“Bất cứ cái gì vô
thường đều dẫn đến khổ đau; Tự ngã cũng như vậy”. Do đó, chúng ta sẽ không nhầm
lẫn khi nhận biết rằng ba nguyên lý trên là giáo lý căn bản của đạo Phật, mang
nét đặc thù từ tất cả hệ thống tôn giáo trong lịch sử nhân loại.
“Tất cả là vô thường” là
một trong ba nguyên lý căn bản của Phật giáo (vô thường, vô ngã và niết-bàn
tịch tịnh). Ba nguyên lý[1] này dựa trên toàn bộ cấu trúc của đạo Phật: Phật
giáo Nguyên thủy, Phật giáo Tiểu thừa và Phật giáo Đại thừa.
Những tín đồ của Phật
giáo Đại thừa, chính họ đã xác nhận bằng sự tương phản với Phật giáo Tiểu thừa
về sự thành lập một nguyên lý cao siêu, đặc biệt hơn ngay trong chính họ, đó là
niềm tin qua lời phát biểu của Sarvam Tathātvam: “Tất cả là như vậy”. Song,
nguyên lý này không phải là tiêu điểm trong bất cứ sự mới lạ nào. Bởi vì, lý lẽ
hợp nhất sẽ đưa đến kết luận xác thực về ba nguyên lý trình bày ở trên, mà
niết-bàn là tối thắng. Trong tất cả kinh điển thường đề cập đến “Tất cả là
khổ”, vấn đề này cũng được xem như là tiêu điểm đầu tiên trong cuộc sống. Vì
không có gì hơn hệ luận thứ nhất là nguyên lý tối thượng, cái mà tạo nên chân
lý trong thế giới hiện tượng “Tất cả là vô thường”. Theo quan điểm của các
triết gia: “Bất cứ cái gì vô thường đều dẫn đến khổ đau; Tự ngã cũng như vậy”.
Do đó, chúng ta sẽ không nhầm lẫn khi nhận biết rằng ba nguyên lý trên là giáo
lý căn bản của đạo Phật, mang nét đặc thù từ tất cả hệ thống tôn giáo trong
lịch sử nhân loại.
TIẾN TRÌNH KHẢO
SÁT NGUYÊN LÝ VÔ THƯỜNG
LUẬT VÔ THƯỜNG
TRONG VŨ TRỤ
Cái gì được gọi là dấu ấn
(mudrā) của nguyên lý căn bản trong đạo Phật?
Nguyên lý có cùng nguồn
gốc của Heraclitus[2] “tất cả là một dòng chảy mạnh” (IIanta Pei) nghĩa là tất
cả sự vật đều thay đổi trong trạng thái tương xứng, lời phát biểu này liên quan
đến thế giới hiện tượng, thừa nhận sự chứng thực phong phú từ các nhà nghiên
cứu khoa học hiện đại. Lời bình luận sắc bén về nguyên lý này do Giáo sư Rhys
Davids trình bày, một trong những tác phẩm nổi tiếng được xuất bản gần đây của
ông.
Theo Phật giáo, những học
giả kỳ cựu cho rằng “Không có sự tồn tại mà chỉ có sự xứng hợp duy nhất, mỗi
trạng thái riêng biệt của chúng sanh không xảy ra cùng một lúc mà sanh diệt
tương tục”. Tất cả các pháp bao gồm con người, sự vật… chúng ta tìm thấy hình
thái và đặc tính riêng biệt của chúng để cấu thành một vật thể. Hơn nữa, trong
mỗi cá nhân không có sự tương phản về mối liên quan của vạn vật, các yếu tố hợp
thành nó là sự thay đổi thường hằng và không bao giờ giống nhau, vì hai sự vật
sanh diệt tiếp liền nhau. Sự sắp xếp các yếu tố tương xứng nhau, nghĩa là tương
xứng mà khác biệt và khác biệt tương xứng có thể xảy ra mà không có sự hủy
diệt, sự xa lìa, điều mà không thể tránh được ở vài thời điểm hoặc một lúc nào
đó có thể hoàn thành được.
