Trên
lĩnh vực tín ngưỡng và văn hoá, bánh xe cũng là một biểu tượng rất phổ biến trong
các truyền thống tôn giáo tại nhiều châu lục khác nhau. Đối với Đạo Phật, biểu
tượng này đã trở thành một trong những hình ảnh tiêu biểu, thiêng liêng, và có
ý nghĩa nhất cho sự hiện hữu cũng như sứ mạng của truyền thống tâm linh này đối
với nhân loại trong hơn hai ngàn năm qua.
Giới thiệu:
Một trong những phát minh quan trọng có
ảnh hưởng lớn đến lịch sử của nền văn minh nhân loại đó là bánh xe. Thử nhìn
vào các cơ chế kỷ thuật hay hầu hết các phương tiện giao thông, từ một cỗ xe
thô sơ cho đến các hệ thống máy móc tinh xảo, chúng ta có thể dễ dàng nhận ra
được vai trò của phát minh này trong đời sống thường nhật của mỗi người. Từ sự
di chuyển của những viên đá cuội, những thân cây, hay những vật thể tròn bên
triền núi, con người từ thuở xa xưa đã biến những hình ảnh đó trong ký ức trở
thành một phát minh có ý nghĩa quyết định cho sự tiến bộ của xã hội loài
người. Những công cuộc khai quật tại Iraq , Phần Lan, Ấn Độ và
Trung Hoa cho biết rằng từ hàng ngàn năm Tr CN, tổ tiên của loài người đã
biết ứng dụng phát minh này vào các sinh hoạt của đời sống. Điều thú vị là họ
đã áp dụng phát minh này vào các hoạt động kỷ thuật và sản xuất trước khi xử
dụng nó trong các phương tiện giao thông. Trên lĩnh vực tín ngưỡng và văn hoá,
bánh xe cũng là một biểu tượng rất phổ biến trong các truyền thống tôn giáo tại
nhiều châu lục khác nhau. Đối với Đạo Phật, biểu tượng này đã trở thành một
trong những hình ảnh tiêu biểu, thiêng liêng, và có ý nghĩa nhất cho sự hiện
hữu cũng như sứ mạng của truyền thống tâm linh này đối với nhân loại trong hơn
hai ngàn năm qua.
I. Bánh xe trong văn hóa Ấn Độ
Khi nói đến các biểu tượng tôn giáo trong nền văn hoá Ấn Độ, chúng
ta có thể dễ dàng nhận ra tầm quan trọng của hình ảnh bánh xe và thâm ý của nó
trên mảnh đất giàu văn hoá này. Những hình thái tín ngưỡng cổ xưa của Ấn Độ
thường được bắt nguồn từ sự tiếp xúc cũng như sự suy nghiệm của các nhà hiền
triết đối với các hiện tượng trong thiên nhiên. Theo phong tục từ xa xưa, các
đạo sĩ Ấn thường có truyền thống ngồi thiền hướng về phía Đông[1]. Vì thế hình
ảnh diễm ảo và thiêng liêng đầu tiên mà họ thường tiếp xúc trong buổi thiền
định bắt đầu của mỗi ngày mới đó là mặt trời. Khởi đầu từ những tia sáng mong
manh, vầng thái dương hiện lên rực rỡ nơi chân trời xa thẳm với dáng vẻ tròn đầy
và kích thước của nó dần dần thay đổi theo từng khoảnh khắc của thời gian.
Chính hình dáng và sự biến đổi đó của mặt trời đã gợi lên những cảm nhận về
vòng biến dịch hay chu kỳ luân chuyển của đất trời, của vũ trụ trong tâm hồn
của các nhà ẩn sĩ. Tất cả những cảm nhận và suy nghiệm như thế đã được ghi lại
trong các bộ thánh kinh và về sau được lưu truyền trong dân gian.
Trong truyền thống Vệ Đà, mặt trời thường được thể hiện qua hình
dáng của một vòng tròn hoặc bánh xe. Thần mặt trời được khắc hoạ qua hình ảnh
một một thanh niên cưởi một cổ xe thất mã và bảy con ngựa này tượng trưng cho
bảy sắc màu của ánh sáng mặt trời. Bánh xe của cỗ xe tượng trưng cho sự vận
hành của vũ trụ, trong đó tâm điểm của bánh xe chính là sự sống và các nan hoa
tượng trưng cho vạn vật của vũ trụ. Số lượng các nan hoa của bánh xe này thường
là 5, 12, hoặc 360, tượng trưng cho năm mùa, 12 tháng hoặc 360 ngày trong năm.
