Trong
khi đức Thế Tôn ngự tại vườn Lộc Giã. Trong thành Bàrànasì có một ông Trưởng
giả có một người con tên là YASSA. Ông xây cho con ông ba tòa lầu cao để ở
trong ba mùa; trong các tòa lầu đều có đủ thú vui của Trưởng giả, sự hưởng hạnh
phúc của cõi đời nầy Yassa không thiếu một chi, sánh như đức Thái tử Sĩ Ðạt Ta
khi còn tại vì.
Ðêm nọ ông Yassa cảm thấy mệt không còn hứng thú trong việc vui
chơi, nên ông cho mỹ nữ được ngủ sớm. Trong phòng ông chưng bày ngọc ngà châu
báu, màu sáng của đèn làm cho chiếu hào quang xinh đẹp. Thật là cảnh thần tiên
trong đời nầy vậy.
Sau khi nghỉ được một lúc ông liền tỉnh lại trong giữa đêm trường
tĩnh mịch. Ông liền nhìn quanh phòng, trông thấy những mỹ nữ nằm ngủ quanh ấy
như những tử thi sình, mùi hôi thối bốc ra lấy làm khó chịu, những cái xinh đẹp
không còn có ở những mỹ nữ ấy nữa, càng nhìn càng ghê tởm; nhìn qua bàn ghế mền
mùng châu ngọc cũng trở thành những vật không đẹp, ông cảm thấy tự mình đang
lạc lõng ở trong bãi tha ma, nghe tiếng ngáy của mỹ nữ không khác nào tiếng
những con thú rừng đang giành ăn những tử thi sình. Ông thấy chán nản với sự
giàu sang và kinh sợ cảnh cô đơn giữa rừng thanh vắng hoang vu, càng ngắm càng
sợ những tử thi kia. Ông chán nản với cảnh ấy bằng cảm tưởng thật là kinh khủng
và ghê tởm. Ông mới có cảm tưởng rằng: Lẽ cố nhiên người còn trong vòng tại gia
cư sĩ là người còn gần vòng tai hại đủ điều. Khi ấy ông mới xuống lầu ra đi.
Nhưng ông cũng không biết đi đâu. Khi ấy chư Thiên trong gia đình ông mới mở
cửa cho ông ra đi một cách êm đềm không ai hay biết rằng ông đã ra đi. Chư
Thiên có ý hộ trì ông đi xuất gia được dễ dàng.
Ðồng thời ấy, đức Thế Tôn đang đi kinh hành trông thấy ông Yassa
từ xa đi đến, nên Ngài lại đến ngự trên pháp tọa.
Còn ông Yassa lần lần đi đến nhưng ông vẫn lẩm bẩm nói rằng: Nơi
đây thật là nơi bẩn chật.
Ðức Thế Tôn mới bảo rằng: Nầy Yassa , nơi đây là nơi không có sự
bẩn chật, tai hại, ngươi hãy đến và ngồi nơi đây, Như Lai sẽ thuyết pháp cho
người nghe.
Ông Yassa nghe qua lời của đức Phật như thức tỉnh trong cơn mê.
Tiếng nói của đức Thế Tôn đã êm dịu nhẹ nhàng mà đầy từ ái không khác nào tiếng
mẹ ru con. Ông đã được nghe rất nhiều tiếng thanh tao êm dịu, nhưng không từng
có một tiếng nào làm ông rung động cảm mến như tiếng của đức Thế Tôn. Ông lật
đật cởi đôi giày bằng vàng ra bỏ nơi ấy và đi ngay vào nơi Phật ngự, đảnh lễ đức
Thế Tôn xong ngồi nơi nên ngồi.
Ðức Thế Tôn mới thuyết pháp gọi là ANUPUBBIKATHÀ nghĩa là pháp đi
theo tuần tự có năm điều là:
1)
DÀNAKATHA. Dạy về sự bố thí.
2) SÌLA
LAKATHA. Dạy về sự trì giới.
3)
SAGGAKATHA. Nói về sự an vui trong cõi thiên đàng.
4) KAMADINAVAKATHA.
Nói về tội của ngũ uẩn. Là dạy cho thấy ngũ trần là nhân đem sự khổ đến chúng
sanh, và cũng vì ngũ trần ấy nên chúng sanh bị luân hồi mãi.
5)
NEKKHAMASAMSAKATHA. Dạy về quả báo của sự thoát ly gia đình. Nghĩa là nói đến
quả báo của người không có gia đình chỉ biết lo tu hành mau giải thoát.
Sau bài nầy đức Thế Tôn mới dạy pháp Tứ Diệu Ðế. Ông Yassa đắc
được Pháp nhãn nghĩa là trông thấy rõ các pháp hay là đã vào hàng Dự lưu nghĩa
là đắc Tu-đà-hườn quả.
