Với
lòng tịnh tín bất động, con người đầu thành vâng giữ mạng mạch giáo pháp, dốc
lòng phụng hành đạo lý mình chọn, con người nhờ vậy được chân lý, chánh pháp
che chở, thành tựu ‘Phép Phật nhiệm màu – Để mau ra khỏi luân hồi’.
Phật giáo không phải là tôn giáo để các tín đồ đến tham gia hay
phát động như một phong trào, mà tự thân con người sau quá trình học hỏi, tư
duy, nhận thức cốt lõi lời dạy của đấng Từ phụ, từ đó phát tâm tìm đến, thân
cận và quy y Tam Bảo: ‘Hôm nay mong giác ngộ hồi đầu - Tịnh tâm ý quy y Tam
Bảo’.
Với lòng tịnh tín bất động, con người đầu thành vâng giữ mạng mạch
giáo pháp, dốc lòng phụng hành đạo lý mình chọn, con người nhờ vậy được chân
lý, chánh pháp che chở, thành tựu ‘Phép Phật nhiệm màu – Để mau ra khỏi luân
hồi’.
Phương pháp hành đạo trong đạo Phật với mục đích dìu dắt tự thân
con người, chứng nghiệm đời sống tâm linh trong sạch, tĩnh lặng, bền vững, có
nghị lực vượt qua chính mình cùng các biến đổi xung quanh, để con người có thể
hòa vào tập thể, cộng đồng, xã hội rộng lớn, mà không cảm nhận lẻ loi, lạc
lõng. Như vậy mục đích cao cả, nền tảng, tối thượng của đạo Phật, trước hết dẫn
dắt, chỉ đường cho con người trở về vị trí thực, hoàn hảo, siêu việt, toàn
thiện, với phẩm chất làm chủ tự thân:
‘Chúng con khổ,
nguyện xin cứu khổ
Chúng con khổ,
nguyện xin tự độ’
Ghi nhớ ‘pháp là tối thượng giữa các loài hữu tình, đời này và đời
sau, người con Phật hành trì Bát Thánh Đạo để hiểu biết điều gì cần làm đầu
tiên, đặt niềm tin vào đó. Như thế chánh tín gắn liền với lối sống thực tiễn,
tạo cho con người cái thế cân đối, an trú chỗ dựa vững chắc, để bước kế tiếp là
trở về nội tâm bình lặng, trong sáng, ngoại lực là sự gia hộ, chiếu cố, che chở
của Tam bảo. Người hành trì được như thế, chắc hẳn nhận lãnh các đặc tánh, pháp
ấn tuyệt vời cùng sự nhiệm màu mà phép Phật ban tặng, khiến người bình thường
khác khó thực hiện được.
Ai tâm không an
trú – Không biết chơn diệu pháp
Tịnh tín bị rúng
động – Trí tuệ không viên thành
Dhp. 38
Hòn đảo tự thân
Làm chủ, sống có bản lãnh, nương tựa tự thân, hòn đảo, ngọn đèn,
…là hàng loạt các kết quả đạt được nhờ sự hiểu biết như thật về tỉnh thức, ý
chí, tự tin, quảng đại, chuyên nhất, cùng tính tự trọng, khéo điều phục hay sự
bình ổn trong cảm xúc giao tiếp, xây thành sức mạnh năng động và thành trì kiên
nhẫn giúp con người thẳng vào đích an vui giải thoát hay tự xây hòn đảo bản
thân.
Nỗ lực, không
phóng dật - Tự điều, khéo chế ngự
Bậc trí xây hòn
đảo - Nước lụt khó ngập tràn
Dhp. 25
Thật vậy, người làm chủ chính mình, là người tự am hiểu, thông
đạt, tỏ ngộ lý Tứ đế, có cách sống bình an, nơi trú ẩn an tòan, kiên cố và là
chỗ dựa vững chắc đáng để mọi người học hỏi. Người luôn trang bị cho bản thân
một tâm không dao động, không trói buộc, không hệ lụy, phiền não, vị ấy hoàn
toàn thoát khỏi mọi ràng buộc thế gian, tâm trở nên tự tại, độc lập, an nhiên
đối với các lẽ thạnh suy, thành bại, được mất, hơn thua ngay trong cuộc sống
vốn dĩ ‘như thị’ của đời này.