NGUYÊN NHÂN
Tại sao tất cả các pháp
là vô thường, và chúng lệ thuộc vào luật vô thường như thế nào?
Những nhà nghiên cứu
Triết học uyên thâm về đạo Phật sẽ trả lời rằng: Luật vô thường do các nhà sáng
lập tôn giáo nêu ra đều có liên quan đến luật Nhân quả, chúng không thể tách
rời nhau được, bởi vì không có vật gì trong thế giới hiện tượng có thể tồn tại
mà không do các nguyên nhân khác hợp lại thành. Ngay trong cái tên giả định,[3]
ngụ ý sự phát sinh và hủy diệt trong cùng một phương cách chính xác. Vì thế,
đức Phật đã dạy trong kinh Đại Bát-niết-bàn (Mahāparinirvāṇasūtra):
“Các ông nên biết! bất cứ cái gì tồn tại đều phát xuất từ nguyên nhân và điều
kiện trong mọi phương diện vô thường”.
KHẢO SÁT VỀ LUẬT
VÔ THƯỜNG
SÁT-NA VÔ THƯỜNG
Sát-na vô thường là gì?
Trong thời đại hiện nay
không có nhà khoa học nào nghi ngờ về phép tắc của những vấn đề không thể phá
hủy được để bảo tồn năng lượng trong thế giới vật chất. Đạo Phật thừa nhận
rằng, tác dụng của những quy luật này trong thế giới thực thể như những bản kinh
của Sarvāstivavādins, vì nó duy trì tính bất diệt trong trạng thái bản thể của
các pháp suốt ba thời kỳ: Quá khứ, hiện tại và vị lai. Trong kinh Pháp Hoa nói,
“các pháp vốn như vậy”.[4] Thật vậy, theo Phật giáo, tất cả sự vật không có
điểm khởi đầu cũng không có điểm kết thúc. Chúng ta khó nhận biết được: “Một
vật phát xuất từ cái không hoặc cái không phát xuất từ một vật nào đó và điều
không thể xảy ra nếu có một vật tồn tại thì không thay đổi”. Trong kinh Pháp Cú
(bản kinh Pāli) nói: “Trong bầu trời không có biển cả mênh mông, không có hang
động núi lớn, một nơi như thế không thể có sự sống, nơi mà con người có thể trú
ẩn và không ai có thể vượt qua sự chế ngự bởi cái chết”. Bởi vì sanh và tử là
hai phạm trù đối lập hoàn toàn, tử là sự thay đổi đột ngột và thậm chí làm xáo
động tinh thần của người chết cũng như những người đang hiện hữu trong cuộc
sống hiện tại, sự thay đổi này tùy thuộc vào sanh, lão, bệnh… Theo Phật giáo,
đây là một trong những nỗi thống khổ nhất của con người mà trong kinh điển
thường đề cập đến. Bằng ngôn ngữ chuyên môn trong Triết lý Phật giáo, đó là sự
thay đổi liên quan đến cái chết ngụ ý sự vô thường của vạn vật. Mặc khác, ý
nghĩa về sát-na vô thường biểu thị sự khác nhau giữa trạng thái sanh và trạng
thái tử, giữa sự vật vô tri và vô giác… Trong Luận giải Madhyātānugama[5] về
giáo lý Duy Thức, ngài Vô Trước (Asaṅga) đã nói: “Tất cả vạn vật được
phát sanh ra do nhiều nguyên nhân hợp lại thành, không có vật nào mà tự nó tạo
nên, khi sự kết hợp bị tan rã thì sự hủy diệt theo sau”. Như cơ thể con người
bao gồm bốn yếu tố (tứ đại): đất, nước, gió, lửa; khi tứ đại hợp thành thì ngấm
ngầm sự hủy diệt bên trong. Đó gọi là sự vô thường của một thực thể sanh diệt.