Ngoài ra, bánh xe cũng là biểu tượng cho thần Vishnu, hay cho cả thế giới và
chúng sanh (Atharva Veda). Kinh Rg Veda có nói đến bánh xe
uy quyền mà người điều khiển nó là trời Đế Thích. Bộ Brihadaranyaka
Upanishad (IV-13&15) giải thích rằng cấu trúc của vũ trụ và mối
tương hệ của nó với vô số các cá thể khác cũng giống như một bánh xe mà ở đó
trục là tâm điểm, các nan hoa là động lực, và điểm tiếp xúc giữa các nan hoa ấy
với vành bánh xe là các cơ quan cảm giác của mỗi người[2]. Trong số các biểu
tượng phổ biến được thể hiện trong nghệ thuật và tôn giáo của Ấn Độ như hoa
sen, chữ vạn, sấm chớp…thì bánh xe vẫn luôn là biểu tượng phổ biến nhất: các vị
vua hùng mạnh được gọi là Chuyển Luân Vương (Cakravatin), khổ và lạc của cuộc
đời được ví như hai phạm trù tất yếu trong sự biến dịch của bánh xe thời gian,
thần Krishna thì đứng trên một cỗ xe để thuyết giảng bộ Bhagavat Gita..v.v…Trong
các bộ kinh cổ xưa cùng những công trình nghệ thuật tại các hang động, bảo
tháp, đền đài…hình ảnh bánh xe thường được xem là hình tượng tiêu biểu nói lên
nguyên lý vận hành của vũ trụ và con người. Khởi đầu từ ý nghĩa biểu trưng cho
sự biến dịch và tiến hoá của một năm qua các chu kỳ mùa, tháng, ngày, hình
tượng bánh xe về sau đã mở đường cho sự liên tưởng đến một quyền lực tối thượng
được nói đến trong truyền thống Vệ Đà.
II. Bánh xe trong Văn hóa Phật giáo
Trong các văn bản Phật học, chữ cakka (S:
cakra) thường được dùng để chỉ cho bánh xe (Trường Bộ III), một loại vũ khí
(Bổn Sanh I), hay một trong ba mươi hai tướng tốt của bậc đại nhân (Trường Bộ
II). Thuật ngữ này còn chỉ cho một trú xứ của hàng chư thiên và loài người mà
nơi ấy hội đủ bốn phước lành sau: cư trú tại một nơi cố định, thân cận các pháp
lành, hoàn thiện tự thân, và gây tạo công đức trong đời trước. Đôi khi danh từ
cakka cũng được dùng trong các cụm từ khác như catucakkam (Tương
Ưng I) hay iriyāpatha-cakka (Luận giải Trường Bộ) để chỉ cho
bốn oai nghi của mỗi người. Trong Phạn ngữ, chữ cakra thường
xuất hiện trong các cụm danh từ riêng để chỉ tên người (cakrapāṇi, tên của một vị Bồ tát), tên các loài
thảo mộc (cakra-vimala, cakra-s’atapattra), và tên của
một rặng núi bao quanh trái đất (cakra-vāḍa, cakravāḷa).
