và tư duy chân chánh về ý chí (hành
uẩn) một cách rõ ràng là vô thường. Tỳ-kheo nào đối với ý chí không biết, không
rõ, không đoạn tận, không ly dục thì không thể đoạn trừ khổ não; tâm không giải
thoát, thì không vượt qua khỏi sự sợ hãi về sanh, già, bệnh, chết. Tỳ-kheo nào
đối với ý chí mà yêu thích, thì đối với khổ cũng yêu thích. Tỳ-kheo nào đối với
ý chí, không biết, không rõ, không lìa tham dục, tâm không giải thoát thì sẽ
không vượt qua khỏi sự sợ hãi về sanh, già, bệnh, chết. Tỳ-kheo nào yêu thích ý
chí, thì cũng yêu thích khổ. Ai yêu thích khổ thì đối với khổ không được giải
thoát. Và cũng trong kinh Tạp A-hàm q.1, Đ.1, phẩm 2, Tương Ưng I, phần Ngũ
uẩn, từ kinh 8 – 12, đức Phật cũng dạy các Tỳ-kheo, ý chí quá khứ, vị lai là vô
thường huống chi là ý chí hiện tại. Ý chí là vô thường. Vô thường tức là khổ.
Khổ tức là chẳng phải ta. Cái gì chẳng phải ta thì cũng chẳng phải sở hữu của
ta. Tỳ-kheo nào quán sát như vậy gọi là chân thật chánh quán. Hay ý chí là vô
thường. Vô thường tức là khổ. Khổ tức là chẳng phải ta. Cái gì chẳng phải ta
thì cũng chẳng phải sở hữu của ta. Tỳ-kheo nào quán sát như vậy gọi là chân
thật chánh quán. Hoặc ý chí là vô thường. Nhân và duyên sanh ra các ý chí,
chúng cũng vô thường. Vậy, các ý chí được sanh ra từ nhân và duyên vô thường,
làm sao có thể là thường được? Hay ý chí là vô thường. Nhân và duyên sanh ra
các ý chí chúng cũng vô thường. Vậy, các ý chí được sanh từ nhân và duyên vô
thường, làm sao có thể là thường được? Đó chính là những lời dạy của đức Phật
cho các Tỳ-kheo về hành uẩn, qua đây hành uẩn chính là những ý chí. Ý chí này
chính là ý muốn, là sự tạo tác bằng tâm ý, nói chung đó là hoạt động tâm linh.
Công việc của nó là dắt dẫn tâm ý trong phạm vi những hoạt động xấu, tốt hoặc
không xấu không tốt. Những ý chí tạo ra nghiệp này chúng cũng mang tính chất vô
thường, khổ, vô ngã. Chúng phải được chúng ta quan sát và tư duy một cách chân
chánh về chúng như vậy, và sau khi chúng ta quan sát tư duy chân chánh như vậy
rồi thì buộc chúng ta phải xa lìa chúng, vì bản thân chúng chính là vô thường,
khổ, vô ngã, không có sở hữu. Chúng chính là khổ trói buộc, nên chúng ta muốn
giải thoát khổ trói buộc thì phải xa lìa chúng. Xa lìa chúng chính là xa lìa
sinh-già-bệnh-chết trong quá khứ hiện tại và tương lai.
5. Thức uẩn (Skt: vijñāna-skandha, Pāli: vinnànakhandha).
Uẩn thứ năm là thức, là một phản ứng có căn bản, phát xuất từ sự phối hợp giữa
sáu căn và sáu cảnh để có được sáu thức, là một trong sáu giác quan, và đối
tượng tương ứng của một trong sáu giác quan là một trong sáu hiện tượng ngoại
giới. Chẳng hạn, nhãn thức có được nhờ con mắt tiếp xúc với một hình sắc thấy
được làm đối tượng... và cho đến ý thức có được là nhờ có tâm ý làm căn bản,
một sự vật thuộc tâm giới, như một ý niệm hay tư tưởng (pháp), làm đối tượng,
để phát sinh ra sáu thức. Như vậy, thức liên quan với những quan năng khác và cũng
như thọ, tưởng, hành, thức gồm sáu loại tương quan với sáu căn và sáu cảnh.