SANH DIỆT VÔ
THƯỜNG
Là sự vô thường nhanh
chóng trong từng ý niệm, nó thay đổi hoàn toàn, cái mà xảy ra bên trong bất cứ
một chúng sanh nào hay một sự vật nào, ngoài sự tập hợp của các pháp thì xuất
hiện sự sanh diệt ngay lúc đó. Như vậy, mỗi người, mỗi vật luôn luôn thay đổi
và không bao giờ giống nhau, vì hai sự kiện hoạt động tiếp nối nhau. Trong
Triết học Phật giáo gọi là “sanh diệt vô thường”, nguyên lý này được giải thích
theo quan điểm Phật giáo là bất cứ sự thay đổi nào của vạn vật đều sanh diệt
không ngừng trong từng khoảnh khắc.
Theo Bách khoa Triết học
của Phật giáo Tiểu thừa mang tựa đề A-tỳ-đạt-ma Đại Tỳ-bà-sa Luận”
(Abhidharmamahāvibhāṣāśāstra) bản gốc Sanskrit bị thất lạc, chỉ còn bản dịch
tiếng Hán của ngài Huyền Trang, trong đó nói rằng: một ngày 24 giờ có
6.499.99.980.000.000 sát-na (kṣaṇas); tập hợp năm uẩn
(skandhas) sanh diệt trong từng sát-na. Ngài Phật Âm (Buddhaghaṣa)[6],
người khuếch trương một luận điểm nổi tiếng về Phật giáo Sri Lanka vào đầu thế
kỷ thứ V sau CN, đó là tác phẩm Thanh Tịnh Đạo (p: visuddhi-magga). Quả thật,
sự sống của một chúng sanh vô cùng ngắn ngủi tương ứng với con người trong giai
đoạn cuối cùng của một cuộc đời, ví như bánh xe ngựa đang quay vòng tại một
điểm của lốp xe và chỉ một điểm mà thôi. Ngay cả cuộc sống của một chúng sanh
cũng vậy chỉ kéo dài trong giai đoạn rất ngắn trong một ý niệm và khi ý niệm đó
dừng lại thì sự sống cũng dừng lại. Như vậy, chúng sanh trong quá khứ đã sống
mà không sống.
Năng lượng chuyển động
của các sự vật do yếu tố nào mà thay đổi? Chúng ta thấy xe ngựa có khả năng di
chuyển, nhưng nó không di chuyển nếu không có chủ ý trong sự chuyển động bởi
năng lượng bên ngoài nào đó. Giống như cối xay nước quay được là nhờ năng lượng
của nước, và quạt gió tùy thuộc vào sức đẩy của gió mới có thể quay được.
Trái đất cũng vậy, cần phải có sức hút của mặt trời để quay quanh trục của nó.
Quả thật, tất cả vạn vật cần phải có một loại năng lượng chuyển động nào đó, để
thay đổi từ trạng thái này sang trạng thái khác. Chúng ta biết rằng, vũ khí
không thể hoại diệt chính nó và ngón tay không thể chỉ ra chính nó. Rồi chúng
ta có thể hỏi cái gì là năng lượng làm cho tất cả sự vật thay đổi? Khi trả lời
câu hỏi này, ngài đã đề cập đến sanh, trụ, dị, diệt (utpāda, sthiti, janā,
nirodha). Ngài nói, đây là bốn đặc tính hợp thành các sự vật; và ngài đã thêm
vào quyền sở hữu của bốn đặc tính này thì tất cả vạn vật trải qua sự biến cải
và lệ thuộc vào sự lập lại chính nó trong sự xoay vòng không có điểm dừng lại.
Nhất thiết hữu bộ
(Sarvāstitvavādins), theo thuyết Duy thực thuộc Phật giáo Tiểu thừa, có liên
quan đến bốn đặc tính sanh, trụ, dị, diệt. Bởi vì một pháp chỉ xuất hiện hoặc
tồn tại qua sự phân chia ba thời: Quá khứ, hiện tại, vị lai. Theo học thuyết
của bốn đặc tính này gọi là tứ tướng (catur-lakṣaṇa).