Bàn về chỗ dựa, lòng tin, con người cần có hai pháp căn bản (i)
tin vào quy luật Nhân quả, Nghiệp báo (ii) tin vào giáo lý Tứ đế. Tin vào quy
luật Nhân quả, Nghiệp báo, con người cần nhận thức rằng các hành động thiện có
cơ sở, mục đích sẽ đem lại kết quả an vui, cơ hội tốt, trí tuệ lành mạnh, thân
thể tráng kiện, đời sống bảo đảm. Các hành động ngược lại, sẽ trở ngại cho thân
lẫn tâm, làm cho con người luôn có cảm giác mệt mỏi, sầu muộn, bất an, uể oải,
khổ đau, mất trí nhớ và hàng loạt các trì trệ không lành mạnh khác nối
tiếp. Nếu con người như thật hiểu về các pháp gồm tuệ quán hiện tại và tuệ tri như
thật về thế giới con người đang hiện hữu, con người sẽ đón nhận kết quả như
chúng đang là. Với ý nghĩa này, chánh pháp cung cấp cho con người đường lối
quay về, thoát ly khổ đau, sáng tỏ chân lý, phát hiện bảo thành, trực nhận bình
an của chính mình hay nhận chân bản lãnh ngay trong tầm tay.
Thông đạt Tứ đế, con người từng nghiệm qua, gì là khổ riêng của
bản thân, nhân khổ từ đâu xuất phát, mau chóng đoạn diệt nó và con đường Bát
Thánh luôn dẫn mọi người đến nơi bình an. Điều cần nhắc, chánh pháp nơi con
người tìm đến nương tựa phải có liên hệ mật thiết đến cuộc sống của con người,
nghĩa là con người cần cải đổi lối sống, hoàn cảnh, môi trường sinh hoạt của
mình cho phù hợp, vừa vặn, thích nghi với chánh pháp, lấy chánh pháp làm ngọn
đuốc soi đường, làm căn cứ, nền tảng, cốt lõi để con người có thể thực
thi một cách trực tiếp khiến giảm dần các trục trặc, chướng ngại, hiểm nguy
trong khi giao tiếp. Thật sự, con người rất cần nương tựa Tam bảo để được Tăng
bảo hướng dẫn làm thế nào thâm nhập chánh pháp và thế nào để chánh pháp mãi
trường tồn. Muốn vậy, con người phát nguyện khi sanh ra, thường được: ‘Trưởng
ngộ minh sư - Chánh tín xuất gia - Đồng chơn nhập đạo’, để có thể ‘Đem phước
lành gieo rắc phàm nhân’ và để ‘theo Phật Pháp trên bước đường lành’.
Những cách trình bày trên giúp hình thành bộ phận cấu trúc không
nhỏ trong việc gia trì nội lực cá nhân, biến đổi lý thuyết nhận thức thành hành
động cụ thể, có ích, hay còn gọi ‘ biết sống đời rộng rãi’, một ‘tài sản vô
cùng quý báu’: tấm lòng khoan dung độ lượng từ đây luôn chiếu sáng. Tóm lại con
người cần nương tựa chánh pháp vì Pháp bảo hay Phật bảo, là những nơi nương tựa
soi thẳng vào tâm. Những chỗ dựa này, không tìm được từ phía bên ngoài, dù hình
thức quy y góp phần không kém cho một kết quả thực tế, hữu dụng cho sự kiếm tìm
và làm chủ đời sống tâm linh của bản thân. Bởi vì:
‘Chí phàm phu tự lực, khó thành - Cầu đức Phật từ bi gia hộ’
Năm giới nền tảng
Do vì con người biết quý trọng đời sống an lạc riêng của mình, con
người không nỡ tổn hại đời sống an lạc riêng của người. Đức Phật đã từng
khuyên: ‘Phật giới cấm chuyên trì chu đáo - Dứt tận cùng cội rễ vô minh’. Khi
con người tỏ ngộ, trở về bản lai diện mục của tự thân, họ hoàn hảo các phẩm
chất tôn quý, nhờ đều đặn tích lũy, thận trọng bảo hộ hoài bảo thánh thiện ban
sơ. Người như vậy, trong Phật giáo gọi là người đã ‘thành tựu lõi cây’ hay ‘đặt
gánh nặng xuống’.
Với chiến thắng cao cả, chiến thắng tự thân, vị này hoàn thiện ba
mục tiêu quan trọng:
(i) tránh làm các điều ác (sabba pāpassa akaraṇaṃ)
(ii) thành tựu các việc lành ((saccitta pariyodapanaṃ)
(iii) giữ tâm ý trong sạch (saccitta pariyodapanaṃ)
Nhờ tâm niệm hộ trì các giới căn bản:
1. Pāṇātipātā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi, Tôi nguyện suốt đời không sát sanh. Khi quan sát giới
này, con người phát hiện sự đau khổ của người khác, chính là sự đau khổ của bản
thân, từ đó giảm dần lối sống gây khổ cho người. Với nhận thức này con người
nới rộng tình yêu thương đến tất cả, đồng thời biết đón nhận những ai cần được
quan tâm, nhằm làm vơi nỗi sầu của người. Vì nhu cầu an lạc cho người, mọi cá
nhân cần gìn giữ giới này.
2. Adinnādānā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi,
Tôi nguyện đời đời không trộm cắp. Giới này biểu lộ sự trân trọng đến quyền lợi
mà người khác đang làm chủ về tài sản, nghĩa vụ, công sức. Nhờ quán triệt giới
này, con người từ bỏ sống bằng các phương tiện bất chính như trộm cắp, lừa đảo.