1. Vòng Luân Hồi
Chữ cakra cũng thường được dùng trong các thuật
ngữ saṃsāra-cakra hay bhava-cakra để
chỉ cho sự biến dịch, luân hồi hay vòng hiện hữu của loài hữu tình với bốn chu
kỳ: sanh, trụ, dị, diệt. Nguồn gốc của hình tượng bánh xe luân hồi hay vòng
luân hồi, có lẽ, phát xuất từ một câu chuyện trong kinh Thí Dụ như sau. Tôn giả
Mục Kiền Liên, vị đệ tử đứng đầu về thần thông của Đức Phật, không chỉ hành đạo
trong cõi người mà còn thường du hoá đến các cõi địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh,
và cõi trời. Sau khi chứng kiến cảnh chúng sanh chết đi sống lại, bị tàn sát,
hành hạ trong địa ngục, cảnh muôn thú tranh giành, giết hại nhau, cảnh các loài
quỷ bị đói khát giằn vặt, cảnh thiên nhân hết phước báu bị đoạ lạc, suy vong,
cảnh loài người bị tham ái cấu xé, bức bách thảm khốc…, tôn giả bèn trở về cõi
Diêm Phù Đề (Ấn Độ) và thuật lại những điều mắt thấy tai nghe này cho bốn chúng
đệ tử của Đức Phật, khuyên họ nên ý thức đến nỗi khổ triền miên của cõi Ta Bà
mà tinh tấn tu trì hướng đến cảnh giới vô sanh an tịnh. Một lần nọ, khi Đức
Phật trú tại thành Vương Xá, tôn giả Mục Kiền Liên cũng đem những cảnh khổ trên
để khuyến hoá các hàng xuất gia va tại gia. Khi thấy mọi người đang vây quanh
và chăm chú lắng nghe tôn giả, Đức Phật bèn hỏi ngài A Nan vì sao mọi người
đang vây quanh tôn giả Mục Kiền Liên, khi biết được nguyên do, Đức Phật bèn
dạy: “Trưởng lão Mục Kiền Liên hay bất cứ một vị Tỳ-kheo nào khác như trưởng
lão cũng không thể cùng một lúc có mặt tại nhiều nơi (để giáo hoá mọi người),
vì thế, nên làm hình bánh xe gồm năm phần đặt ngay lối ra vào (của tinh
xá).” Lúc ấy, các vị Tỳ-kheo còn phân vân, chưa biết nên thiết kế
bánh xe như thế nào, Đức Phật bèn chỉ dạy như sau: năm phần của bánh xe được
minh hoạ để tượng trưng cho năm cảnh giới, ba cảnh giới phía dưới là địa ngục,
súc sanh, ngạ quỷ, hai cảnh giới bên trên là cõi trời và người, hoạ cảnh bốn
châu Đông Thắng Thần, Tây Ngưu Hoá, Bắc Câu Lô, và Nam Thiệm Bộ cũng được thêm
vào. Ở giữa là hình ảnh ba loài thú: chim bồ câu (dụ cho tham), rắn (dụ cho
sân), và heo (dụ cho si), hình ảnh giải thoát của chư Phật và cảnh giới Niết
Bàn được thể hiện qua những vầng hào quang, hàng phàm phu được minh hoạ qua với
cảnh những chúng sanh chìm nổi trong nước, vòng bên ngoài thể hiện 12 chi phần
duyên khởi theo hai chiều thuận nghịch. Bánh xe này thể hiện mọi chi tiết về
cảnh giới luân hồi trong mọi thời, và tất cả bị nuốt bởi (quỷ) vô thường. Ngoài
những hình ảnh trên, hai câu kệ nói về sự hành trì theo chánh pháp để điều phục
phiền não, vượt thoát cảnh luân hồi cũng nên được khắc bên bánh xe. Cũng theo
bản kinh này, mỗi khi đến tinh xá, các vị cư sĩ hỏi về ý nghĩa của hình tượng
bánh xe trên, có một số vị Tỳ-kheo không giải thích được. Vì thế, theo lời dạy
của Đức Phật, các vị Tỳ-kheo bèn chọn những vị tri sự có đầy đủ kiến thức để
giải thích cho các vị cư sĩ về ý nghĩa trên mỗi khi họ thắc mắc[3].