Trong triết học Phật giáo: (1) Sanh, sự tồn tại của mọi sự vật chuyển đến một
trạng thái từ hiện tại đến tương lai; (2) Trụ, cũng tồn tại, cái mà tạo nên tất
cả sự vật trong thực tế hoặc là trạng thái nhận biết ngay khi một vật xuất hiện
từ tương lai trở về hiện tại do ảnh hưởng của sanh; (3) Dị là cái gì mà con
người kéo dài sự sống trở nên nhợt nhạt của tuổi già, đang có mặt sự hoại diệt;
(4) Diệt là yếu tố cuối cùng đưa đến sự hoại diệt, cái mà phá hoại tất cả sự
vật chuyên chở nó đến quá khứ. Đây là lý do được giải thích tại sao trong thế
giới hiện tượng, không có vật gì có thể thay đổi trong cùng một trạng thái do
hai vật chuyển động liên tục tiếp nối nhau. Tóm lại, tất cả sự vật đang thay
đổi liên tục do hoạt động của bốn đặc tính này.
Sau khi đức Thế Tôn nhập
niết-bàn, các vị đệ tử của Ngài đã thảo luận về bốn đặc tính này và cho rằng nó
tồn tại đồng thời hoặc thay đổi liên tục. Trường phái Nhất thiết hữu bộ
(Sarvāstitvavādins) đã duy trì một cách liên tục tính đồng nhất của chúng, còn
Kinh lượng bộ (Sautrāntikas) thì nói rằng chúng tồn tại trong cùng một sát-na,
trong lúc đó những đối thủ của họ thì trung thành một cách cố chấp theo quan
niệm rằng, bốn đặc tính không tồn tại cùng một lúc, nhưng chính nó đã kéo dài
một cách liên tục vượt qua giới hạn của một sát-na.
TỰ TÁNH VÔ THƯỜNG
(TÁNH KHÔNG)
Tự tánh vô thường là sự
thay đổi tương tục của các hiện tượng trong vũ trụ, bao hàm sự sanh diệt vô
thường. Đây là một khấu trừ hợp lý đơn giản, một sự phân tích kỹ lưỡng về học
thuyết vô thường, sự tồn tại của các hiện tượng trong việc phối hợp thời gian
tạo nên bề rộng về học thuyết Tánh không (Śūnyatā) đã đưa ra một cách không
tương xứng. Nhận biết rằng, mỗi chúng sanh sẽ chết đi là một quy luật tất yếu,
nhưng không dễ để cảm nhận rằng tất cả chúng sanh đang kề cận cái chết như ngày
và đêm trôi qua hoặc là nó đang biến chuyển liên tục trong từng sát-na. Đối với
tâm uế trược, đó là một vấn đề hết sức phức tạp để nắm giữ trạng thái của con
người hay bất cứ sự vật nào mà chính nó là vô thường. Theo ngôn ngữ chuyên môn
của Triết học Phật giáo, đối với ý niệm bên ngoài thì tự tánh duyên khởi của
các pháp là Tánh không (Śūnyatā). Quả thật, đây là sự kết thúc cuối cùng, là
kết luận chính đáng và phải lẽ được rút từ nguyên lý đầu tiên của đạo Phật, đó
là “Tất cả là vô thường”. Khi nhận thức đúng đắn về kết luận này thì dễ dàng
thực hiện quan niệm về ý nghĩa chân thật của Tánh không (Śūnyatā) có thể mang
nhiều ý nghĩa khác nhau trong triết lý Phật giáo. Nó đã tỏ ra như một cạm bẫy
thực sự đối với các nhà phê bình Phật giáo Châu Âu và Châu Á. Hầu như các cây
bút Phật giáo phương Tây cho rằng Tánh không (Śūnyatā) đồng nghĩa với hư vô hay
là sự hủy diệt. Nhưng đối với Phật giáo, ý nghĩa về Tánh không mang bản chất
khác xa với sự nhận thức. Tác giả hiểu về nó với ý nghĩa “mọi vật xuất hiện đều
thay đổi liên tục từng bước trong thế giới hiện tượng”. Theo sự lý giải của
Cưu-ma-la-thập (Kumārajīva) qua bản dịch Trung luận[7] của Bồ-tát Long
Thọ nói: “Tầm quan trọng của tánh không (śūnyatā) là mọi vật trở nên hợp
lý, nếu không có nó thì vạn vật trong vũ trụ sẽ rỗng không”.[8] Hơn nữa, đó là
chân lý vô thường mà tính chất của tất cả sự vật tùy thuộc vào khả năng của nó.