Như vậy rõ ràng thức không nhận ra một đối tượng là gì chỉ
vì thức ở đây chưa qua tác ý, chỉ là một thứ rõ biết về sự hiện diện của một
đối tượng mà thôi. Như khi mắt xúc tiếp với một màu xanh chẳng hạn, nhãn thức
liền phát sinh, nhưng chỉ là một sự ý thức về sự hiện diện của màu sắc, chứ
không nhận ra đấy là màu xanh. Ở đoạn này chỉ xuất hiện có thấy đối tượng như
là chính nó, chứ chưa qua tác ý nhận thức là gì, tức là không có sự nhận thức.
Chỉ khi nào có sự can thiệp của tri giác mới nhận ra rằng đấy là màu xanh. Vậy
"nhãn thức" là một từ ngữ triết học ám chỉ cùng một ý như chữ thấy,
nghe, ngửi mùi, nếm vị, xúc chạm, ý, thông thường. Thấy không có nghĩa nhận
biết. Các loại khác của thức (nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức) cũng
vậy. Như đức Phật đã dạy cho một vị đệ tử tên là Sāti (What the Buddha Taught,
by Ven. Walpola Rahula (1959, 1974) Thích nữ Trí Hải dịch Saigon 1966 - trang
20): "Thức được gọi tên tùy theo bất cứ điều kiện đối tượng nào nhờ đấy nó
phát khởi: nhờ con mắt và những hình dáng mà một thức phát sinh, và nó được gọi
là nhãn thức; nhờ tai và âm thanh mà một thức phát sinh và nó được gọi là nhĩ
thức; nhờ mũi và mùi mà một thức phát sinh và nó được gọi là tỷ thức; nhờ lưỡi
và vị mà một thức phát sinh và nó được gọi là thiệt thức; nhờ thân thể và những
sự vật sờ mó được mà một thức phát sinh và nó được gọi là thân thức; nhờ tâm ý
và những đối tượng tâm giới (tư tưởng hoặc ý nghĩ) mà một thức phát sinh, và nó
được gọi là ý thức." Và những thức này theo đức Phật dạy trong Kinh Tạp
A-hàm q. 1, Đ. 1, phẩm 1, Tương Ưng I, Ngũ uẩn. Từ kinh 1 đến kinh 7, đức Phật
dạy các Tỳ-kheo là hãy quán sát và tư duy chân chánh về thức (thức uẩn) một
cách rõ ràng là vô thường. Tỳ-kheo nào đối với ý chí không biết, không rõ,
không đoạn tận, không ly dục thì không thể đoạn trừ khổ não; tâm không giải
thoát, thì không vượt qua khỏi sự sợ hãi về sanh, già, bệnh, chết. Tỳ-kheo nào
đối ý chí mà yêu thích, thì đối với khổ cũng yêu thích. Tỳ-kheo nào đối với
thức, không biết, không rõ, không lìa tham dục, tâm không giải thoát thì sẽ
không vượt qua khỏi sự sợ hãi về sanh, già, bệnh, chết. Tỳ-kheo nào yêu thích
thức, thì cũng yêu thích khổ. Ai yêu thích khổ thì đối với khổ không được giải
thoát. Và cũng trong Kinh Tạp A-hàm q.1, Đ.1, phẩm 2, TươngƯng I, phần Ngũ uẩn,
từ kinh 8 – 12, đức Phật cũng dạy các Tỳ-kheo, thức quá khứ, vị lai là vô
thường huống chi là thức hiện tại. Thức là vô thường. Vô thường tức là khổ. Khổ
tức là chẳng phải ta. Cái gì chẳng phải ta thì cũng chẳng phải sở hữu của ta.