Hình ảnh vòng luân hồi trên được thể
hiện rỏ nét trong các thạch động tại Ấn Độ và rất phổ biến trong các tu viện
Trung Hoa và Tây Tạng. Riêng tại Tây Tạng, ngoài hình tượng trên, hình ảnh bánh
xe luân hồi mới gồm sáu phần cũng rất phổ biến. Ngoài năm cảnh giới trên, loại
hình tượng mới này có thêm cảnh giới A-tu-la, và ngoại trừ cảnh giới loài
người, năm cảnh giới còn lại đều xuất hiện hình ảnh đức Quán Thế Âm đại diện
cho Đức Phật, vì lòng đại bi mà thị hiện để độ sanh. Ngày nay, hình tượng vòng
luân hồi thường xuất hiện tại các tu viện Phật giáo Tây Tạng theo lối minh hoạ
sau. Giữa vòng là hình ảnh ba con thú gà trống, rắn, và heo thứ tự ngậm đuôi
của nhau. Màu lông của gà trống là màu đỏ tía pha vàng, tượng trưng cho sự nóng
bỏng của lửa tham dục. Xét về tính khí, gà trống là loài vật vừa tham nhưng
cũng rất kiêu căng, nên được xem là biểu tượng cho tham dục. Miệng gà trống
ngậm đuôi của con rắn lục, tượng trưng cho sự tham lam vô hạn của chúng sanh,
và chính vì quá tham lam, nên chúng sanh không bao giờ cảm thấy thoả mãn, từ đó
sân hận phát sanh. Sân hận là độc tố làm tinh thần xung động, làm cho tâm thức
luôn âm ỉ hận thù và cuối cùng bộc phát qua lời nói thô lỗ và hành vi thiếu tự
chủ. Ác nghiệp như thế cứ mãi tuôn trào, dai dẳng mà không gì ngăn cản được,
cũng như cơ thể thuôn dài của rắn. Màu xanh của rắn biểu thị cho sự lạnh lùng,
thiếu cảm thông với mọi người. Rắn là một loài vật giết hại loài khác bằng nọc
độc và bằng cách bóp nghẹt, đó cũng là đặc điểm của sân. Tiếp theo rắn là một
con heo với dáng vẻ nặng nề. Đuôi của heo bị miệng rắn ngậm chặt, và heo nhoài
người sang nguộm đuôi của gà trống. Heo này có màu đen tượng trưng cho si. Vẻ
nặng nề của nó biểu trưng cho sự hôn trầm, uể oải của tâm và thân. Heo là một
loài tham ngủ và hay tìm thức ăn trong những nơi hôi bẩn, không phân biệt sạch
nhơ, cũng như khi đã bị chìm đắm trong vô minh, thiếu chánh kiến, chúng sanh
thường tìm cầu dục lạc trong cặn bã danh vọng của cuộc đời. Ba loài thú trên
được vẽ trên nền màu xanh da trời để biểu trưng rằng dù tham, sân, si sâu nặng,
khó trừ, nhưng bản chất của chúng là không, là vô tự tánh, và chẳng thường còn.
Vòng lớn kế tiếp của bánh xe là các cảnh giới chúng sanh, vòng ngoài cùng là
các mắc xích tượng trưng cho 12 chi phần duyên khởi. Cả bánh xe này bị một quái
vật khổng lồ, tức quỷ vô thường nắm chặt, ám chỉ rằng vạn vật trong vòng luân
hồi đều bị vô thường chi phối.
2. Trong Mật Tông
Đối với Mật tông, cakra được xem là một trong
những thuật ngữ phổ biến nhất. Mật tông thường nói về các luân xa (cakra) nằm
tại các vị trí trọng yếu trong cơ thể mỗi người. Các luân xa này chính là các
trung tâm năng lượng tối quan trọng vì đó là những nơi mà các nguồn năng lượng
tinh thần và cùng các hoạt động cơ thể thâm nhập và hoà quyện nhau. Cũng chính
tại những nơi này, các nguồn năng lượng của cơ thể và vũ trụ gặp gỡ để kết tinh
thành những phẩm tính của cơ thể, rồi từ đó những phẩm tính này lại chuyển hoá
thành những dòng năng lượng tinh thần của mỗi người[4]. Bảy luân xa chính trong
cơ thể mỗi người mà Mật tông Tây Tạng thường đề cập gồm: Mūlādhāra-cakra (khu
vực huyệt Hội âm, khu năng lượng sinh tồn), svādhiṣṭhāna-cakra (khu vực huyệt Quan nguyên, khu năng
lượng tính dục), manipura-cakra (khu huyệt Trung quản, nơi
giao thoa giữa năng lượng cá nhân và môi trường), anāhata-cakra (khu
huyệt Đản trung, khu năng lượng của tình thương), visuddha-cakra (khu
huyệt Thiên đột, khu năng lượng của sự giao tiếp), ājña-cakra (khu
huyệt Ấn đường, khu năng lượng của ý thức), và sahasrāra-padma (khu
huyệt Bách hội, khu năng lượng của trí tuệ). Đôi khi thuật ngữ cakra cũng có
nghĩa tương đương với từ mạn-đà-la (maṇḍala). Trong lúc hành thiền, hành giả Du-già thường quán toàn
thân như một mạn-đà-la lớn bao hàm nhiều mạn-đà-la nhỏ (luân xa) khác. Ngoài ra
các luân xa còn được xem là những trú xứ của ba thân (Pháp thân, Báo thân, và
Ứng Hoá thân), hoặc có tương hệ mật thiết với các yếu tố sắc pháp khác.