Nói về mẹ ông Yassa thường thường đến lầu ông mỗi buổi sáng để
thăm con, khi bà đến thấy cửa lầu mở mà không thấy con, bà lấy làm kinh sợ chạy
đi cho chồng hay. Ông liền cho người nhà chia nhau đi tìm ông Yassa , còn ông
thì ông đi thẳng đến vườn Lộc Giã. Khi đến nơi ông trông thấy đôi giày làm bằng
vàng của con ông, ông liền đi thẳng vào nơi Phật ngự.
Ðức Thế Tôn thấy cha ông Yassa đi đến, mới nghĩ rằng: Như Lai phải
dùng thần thông không cho ông Trưởng giả thấy con đang ngồi kế bên ta. Ngài
liền dùng thần không cho ông Trưởng giả thấy con chỉ thấy có một mình đức Thế
Tôn thôi. Khi ấy ông mới đến gần đức Phật và hỏi đức Phật có trông thấy một
người thanh niên đi qua ngang đây không?
Ðức Thế Tôn dạy rằng: Nầy ông Trưởng giả, ông hãy ngồi xuống đây,
rồi ông sẽ gặp lại con ông. Ông Trưởng giả nghe thế làm mừng và ngồi xuống hầu
Phật.
Ðức Thế Tôn thuyết bài Pháp như Ngài đã thuyết cho ông Yassa nghe.
Ông Trưởng giả đắc Tu-đà-hườn quả, ông mới bạch Phật rằng: Bạch đức Thế tôn tôi
xin qui y Phật, qui y Pháp và qui y Tăng. Xin đức Thế Tôn nhận biết cho tôi là
người thiện nam. Từ đây tôi nguyện xin làm đệ tử Tam bảo cho đến trọn đời. Ðây
là vị thiện nam thọ Tam qui đầu tiên trong Phật giáo.
Riêng đức Yassa cũng nghe pháp như cha ông, ông lại đắc được
A-la-hán quả tuệ. Ðức Thế Tôn biết rằng: Ông Yassa đã đắc A-la-hán quả rồi, tâm
không còn rung động về pháp thế gian nữa, ngũ trần đối với ông như nước bọt đã
nhổ ra không hề liếm lại được. Khi ấy đức Thế Tôn thâu thần thông lại để ông
Trưởng giả trông thấy con ông. Khi ông Trưởng giả thấy Yassa, ông liền bảo
rằng: Con ơi, hiện giờ mẹ con đang nóng lòng chờ đợi con và đang than khóc, con
hãy đem lại cho mẹ con đời sống (ý nói nếu con không về thì mẹ con tức mà chết).
Ðức Thế Tôn mới dạy rằng: Nầy ông Trưởng giả, ông nghĩ sao khi mà
Yassa đã đắc được A-la-hán quả rồi, trở nên người diệt tận phiền não, là bực
không còn luyến tiếc trần tục. Vậy người như thế còn trở lại cuộc đời thế tục
không?
- Bạch đức Thế Tôn, Thánh quả là vật tối cao tuyệt mà con của đệ
tử đã đắc được thật cao quí vô cùng. Vậy đệ tử xin thỉnh đức Thế Tôn đến thọ
thực ở nhà đệ tử có Yassa và chư Tăng theo hầu, hầu đem lại hạnh phúc lâu dài
cho chúng đệ tử.
Ðức Thế Tôn nhận lời bằng cách lặng thinh, ông Trưởng giả biết nên
đảnh lễ đức Thế Tôn xong rồi ra về. Sau khi ông Trưởng giả ra về, ông Yassa xin
Phật xuất gia. Ðức Thế Tôn cho xuất gia bằng cách EHI BHIKKHU ngươi hãy trở nên
vị Tỳ khưu. Râu tóc của ông rụng và đồ mặc trong mình trở nên bộ cà sa vàng và
bát. Phương pháp nầy chỉ có vị Ðại Ðức nào xuất gia với Phật và đã đắc quả
Thánh. Sau nầy chúng sanh ít duyên lành nên xuất gia với chư Tăng có thầy Tế độ
và thầy Tiếp dẫn có hai mươi vị Tỳ khưu chứng minh và phải có tuyên ngôn bốn
lần.
Sau khi xuất gia xong, đức Thế Tôn dẫn Ngài Yassa. Mẹ và bà vợ hai
của ông Yassa ra hầu. Ðức Thế Tôn thuyết pháp cho hai người nghe, cả hai đều
đắc quả Tu-đà-hườn, cũng xin thọ Tam qui và ngũ giới.
Trong khi ấy, trong thế gian nầy có một Thiện nam thọ Tam qui
trước nhất là cha Ngài Yassa, còn hai người Tín nữ thọ Tam qui đầu tiên là mẹ
và vợ ông Yassa. Thiện nam và Tín nữ nầy đều là hàng Dự lưu nghĩa là Tu-đà-hườn
quả. Vì cha và mẹ ông Yassa đã đắc quả Thánh rồi nên rất bằng lòng thấy ngài
Yassa là bực Tỳ khưu.