Tỳ-kheo nào quán sát như vậy gọi là chân thật chánh quán. Hay thức là vô
thường. Vô thường tức là khổ. Khổ tức là chẳng phải ta. Cái gì chẳng phải ta
thì cũng chẳng phải sở hữu của ta. Tỳ-kheo nào quán sát như vậy gọi là chân
thật chánh quán. Hoặc thức là vô thường. Nhân và duyên sanh ra các thức, chúng
cũng vô thường. Vậy, các thức được sanh ra từ nhân và duyên vô thường, làm sao
có thể là thường được? Hay thức là vô thường. Nhân và duyên sanh ra các thức
chúng cũng vô thường. Vậy, các thức được sanh từ nhân và duyên vô thường, làm
sao có thể là thường được? Đó chính là những lời dạy của đức Phật cho các
Tỳ-kheo về thức uẩn, qua đây thức uẩn chính là những ý thức. Ý thức này chúng
cũng mang tính chất vô thường, khổ, vô ngã. Chúng phải được chúng ta quan sát
và tư duy một cách chân chánh về chúng như vậy, và sau khi chúng ta quan sát tư
duy chân chánh như vậy rồi thì buộc chúng ta phải xa lìa chúng, vì bản thân
chúng chính là vô thường, khổ, vô ngã, không có sở hữu. Chúng chính là khổ trói
buộc, nên chúng ta muốn giải thoát khổ trói buộc thì phải xa lìa chúng. Xa lìa
chúng chính là xa lìa sinh-già-bệnh-chết trong quá khứ, hiện tại và tương lai.
Qua ngũ uẩn như chúng tôi trình bày ở trên, cho thấy cái mà
ta gọi là một "linh hồn" hay "cá thể" hay "tôi",
chúng cũng chỉ là một cái tên gọi, một nhãn hiệu chúng ta đặt cho một sự tích
hợp của năm uẩn đó, để phân biệt với cái khác cùng lúc hiện hữu với nó. Nhưng
nếu năm tích hợp này đứng độc lập thì cái mà chúng ta gọi là linh hồn, bản thể,
cá thể, hay cái tôi chúng sẽ không hiện hữu. Như vậy sự hiện hữu có được của nó
là một hiện hữu giả tạm trên mặt tích hợp, do nhân duyên hòa hợp nương vào nhau
mà sinh khởi và biến dịch theo luật vô thường. Tất cả chúng đều vô thường, tất
cả đều hằng biến. "Bất cứ cái gì vô thường đều là khổ". Đó là ý nghĩa
chân chính của lời Phật dạy: "Tóm lại, Ngũ uẩn trói buộc là khổ"
(trang 421, sđd).
Tóm lại, về ý nghĩa của đế thứ nhất khổ, là chúng ta phải
hiểu sự thật thứ nhất này một cách rõ ràng và chính xác, bởi vì như đức Phật
dạy: "Người nào thấy rõ được khổ cũng thấy luôn nguyên nhân của khổ, cũng
thấy luôn sự diệt khổ và cũng thấy luôn con đường đưa đến sự diệt khổ"
(Trang 21 sđd). Vậy thì khổ theo như đức Phật đã dạy ở trên thì điều này không
làm cho Phật tử chúng ta buồn rầu phiền muộn, để rồi đưa đến bi quan yếm thế
như một vài người lầm tưởng. Mà ngược lại, Phật tử chân chính chúng ta sẽ là
những người hạnh phúc nhất trần gian. Bởi vì chúng ta sẽ không phải chịu khổ
đời đời, kiếp kiếp nữa, nếu chúng ta thấy được khổ của chính chúng ta, để từ đó
chúng ta thấy luôn nguyên nhân của khổ; thấy được sự diệt khổ, sẽ được thực
hiện qua việc chúng ta thấy rõ con đường đưa đến sự diệt khổ và theo đó chúng
ta thực hành thì khổ đối với chúng ta không còn là gì nữa. Đối với nó, chúng ta
không sợ hãi lo lắng và dao động nữa. Chúng ta sẽ có một cuộc sống an bình
thanh thoát và sẽ không bị bất cứ tai nạn hay biến chuyển nào làm cho chúng ta
điêu đứng đảo điên, vì chúng ta đã thấy mọi sự vật đúng như thật. Mặc dù cuộc
sống chúng ta có bất hạnh khổ đau, nhưng một Phật tử chúng ta không nên thất
vọng và buồn đau vì nó, và cũng không nên oán hận hay thiếu kiên nhẫn vì nó.
Theo đức Phật, oán hận hay thù ghét là một trong những điều xấu xa nhất ở đời.