Nếu mọi vật không lệ thuộc vào sự thay đổi liên tục mà là thường hằng và nếu
không thể thay đổi thì tức khắc phát sinh ra dòng chảy con người và sự phát
triển sinh vật sống sẽ dẫn đến ngừng hoạt động. Nếu con người không bao giờ
chết mà luôn tiếp tục trong cùng trạng thái như vậy, kết quả sẽ được gì?
Tiến trình về dòng chảy
con người sẽ ngừng mãi mãi. Bài bình luận “Nét phát họa về Phật giáo Đại thừa”
là tài liệu mà mỗi nghiên cứu sinh Triết học nên có trong tay, Giáo sư Tiến sĩ
Suzuki, một Triết gia uyên bác, người đồng hương với tôi trình bày chi tiết về
ý niệm Tánh không-Śūnyatā trong phong cách của một bậc Thầy lỗi lạc. Tánh không
mang nghĩa hạn chế về sự tồn tại của mọi hiện tượng, nó đồng nghĩa với vô ngã
(anitya) hay duyên (pratīya). Vì thế, Tánh không có nghĩa là phủ định, sự khiếm
diện của tính cá biệt, sự không tồn tại của những cá nhân như là trạng thái
đang thay đổi một cách xác thực của thế giới hiện tượng, một dòng chảy liên
tục, một mạch nối tiếp diễn của nguyên nhân và kết quả. Nó không bao giờ được
hiểu trong ý thức của sự hủy diệt hay hư vô tuyệt đối.
NHẬN THỨC VỀ LUẬT
VÔ THƯỜNG CỦA VŨ TRỤ LÀ GÌ?
Thực tế, nguyên lý vô
thường trong vũ trụ không đề cập đến thế giới thực thể mà chỉ đề cập đến thế
giới hiện tượng. Sự giải thích về nguyên lý này đã được trích dẫn ở trên, giải
thích có khuynh hướng phủ định hay hủy diệt hơn là hướng đến giải thích tuyệt
đối. Đây là điểm quan trọng, không nên để mất tầm nhìn của các nhà nghiên cứu
kinh điển Phật giáo. Nhưng tại sao nó được phép thỉnh mời ngay chính đức Phật
xác định thế giới hiện tượng một cách tiêu cực? Câu trả lời trở nên dễ dàng khi
chúng ta nói đến sự phản chiếu, vì mục tiêu của đức Phật không dựa trên trường
phái Triết học mà vạch ra con đường chứng đắc và cứu vớt chúng sanh. Thật vậy,
nỗ lực tinh tấn là điều kiện cẩn thiết của các vị đệ tử vào thời đức Phật còn
tại thế. Thế giới hiện tượng luôn đè nặng lên họ với sức áp bức của cơn ác mộng
khủng khiếp và khó khăn về sự tranh đấu vì cuộc sống trong ngọn lửa thiêu đốt.