Con người trải từ bi tâm đến tất cả chúng sanh, xóa hẳn các tính bảo thủ, cố
chấp, ích kỷ. Về mặt lợi tha, người gìn giữ được giới này sẽ góp phần thúc đẩy,
xây dựng, hợp tác, thân thiện với những người chung sống.
3. Kāmesu micchācārā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi,
Tôi phát nguyện không tà dâm. Giới này khuyên mọi người biết tôn trọng mái ấm
của riêng mình và hạnh phúc nơi gia đình người. Tôn vinh giá trị đạo đức gia
đình, mọi người phải tự kiềm chế tính vô độ của bản thân, thận trọng, phát huy,
đề cao thái độ trung thành trước sau như một của đời sống gia đình, cộng đồng.
Thiếu hiểu biết về sự thật này, con người phải nhận hậu quả khó lường về sau.
4. Musāvādā veramaṇī
sikkhāpadaṃ samādiyāmi, Tôi nguyện trọn đời không nói
láo. Đức Phật dạy chúng ta không nên nói các lời vô ích, không chân thật, làm
xa cách; hãy nói những lời có ích, hòa nhã, từ tốn, nói những gì liên hệ đến sự
thật, mục đích an ổn, giải thoát, là nhân cho thiện nghiệp phát sanh. Giữ được
giới này, uy tín của người thêm tăng, nhiều người tin cậy, yêu kính và thân cận.
5. Surā - meraya - majja - pamādatthānā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi, Tôi nguyện không uống rượu, nếm các chất làm mê say
khiến mất dần lý trí, gây rối loạn tinh thần, sanh hoang mang ngờ vực. Có người
cho rằng uống rượu để thể hiện tình thân hữu khi giao tiếp, nhưng họ quên rằng
tình bạn nghiêm túc và đúng đắn thường dựa trên tấm lòng chân thật, có hiểu
biết, chia sẻ, biết động viên, an ủi, sẵn sàng tha thứ, độ lượng … không phải
mượn rượu làm khuây. Nếu cá nhân nào phạm giới này, tư duy vị ấy trở nên hỗn
loạn, bất chánh, dẫn đến các hành động thiếu tự chủ. Tài sản tiêu hao, gia đình
ly tán, sức lực cạn kiệt, công việc đình trệ, trí tuệ lu mờ, con người trở nên
vô tàm vô quý.
Nghiêm trì, tuân thủ các giới cấm, con người sẽ ‘sanh phùng trung
quốc’, sanh ra với tướng mạo, sắc đẹp tự nhiên, nết hạnh đoan chánh, thừa tự
gia tài chánh pháp để lại, có cuộc sống tịnh độ an nhàn ngay tại trần
gian.
Có thể hiểu rằng, toàn bộ lời đức Phật dạy dựa trên nội lực kiên
cố của con người, nghĩa là khi tâm con người có tỉnh thức, có chánh niệm, thì
năm giới trên được thực hiện dễ dàng, thông suốt ‘Nhân định, phát tuệ’, do biết
quán sát sự vật như chúng thật là.
Lợi ích pháp thiện (Kusala)
Từ khi hiểu đời là chuỗi nhân duyên tương tục, Phật giáo dạy con
người sống chánh niệm, liễu đạt lý duyên khởi để niềm an lạc mãi tồn tại, hiện
diện và ngự trị.
Nhận định, tìm hiểu điều thiện, căn bản thiện; bất thiện và căn
bản bất thiện; con người từ đó đi tìm cái gì là chơn, thiện, mỹ, hữu dụng để
thực thi. Bởi vì đời sống con người có liên quan nhân quả lẫn nhau, ví như hột
xoài hư không thể cho ra cây xoài tươi tốt, với trái ngon ngọt. Cũng vậy, chính
con người làm chủ vận mạng của mình và chính con người tự tạo cho bản thân
những kết quả an lạc hay khổ đau, không phải ai khác.
Thiện được hiểu theo hai nghĩa (i) xác định (con người tích cực
thực thi một cách tự nhiên, vì đó là bản chất, chủng tử hay tập khí thiện trong
con người) (ii) phủ định (cố gắng, miễn cưỡng, ngăn chặn, kiềm chế các ác, bất
thiện). Bàn gì đi nữa, kết quả hình thành của thiện có thể là nghiệp tốt
(kusala kamma), nghiệp xấu (akusala kamma) hay vô ký (abyākata kamma). Vậy thì
con người tạo ra vóc dáng và tâm trạng buồn vui của mình trong hiện tại và vị
lai với nguồn gốc tích lũy của nghiệp.