Vì nó là tiền đề đưa chúng ta đến những hành động gây bất hạnh và đau khổ cho
chính chúng ta và chúng sanh khác. Nếu chúng ta có thái độ thiếu kiên nhẫn
trước khổ đau là một thái độ sai lầm. Sự thiếu kiên nhẫn hay oán hận trước khổ
đau không làm cho đau khổ biến mất. Mà ngược lại sẽ tăng thêm rối ren và làm
mọi việc trở nên trầm trọng trước một hoàn cảnh vốn đã khó chịu đối với chúng
ta. Điều quan trọng ở đây không phải là oán hận hay thiếu kiên nhẫn, mà chúng
ta phải thấu đạt rõ ràng vấn đề khổ đau, nó đã được phát sinh thế nào, làm sao
chúng ta xua đuổi nó ra khỏi cuộc sống, và tùy đó mà hành động theo tám phương
cách chân chánh (bát chánh đạo) như chính đức Phật đã dạy, với ý chí kiên nhẫn,
có nghị lực, sáng suốt và quả quyết. Cứu cánh cuối cùng của Phật giáo là an
vui, tự tại. Theo đức Phật muốn đạt được an vui tự tại thì phải giải thoát tất
cả mọi thái độ tư tưởng buồn đau, phiền muộn, u ám và chúng ta xem đó là một
trở ngại cho việc thực hiện chân lý đạt Niết-bàn, chúng ta cần phải loại trừ
chúng.
(Còn tiếp)
-------------------------------------------------------------------------------------------------------
[1] . Đại thừa và sự liên hệ với Tiểu thừa, HT. Thích Minh
Châu dịch, tr. 327.
[2] . Đ.1, Trung A hàm 7, tr. 0462a-0462b.
[3] . Đại tỳ-bà-sa luận 77[3], tr . 0397a-0397b-0397c .
[4] . Đại tỳ-bà-sa luận 77[4], tr . 0397a-0397b-0397c
[5] . Câu xá luận 22[5], Đ.29, tr. 0113c-0114a.
[6] . Đại tỳ-bà-sa luận 78, Đ. 27, tr . 0401c.
[7] . kinh A hàm 15[7], Đ. 01, tr.
[8] . Câu xá luận 24, Đ. 29, tr. 0128c.
[9] . Câu xá luận, Đại 29, tr. 119b.
[10] . Hiển dương Thánh giáo luận 7, Phật quang Đại từ điển.
2, Tr. 1842a.
[11] . Đại bát Niết-bàn 7, Đ. 12 Tr. 0647a-0647c.
[12] . Thắng Man bảo khốt của Cát Tạng quyển hạ, Phật quang
Đại từ điển. 2, Tr. 1842a.
[13] . Thắng Man giảng luận, TT. Tuệ Sỹ, tr.283-284-285.
[14] . Thắng Man giảng luận, TT. Tuệ Sỹ, tr. 134.
[15] . kinh Niết-bàn 5. phẩm Đức vương, Đ. 12, tr.
[16] . Nhân duyên sở sinh pháp… Đ. 30, Trung luận, phẩm Tứ
đế, tr. 33)
[17] . Đại thừa và sự liên hệ Tiểu thừa, HT. Thích Minh Châu
dịch, tr. 363.
[18] . Đ. 30, Trung luận, q 4, phẩm quán Tứ đế 24,
Ārya-satya-parīkṣā, tr. 32.
[19] . Đại thừa và sự liên hệ Tiểu thừa, HT. Thích Minh Châu
dịch, tr. 340-341.
[20] . Đ. 30, Trung luận, q 4, phẩm quán Tứ đế 24,
Ārya-satya-parīkṣā, tr. 33.
[21] . Đ. 30, Trung luận, q 4, phẩm quán Tứ đế 24,
Ārya-satya-parīkṣā, tr. 33.
[22] . A-nậu đa-la tam-miệu tam-bồ-đề là phiên âm từ
Anuttarasamyuak-Sambodhi tiếng Sanskrit, là chỉ trí tuệ giác ngộ viên mãn bình
đẳng của đức Phật; còn gọi là vô thượng chánh biến tri, hay vô thượng chánh
đẳng chánh giác.
[23] . Đ. 30, Trung luận, q 4, phẩm quán Tứ đế 24,
Ārya-satya-parīkā, tr. 34


07:28
ĐẠO PHẬT CHÂN CHÍNH
Posted in:

0 nhận xét:
Đăng nhận xét