Vì thế, bằng sự giải thích tiêu cực về thế giới hiện tượng, mục đích chính của đức
Phật dường như để dẫn đạo sinh linh từ những cơn bão tố và những cơn sóng dữ của
đại dương để duy trì yếu tính bản thể, Niết-bàn tịch tịnh. Mặc dù như vậy,
nhưng bài bình luận tiêu cực về nguyên lý vô thường thì không thể không
có thuận lợi riêng của nó, “nó như vậy, nhưng không phải như vậy”, sự phủ định
ấy đáp ứng như một sự chỉ dẫn tuyệt đối.
Như vậy, từ nguyên lý vô
thường có thể tạo ra nguyên lý thường hằng là niết-bàn tịch tịnh. Hơn nữa,
trước khi ứng dụng ba nguyên lý này, chúng ta đã diễn bày như một nền tảng căn
bản của đạo Phật đối với hiện tượng và thế giới bản thể một cách tương ứng.
Chúng ta xác minh rằng nguyên lý vô thường liên quan đến thế giới hiện tượng
một cách riêng biệt; còn nguyên lý vô ngã thì có mối quan hệ cả nguyên lý vô
thường lẫn thế giới hiện tượng; và nguyên lý Niết-bàn tịch tịnh chỉ tùy thuộc
vào thế giới bản thể.■
[1]. Tam pháp ấn;
s: tri-dharma-mudrā; e: three seals of the dharma.
[2]. Heraclitus (Ἡράκλειτος
– Herákleitos (544 TCN – 483 TCN): là nhà triết học duy vật và được coi
là ông tổ của phép biện chứng. Những tư tưởng biện chứng của ông rất sâu sắc.
Cách thức thể hiện lại rất phức tạp và khó hiểu, vì vậy ông thường được gọi là
nhà triết học tối nghĩa. Hiện nay, tài liệu của ông chỉ còn khoảng 130 đoạn bàn
về tự nhiên.
[3]. Giả danh, danh ngôn
tập khí (s: upacāra).
[4]. Pháp nhĩ như thị.
[5]. Thuận trung luận
(Madhyāntānusāra-śāstra), 2 quyển, Bát-nhã Lưu-chi (Prajñāruci) dịch.
[6]. Phật Âm 佛音; C:
fóyīn; J: button; S: buddhaghoṣa; P: buddhagosa; tk. 4; Một Ðại
luận sư của Thượng tọa bộ (p: theravāda). Sư sinh trong một gia đình
Bà-la-môn tại Ma-kiệt-đà (Magadha ),
gần Giác Thành (Bodh-gayā). Sau khi đọc kinh sách đạo Phật, Sư theo Phật
giáo, đi Tích Lan học giáo lí của Thượng tọa bộ dưới sự hướng dẫn của Tăng-già
Ba-la (p: saṅghapāla thera). Sư viết 19 bài luận văn về Luật tạng
(s, p: vinayapiṭaka) và về các Bộ kinh (p: nikāya). Tác phẩm chính
của Sư là Thanh Tịnh Đạo (p: visuddhi-magga), trình bày toàn vẹn quan điểm của
phái Ðại tự (p: mahāvihāra) trong Thượng tọa bộ.
[7]. Trung luận 中論; C:
zhōnglùn; J: chūron; S: madhyamaka-śāstra, 4 quyển, được xem là một tác phẩm
của Long Thụ. Trung quán luận tụng được nối tiếp bởi chú giải của Thanh
Mục (青目; s: Pingala), được Cưu-ma La-thập dịch vào năm 409 và có bổ sung thêm
vào phần luận giải của riêng mình. Đây là luận văn căn bản cho việc nghiên cứu
tư tưởng của trường phái Trung quán (中觀派).
[8]. Dĩ hữu không nghĩa
cố. Nhất thiết pháp đắc thành.... 以有空義故 一切法得成, 若無空義者 一切則不成 Kệ
14, Quán Tứ đế, Phẩm 24
Sarvam ca yujyate tasya
śūnyatā yasya yujyate |
sarvam na yujyate tasya
śūnyatā yasya na yujyate || MMK_24,14
Nguồn Tập San Pháp Luân 71
0 nhận xét:
Đăng nhận xét