Kinh Kesamutti, còn gọi Kālāma Sutta, đề cập: Kesamutta, một thành
phố nhỏ trong vương quốc xứ Kosala, nơi đức Phật đã khuyên nhủ dân Kālāma: ‘Chớ
tin vì nghe báo cáo, chớ tin vì truyền thuyết, chớ tin vì theo truyền thống.
Chớ tin vì được kinh điển truyền tụng, chớ tin vì lý luận suy diễn, chớ tin vì
diễn giải tương tự, chớ tin vì đánh giá hời hợt những dữ kiện, chớ tin vì phù
hợp với định kiến, chớ tin vì lòng tin ấy phát xuất từ nơi có uy quyền, chớ tin
vì sa môn là bậc đạo sư của mình. Này Kālāma, khi nào tự mình biết: Các pháp
này là sai, bất thiện, hãy từ bỏ chúng; các pháp này là thiện, đúng, tốt, hãy
chấp nhận và hành theo’ …
Như vậy con người phải biết chọn lọc. Sự chọn lọc này có được, là
kết quả thâu lượm từ thái độ quan sát, tư duy, học hỏi và kinh nghiệm theo hiểu
biết (văn tư tu), giúp con người vượt khổ đau, tiến đến đời sống tương lai sáng
lạn, hạnh phúc và an lạc cho bản thân cùng tha nhân.
Yathā’pi
puppharāsimhā, kayirā mālā guṇe bahū.
Evaṃ jātena maccena, kattabbaṃ kusalaṃ bahuṃ.
Như từ một đống
hoa - nhiều tràng hoa được làm.
Cũng vậy thân sanh
tử - làm được nhiều thiện
sự. (Dhp.
53)
Thanh tịnh tâm
Bổn phận và trách nhiệm đối với con người trong đời sống hằng
ngày, là thước đo bản năng ý thức của con người. Nó tồn tại bên trong, vì thế
con người không thể đánh mất cái gọi là chất người, nhân phẩm, bản thể tự
nhiên, hay quy luật đạo đức. Nếu mỗi tâm hồn thanh tịnh, trong sáng, không cấu
nhiễm, không phiền não, sẽ kết thành nhiều tâm đồng thể thanh khiết và cả cộng
đồng ngát hương giới hạnh. Đất nước có kỷ cương, phép tắc, trật tự, giúp ngăn
chặn phần nào các tệ nạn mang tính tự phát, vụ lợi, làm ảnh hưởng, tác động xấu
đến bản chất của tập đoàn, cộng đồng.
Đức Phật là vị lương y độc tôn, đã từng thấy khổ đau trong nhân
loại, thuyết ra chân lý đầu tiên (Khổ đế) để mọi người cùng nhận định, đồng
thời chỉ ra lối thoát an toàn, đưa người đến chỗ thanh thoát, bình an. Đây là
điểm then chốt chỉ thấy trong đạo Phật. Phần lớn người ta thích đến với đạo
Phật vì Phật giáo dạy con người rất thực tế, giản dị, dễ tiếp thu đối với các
tướng ‘sanh trụ dị diệt’ để không kẹt trong thọ dụng, chấp thủ, ái nhiễm vì
thiếu hiểu biết. Con người luôn bằng lòng với hiện tại, giải quyết quá khứ và
xây dựng tương lai. Nhận thức được đời là chuỗi khổ đau, tất nhiên cần hiểu
nguyên nhân khát ái đích thực mà loại bỏ. Thấy được nhân rồi, nổ lực đều đặn,
tiêu trừ gốc rễ, để qủa sai lầm của các nghiệp nơi thân khẩu ý và những hoạt
động tiếp theo không có điều kiện tái phát. Hạnh phúc, an lạc trong tầm tay con
người, nếu vị ấy một lòng thẳng bước trên con đường trung đạo, hòa mình vào quy
luật tự nhiên, sống tỉnh thức trong từng hơi thở, quán triệt các pháp vô
thường, vô ngã, làm tươi mát mình trong hương vị giải thoát.
Anekajāti saṃsāraṃ, sandhāvissaṃ
anibbisaṃ
Gahakārakaṃ gavesanto, dukkhā jāti punappunaṃ.
Lang thang bao
kiếp sống – Ta tìm nhưng chẳng gặp
Người xây dựng nhà
này - Khổ thay phải tái
sanh (Dhp. 153)
Gahakāraka diṭṭho’si, puna gehaṃ na kāhasi
Sabbā te phāsukā
bhaggā, gahakūtaṃ visaṅkhitaṃ
Visaṅkhāragataṃ cittaṃ, taṅhānaṃ khayam ajjhagā.
Ôi ! người làm nhà
kia – Nay ta đã thấy ngươi!