Trong khi ấy có bốn người bạn của ngài Yassa cũng là con của
Trưởng giả tên là: 1) VIMALA. 2) SUBAHU. 3) PUNNASI. 4) GAVAMPATI được tin
rằng: Ngài Yassa đã xuất gia mới rủ nhau đến hầu và thăm. Ngài Yassa mới dẫn
bốn ông ấy đến hầu đức Thế Tôn và yêu cầu đức Thế Tôn tiếp độ bốn người bạn.
Ðức Thế Tôn mới thuyết pháp cho bốn vị ấy nghe như Ngài đã thuyết
cho Ngài Yassa nghe. Bốn vị ấy đều đắc quả Tu-đà-hườn cùng một lúc, rồi xin
xuất gia. Sau lại đức Thế Tôn Tôn thuyết bài kinh gọi là OVÀDÀNUSÀSANA cả bốn
vị đều đắc A-la-hán quả.
Trong khi ấy trong thế gian nầy có mười một vị Thánh nhơn. Một vị
Chánh đẳng Chánh giác là mười vị A-la-hán là năm vị Kiều Tr?n Như và Ngài Yassa
cùng bốn người bạn.
Khi ấy có năm mươi người bạn của Ngài Yassa cũng con của các vị
Trưởng giả ở ngoại ô, nghe tin rằng: Yassa xuất gia nên rủ nhau đến hầu Ngài.
Ngài Yassa liền dẫn năm mươi người bạn đến hầu Phật. Sau khi nghe pháp xong xin
xuất gia luôn. Sau năm mươi vị cũng đắc A-la-hán quả. Khi ấy trong thế gian nầy
có được sáu mươi mốt vị Thánh nhơn.
Ðức Thế Tôn ngự tại vườn Lộc Giã đến rằm tháng mười, Ngài gọi sáu
mươi vị đại A-la-hán đến và dạy rằng: Nầy chư Tăng, nay các vị đã đắc Tuệ giác,
có Tứ chánh cần và giải thoát hoàn toàn; các Thánh pháp mà chư Thánh nhơn trong
lúc quá khứ và vị lai nhứt là đức Chánh đẳng Chánh giác đã đắc và sẽ đắc đối
với quí vị đã đắc rồi.
Liền trong khi ấy Ma vương hiện ra trước mặt Phật và ngâm bài kệ
như vầy. BHANDHOSI SABBAPÀSEHI v.v.. Nghĩa là: Thưa ông đại Sa môn; ông đã sa
vào cạm bẫy của tôi, những cạm bẫy ấy làm bằng pháp mầu của Thiên vương, và
cũng làm bằng tất cả các phương pháp của người trần gian, nhưng Ngài đã phá
hỏng những cạm bẫy ấy mà giải thoát khỏi uy quyền của tôi.
Ðức Thế Tôn liền đáp bằng lời kệ rằng: MUTTOHAM SABBAPÀSEHI v.v..
Nghĩa là: Hỡi nầy Ma vương hung ác, tất cả cạm bẫy của ngươi bằng pháp mầu cũng
như bằng các phương pháp nào trong thế gian nầy, Như Lai đã hoàn toàn giải
thoát rồi.
Ma vương lại nói câu kệ: ANTALIKKHE CAROPOSO. Người đi trong hư
không hay đi trong thế gian nầy, những chỗ ấy đều ở trong cạm bẫy của tôi. Vì
vậy ông Sa môn còn ở trong thế gian nầy cũng chưa chắc thoát khỏi tôi.
Ðức Thế Tôn liền dạy rằng: RÙPÀ SADDÀ GANGHA RASÀ v.v.. Ngũ trần
là Sắc, Thinh, Hương, Vị, Xúc là vật mà chúng sanh ưa chuộng mến yêu. Như Lai
không còn luyến tiếc nữa. Như Lai đã hoàn toàn giải thoát khỏi những cạm bẫy
của người. Nầy Ma vương tâm đầy tội ác, ngươi hãy rời khỏi nơi đây cho mau.
Ma vương biết rằng: Không thế nào thắng hay ít nhứt là làm cho đức
Thế Tôn rung động. Nên buồn rầu thất vọng bỏ ra đi.
Ngày mười sáu tháng mười AÂm lịch đức Thế Tôn cho nhóm sáu mươi vị
Thánh Tăng, và Ngài truyền cho mỗi vị đi mỗi nơi nào thích hợp với ý mình để
truyền đạo.
PHẬT NGÔN
Naham
samissami pamocanàya
Kathamkathim dhotaka Kinci loke
Dhammanca settham abhajànamàno
Evam tvam oghamiman tareti.
Kathamkathim dhotaka Kinci loke
Dhammanca settham abhajànamàno
Evam tvam oghamiman tareti.
Nầy
Dhotaka, Như Lai không thể cứu độ người có sự nghi ngờ trong thế gian cho giải
thoát được. Nhưng các vị thông thấu các pháp cao quí mới giải thoát được. (Tạng
kinh bộ Khuddakanikaya, đoạn Mahàniddesa ).
Soạn giả
Maha THONGKHAM MEDHIVONGS
Maha THONGKHAM MEDHIVONGS
0 nhận xét:
Đăng nhận xét