Ngươi không làm
nhà nữa - Đòn tay ngươi bị gãy
Kèo cột ngươi bị
tan – Tâm ta đạt tịch diệt
Tham ái thảy tiêu
vong
(Dhp. 154)
Sống thanh nhàn
Lo lắng, sợ hãi, buồn rầu, nôn nao … là các tâm trạng tự nhiên,
len lỏi, tản mạn trong lòng mỗi người bất luận vị ấy là ai, đang có hoàn cảnh
thế nào, tuổi tác ra sao. Người với tâm trạng vui ít, khổ nhiều, thường sống
trong trạng thái hồi hộp, lo toan, buồn phiền, tinh thần dao động, sức lực cạn
kiệt, lý trí lu mờ, có hại cho tánh mạng, giảm tuổi thọ. Để vượt qua những tâm
trạng không tích cực này, con người cần hiểu biết về sự thật của công việc như
chúng đang tiếp diễn, thể trạng cá nhân, đời sống hiện tại, khả năng có thể ...
để lập ý chí, lấy lại bình tĩnh, dựng lên đổ vỡ. Bằng tấm lòng nhẫn nại, cam
khổ, vun vén, tỉnh thức, hoà nhập, thể xác phục hồi, tinh thần dần mạnh, từ đó
vững vàng nối tiếp đoạn đường phía trước.
Cho nên cần nhanh chóng tỉnh thức, tỏ ngộ cuộc đời do duyên, tất
cả có ra đều phù du, không thực thể, giả tạm, mà không nên chấp. Ai lầm chấp,
tưởng giả là chơn, sẽ chuốc nhiều phiền muộn, lo toan về sau. Một khi phiền não
chất chồng, khó lấy lại được sự bình an. Lại nữa, ngoài cái giả của cuộc đời
nên hiểu còn có cái thật nhưng mong manh, ngắn ngủi, chỉ nhứt thời để con người
có thể mượn giả thật này mà đóng góp, ghi lại, hay cống hiến cho đời, cho người
những bài học, những tấm gương, những giá trị phụng sự cao cả.
Có thể nói bài học trân trọng, quý báu cho những ai biết sống là
người ấy luôn biết trang bị cho mình cái sẽ từ giã ngay từ bây giờ và trước đó.
Như vậy, sống là phương tiện cần thiết để phục vụ cho an lạc. Hạnh phúc sẽ có
trong tay người nào biết sống. Sống chết rất hệ trọng (sanh tử sự đại) trong
kiếp làm người, vì sống quyết định cho cái chết ‘sống sao chết vậy’ và ngược
lại. Cái sống đích thực phải là lẽ sống biết quên cái tôi (attā) nhỏ bé này để
cùng hòa và phục vụ cho cái của số đông, vì lợi ích cho số đông. Hãy thử nghiệm
nhìn đời một cách như thật qua dòng tình cảm mãnh liệt đang thôi thúc ta, nó
dâng cao rồi chẳng bao lâu, lại lặng lẽ buông xuống, cứ thế lượm và buông,
khiến nó chông chênh, thay đổi, bất thường.
Vậy thì dòng đời luôn trôi chảy theo một hướng: vô thường, tùy
duyên, không có ngã và ngã sở. Con người cần chấp nhận nó như một hiểu biết,
quán triệt và phát hiện nó như một ân huệ để đón nhận tổng thể tuỳ duyên của
vạn vật. Từ đó con người giải quyết mọi việc một cách dễ dàng, êm ả (tất cả đều
là chuyện nhỏ). Sẽ đẹp biết bao nếu con người luôn giữ nét mặt bình thản với nụ
cười trên môi dù tình thế ra sao.
Thức tỉnh đời nhờ quy luật ‘sanh trụ dị diệt’, con người từ bóng
tối, u ám, dày đặc bởi vô minh lần tới ngọn đuốc, từ chỗ mệt nhoài những bất
hạnh, sở hữu hạnh phúc an lạc, giác ngộ viên mãn. Vậy đời sống mỗi cá nhân, có
thể được trắc nghiệm và kiểm tra qua kinh nghiệm hành trì của từng cá nhân.
Nếu con người biết sống với quy luật tuần hòan, sẽ tìm được cuộc
sống chánh trực, mang lại hiệu quả cao, vì tánh nết dần được lắng trong nhờ
giới đức, đức hạnh tỏa chiếu muôn nơi nhờ thấu triệt, đời sống con người từ đó
trở lại cung cấp cho con người cơ hội, nhu cầu về đạo đức và trí tuệ, là những
nhu cầu hạnh phúc tối cao.
Trực nhận sự việc
Nhìn thẳng sự việc như chúng thật là, sẽ hiểu đời theo ánh sáng
của Tam pháp ấn (ti-lakkhaṇa), một
pháp môn đưa người đến bờ an lạc nội tâm, đạt được cảm xúc bình ổn, một sự thực
vi diệu trong đời thường, được bậc Hiểu biết thế gian (lokavidū) tận tình chỉ
dạy, giải thích.
Trong ba pháp ấn, vô thường (anicca) và vô ngã (anattā) tác động
trực tiếp mang tánh vô ký, vì mọi vật tồn tại ở dạng vật chất với bản tánh thay
đổi, không có thực thể, rỗng không. Còn tất nhiên khổ (dukkha) là kinh nghiệm
sống của những sự việc có điều kiện.
Đức Phật đã từng dạy, cuộc đời con người sẽ có bình an, tâm tư
lắng dịu, hiền thục, nếu con người hiểu biết như thật về ba đặc tánh căn bản
này. Nắm vững giáo lý Tam pháp ấn giúp con người hiểu được quy luật tự nhiên
của cuộc sống, công việc, nghề nghiệp, tài sản, địa vị … mà mỗi người trải
nghiệm. Với trình độ chuẩn mực, sự thông đạt tỏ tường về khổ (dukkha), vô
thường (anicca) và vô ngã (anattā), con người sẽ tạo cho mình cuộc sống lành
mạnh, có giá trị. Nhờ vậy con người thoát khỏi những mơ tưởng bao la vũ trụ,
viển vông không thật, bởi lục dục lòng tham không đủ mà dũng cảm, can đảm chấp
nhận sự thật trên đường đời với trí tuệ như chơn về sự việc như chúng đã đang
và sẽ tiếp diễn.
Tu tập Tam pháp ấn một cách rốt ráo thì khi đương đầu, đối phó, va
chạm sự việc gì, trong hoàn cảnh nào, con người đều nhìn được mặt thật của
chúng, nhờ tuệ quán và định tâm, một yếu tố quan trọng trong giáo lý của đức
Phật. Từ ly tham, con người tự do khỏi các nắm bắt, bảo thủ, cố chấp, hiềm hận,
ganh tỵ của tự ngã, tâm nhờ vậy thoát khỏi triền phược, kiết sử, hệ lụy, tham
ưu và sự vắng lặng, trong sáng, an tịnh Niết bàn hiển hiện.
Xoa dịu đau thương
Ngày nay trong giao tiếp, các từ ‘xác định và phủ định’ thường
được sử dụng. Theo khái niệm chung, xác định nghĩa là thực hiện một cách tự
nhiên, có tâm huyết, tích cực, chuẩn mực, năng động, dũng cảm, luôn nhiệt tình
và hài lòng với công việc mình đảm nhiệm. Phủ định thường mang tính thụ động,
ép buộc, do dự, miễn cưỡng và thiếu tự nhiên.
Lắng nghe điều gì của người là sự quan tâm và tôn trọng người.
Thay vì đi tìm nguyên nhân vì sao con người thống khổ, bị dằn vặt, ưu phiền,
người nghe nên chấp nhận sự chú tâm, lắng lòng, chỉ nghe lời nói của đương sự
nhằm xoa dịu nỗi khổ hiện tại của họ, không nên có ý kiến lúc này. Người nghe
càng nên tránh lời lẽ mang tính chia rẽ, a dua, nhằm tăng lòng khâm phục của
đối tượng. Cũng không nên che giấu những sơ hở, thói quen trì trệ, khiếm khuyết
cần sửa nơi người hoặc phô bày tính tốt của người một cách không cần thiết. Nói
chung, điều gì cần biểu dương, ca ngợi, con người nên khuyến khích, động viên
mà không dèm pha thêm tính độc ác, ẩn ý bên trong; điều gì đáng phê bình, khiển
trách, con người nên góp ý một cách trong sạch, phân minh. Chẳng hạn khi nghe
điều gì đó không thật, con người vẫn cứ tiếp tục chăm chú nghe và chỉ nghe mà
thôi, nhờ vậy người kia mới có cơ hội diễn tả hết nỗi khổ đau và giảm dần căng
thẳng, buồn phiền uẩn khuất của họ. Sửa lỗi cho người, chỉ khi nào người nghe
cảm thấy ‘đúng thời’ hoặc phía đau khổ đang trong tình trạng ổn định, có thể
tiếp nhận ý kiến người khuyên một cách dễ dàng. Lại nữa khi nghe người kia tâm
sự hết sự thật, người nghe không nên đem sự thật ấy đi nói với người khác, vì
tính tôn trọng người. Trong trường hợp nếu lời nói của mình làm ảnh hưởng không
tốt đến an lạc, hạnh phúc của người, người nghe nên giữ yên lặng, còn như vì sự
thật có ích cho họ, nên thốt ra dù bản thân có thể bị tổn thương hay va chạm.
Người có trái tim xác thực, rộng mở, hiểu biết luôn kiên nhẫn lắng
nghe lời tâm sự của người khác. Những ai muốn có an tịnh nội tâm, nhất định
người ấy biết tu, rèn tâm, kiềm chế tâm một cách hiệu quả; không chịu khó, kiên
trì, nhẫn nại, khó lòng đạt được an tịnh nội tâm dù chỉ trong thời gian ngắn
ngủi chứ đừng nói đến đạt được nội tâm lâu dài. Điều kiện để có trái tim trung
thực, trái tim nhân ái hẳn phải là người với từ tâm, bi tâm, hỷ tâm và tấm lòng
vị tha, buông xả, luôn là đối tượng mọi người cần đến.
Người có trái tim nhân ái, thường tu tập, phát triển, trau dồi
thiền định, quán sát tánh không, tâm vị đó luôn hướng đến loài hữu tình, nguyện
cầu cho họ sớm tỏ ngộ, thoát cảnh u tối, được hưởng an vui, thanh nhàn. Người
có trái tim biết hiểu, biết thương và lắng nghe, được nhiều người ái mộ, thân
cận, vì tự thân người ấy luôn an lạc khiến những ai đến gần cũng cảm được bình
an, nhẹ nhàng, thanh thóat.
Chúng ta từng vượt gian khó, hãy dẫn người cùng qua (chúng sanh vô
biên thệ nguyện độ). Chính chúng ta thoát mọi hệ lụy buộc ràng, hãy dạy người
biết cách tháo gỡ (phiền não vô tận thệ nguyện đoạn). Chính chúng ta nếm mùi an
lạc, hãy ban tặng người niềm tin yêu hy vọng (pháp môn vô lượng thệ nguyện
học). Chính chúng ta tỏ ngộ, hãy nguyện cầu cho người cùng tỏ (Phật đạo vô
thượng thệ nguyện thành). Mong những lời cầu nguyện này, hướng về khắp tất cả,
đệ tử và số đông, đều được an tịnh, đều được hạnh phúc, vì lòng từ đối với đời,
đối với nhiều người, vì an lạc và hạnh phúc cho chư thiên và loài người.
Phát triển cộng đồng
Mỗi cá nhân là thành viên trong gia đình, cũng là thành viên của
xã hội, vì thế vị ấy cần nghĩ đến tình đồng loại mà làm những gì mang tính
thiết thực cho nhân loại, cộng đồng của mình. Người tự biết xây dựng, bồi dưỡng
phẩm chất là người tự biết tôn trọng, cung kính và xác định vị trí riêng của
mình.
Trước hết tự đặt
mình – Vào những gì thích đáng
Sau mới giáo hóa
người - Người trí khỏi bị
nhiễm (Dhp. 158)
Nhờ khéo điều phục mình, con người tự làm cho mình như điều mình
dạy người và con người nhờ vậy trở thành công dân có ích cho gia đình, xã hội,
dân tộc cũng như toàn cầu.
Đời sống đoàn thể gồm các mối quan hệ hổ tương của nhiều cá nhân,
chính vì thế con người cần thường xuyên cập nhật thông tin để dễ trao đổi, giúp
đỡ, động viên và hiểu biết nhau hơn. Vả lại trong các mối quan hệ mật thiết của
đời sống thường nhật, thì sự ‘chú tâm lắng nghe’ hầu như được xem là yếu tố
giao tiếp quan trọng, dù nó đóng vai trực tiếp hay gián tiếp giữa các cá nhân
hay đoàn thể khác nhau. Dựa trên phương diện bình trực, mỗi cá nhân có những
bổn phận và trách nhiệm riêng để thi hành và giải quyết công việc của mình,
nhưng không thể vì quyền lợi riêng lại lạm dụng, xúc phạm vào các lãnh vực, giá
trị hạnh phúc riêng của người. Một tập đoàn cá thể riêng biệt cũng phải nghĩ
đến những người dân cùng đang sinh sống, cùng đang hoạt động trong khu vực cộng
đồng hay đất nước khác nhau, nhằm bảo vệ sự hiện hữu, sinh tồn của họ cũng như
bảo vệ các thế hệ tương lai kế tiếp.
Bài kinh Lòng Từ (Mettā Sutta) là bài kinh phổ biến, được đức Phật
dạy nhân mùa an cư kiết hạ cho các Tỳ kheo. Kinh này vừa mang tính bảo hộ
(Paritta) vừa là đề mục hành thiền. Bài Kinh dạy mọi người cần thực hành đức
tánh tự trọng, khoan dung và hy sinh để xã hội, cộng đồng, dân tộc được hạnh
phúc, công bằng, thịnh vượng. Bài kinh cũng đề cao tinh thần đoàn kết, hòa hợp,
tương thân tương ái của giống nòi, để mọi người có nhiệm vụ, bổn phận cư xử hợp
tình, hợp lý, mang lại an lạc, ấm no, bình an cho nhau. Đức Phật từng khuyên
chúng ta xây dựng đất nước, thống nhất dân tộc trên tinh thần Bốn vô lượng tâm
(Brahma-vihāra), làm giảm dần đến xóa hẳn bịnh tật, nghèo đói, lạc hậu, hận
thù, khổ đau.
Bên cạnh đó, dựa vào lòng ưu ái, việc làm hợp sở trường, hành động
tự phát, ý chí kiên trì, thích dấn thân, ưa gần gũi, tâm bình đẳng, mê phục vụ,
đức Phật đã dạy về Tứ nhiếp pháp (saṅgahavatthu), (bốn phương pháp làm cho chúng sanh được gần gũi,
hiểu biết và sống trong an lạc), gồm:
(i) Dāna (bố thí): ban bố, phân phối, chia sẻ, dâng tặng, cống
hiến về tài, pháp và vô úy. Nhờ vậy con người được sống trong bình đẳng, an lạc;
xã hội, quốc gia được an cư, thịnh vượng.
(ii) Piyavācā (ái ngữ): nói lời dịu dàng, tao nhã, thương yêu, hòa
hợp khi giao tiếp với người, vì ‘lời nói không mất tiền mua, lựa lời mà
nói cho vừa lòng nhau’. Nói lời ôn hòa, nhã nhặn, làm vừa lòng người dễ cảm hóa
người đi theo con đường Bát chánh.
(iii) Atthacariyā (lợi hành): làm lợi ích cho người qua thân khẩu
ý, bất luận việc lớn hay nhỏ. Nói chung biết giúp đỡ và phục vụ người một cách
tận tình, chu đáo trong mọi trường hợp.
(iv) Samānattatā (đồng sự): là cách giúp đỡ thiết thực, đều đặn,
có tâm, đạt hiệu quả đối với những người cùng sống trong hoàn cảnh, môi trường,
nghề nghiệp qua những biểu hiện hòa hợp của thân đồng trú, khẩu vô tránh, ý
đồng duyệt, lợi đồng quân, kiến đồng giải, giới đồng tu, mà không phân biệt
giai cấp, sắc tộc, tín ngưỡng, văn hoá, trình độ, thế hệ.
Một xã hội hay quốc gia mạnh hay yếu do những phần tử trong đó có
hợp nhất tư duy, ý chí, mục đích; có thống nhất trong công việc đối nội, đối
ngoại được phán quyết bởi vị lãnh đạo hay không. Nếu tất cả đều biết vận dụng
thực hành Bốn vô lượng tâm cùng Bốn nhiếp pháp, nhất định gia đình, cộng đồng,
dân tộc đó được sống trong Độc lập, Tự do, Hạnh phúc.
Nhờ nhận thức rằng mọi loài hữu tình chung sống với nhau trong một
cộng đồng, thống nhất và vững chắc trên mọi phương diện, nhất là lãnh vực nhân
quyền, con người ý thức: lâu như chúng ta không có phân biệt giữa mình và
người, thì vấn đề giải thoát cho người ngang bằng với giải thoát cho chính
mình, điều này sẽ giúp ích cho người cũng như cho chính tự thân. Với cách suy
nghĩ như trên, Phật giáo là một tôn giáo góp phần phục vụ năng động, tích cực
cho nhân loại mà không đòi hỏi phải được nhân loại đáp lại một cách có điều
kiện.
Lại nữa, một quy luật quản lý đúng cũng rất quan trọng, nó hổ trợ
con người như một phần ghép cơ bản, có khả năng điều phối các hoạt động dễ
dàng, mau chóng đi đến kết quả tốt đẹp nhờ gia thêm các đức tánh, bản chất có
liên quan đến phẩm chất, đạo hạnh và các phương tiện kỹ thuật thiện xảo, tinh
vi. Hai ngành thực hiện mục đích trí tuệ cần thiết, nên được bồi dưỡng, phát
huy, chính là ‘văn tuệ và tư tuệ’ hay hãy không ngừng học hỏi để luôn sáng tạo
và phát sanh kiến thức mới. Nhờ hoạt động tâm lý làm phát triển trí nhớ; nổ
lực, tinh cần, tinh tấn nhờ lý trí; hình thành ‘duy tuệ thị nghiệp’. Điều gì
con người học hỏi ở học đường chỉ là trí tuệ ban sơ cần thiết giúp đời sống con
người ổn định, còn những ai với tư duy chín chắn hơn nhất định thành tựu trong
lãnh vực chuyên môn của mình.
Tóm lại, từ kiến thức dẫn đến dũng cảm, từ văn hóa tạo thành kiên
trì, dẻo dai, bền bỉ. Kiến thức và văn hóa là hai phần cấu tạo trách nhiệm giúp
con người vượt qua đức tính rụt rè, lo sợ, thiếu tự chủ; con người thường xuyên
trau dồi, tìm tòi, cập nhật, phát minh, học hỏi sẽ không bị lỗi thời. Với đức
chịu khó, nhẫn nại, con người có thể chuyển đổi các phiền não khác trong mình
như ái nhiễm, ích kỷ, thụ động, thành lối thong dong trên lộ trình giải thoát
giác ngộ góp phần ủng hộ Phật pháp trường tồn.
Nguồn: Viện nghiên cứu Phật học
Việt Nam
0 nhận xét:
Đăng nhận xét