3.Pháp Luân
a). Nguồn gốc
Khi tìm hiểu về hình tượng bánh xe trong Đạo Phật, chúng ta không
thể không nhắc đến pháp luân (P.dhammacakka, S. dharmacakra),
một trong những hình tượng nghệ thuật độc đáo và là biểu tượng tinh thần cao cả
nhất của truyền thống tâm linh này. Pháp luân là bánh xe pháp. Pháp ở đây là
nguyên lý hay chân lý mà Đức Phật đã chứng ngộ trong đêm thành đạo và sau đó
Ngài đã tuyên thuyết cho nhân gian. Thông thường pháp luân được dùng để dụ cho
giáo pháp của Đức Phật, gồm ba nghĩa chính: tồi phá (Phật pháp có công năng
diệt trừ tội ác của chúng sanh), triển chuyển (sự thuyết giáo của Đức Phật cũng
như bánh xe luôn di chuyển, không dừng trệ lại ở bất cứ người nào hay nơi nào),
và viên mãn (giáo pháp của Đức Phật viên mãn, tròn đầy như bánh xe)[5]. Đôi
khi, pháp luân cũng còn được gọi là Phạm luân. Theo luận Đại Trí Độ,
chữ phạm này được giải thích theo nhiều cách như sau: 1) Phạm là rộng lớn, Đức
Phật chuyển pháp luân đến khắp mười phương nên gọi là phạm; 2) Đức Phật dùng
bốn tâm phạm hạnh (từ, bi, hỷ, xả) để thuyết pháp nên gọi là phạm; 3) Lúc mới
thành đạo, Phạm Thiên đã khuyến thỉnh Đức Phật chuyển pháp luân nên gọi là phạm
luân; 4) Trong lần chuyển pháp luân của Đức Phật tại Ba-la-nại, tôn giả Kiều
Trần Như chứng đắc đạo thanh tịnh, nên gọi là phạm luân; 5) Người Ấn thời xưa
vốn tôn quí Phạm thiên, vì thế để tuỳ thuận theo người đời, pháp luân cũng được
gọi là phạm luân[6]; 6) Phạm là thanh tịnh, giáo pháp của Đức Phật vốn thanh
tịnh nên gọi là phạm; 7) Đức Phật là đấng Đại Phạm, luôn dùng phạm âm để thuyết
pháp[7]. Bộ luận này cũng lý giải về sự khác biệt giữa phạm luân và pháp luân
như sau: phạm luân dạy về bốn tâm vô lượng còn pháp luân nói về bốn thánh đế,
phạm luân dạy rằng nhân bốn tâm vô lượng này mà đắc đạo còn pháp
luân dạy rằng nương theo các pháp khác mà đắc đạo, phạm luân chỉ bày về tứ
thiền còn pháp luân chỉ bày về ba mươi bảy phẩm trợ đạo, phạm luân dạy tu thiền
thánh đạo còn pháp luân dạy tu trí tuệ thánh đạo[8].
Theo kinh Trường Bộ I và bộ Đại Phẩm (Luật
Tạng Nam Truyền I), sau khi giác ngộ, theo lời cầu thỉnh của Phạm Thiên, Đức
Phật đã quyết định đến xứ Ba-la-nại để tuyên thuyết giáo pháp mà mình vừa chứng
ngộ được cho năm nhà khổ hạnh vốn là bạn đồng tu của Ngài. Đáp lại câu hỏi của
đạo sĩ loã thể Upaka, Đức Phật đã trả lời rằng Ngài đến thành phố Kāsi để
chuyển bánh xe pháp, để đánh trống bất tử[9]. Đây là lời tuyên bố đầu tiên của
Đức Phật trước khi Ngài chính thức thiết lập vương quốc chánh pháp của mình.
Mục đích của Đức Phật khi đến xứ Ba-la-nại như thế cũng chính là mục đích mà
chư Phật trong nhiều đời đã từng thị hiện trên thế gian này được trình bày
trong kinh Pháp Hoa: chỉ bày cho chúng sanh tri kiến của chư Phật
và giúp họ thấu hiểu và chứng đạt được tri kiến đó. Kinh Tăng Nhất A
Hàm cũng nói rằng Đức Phật xuất hiện ở đời vì năm mục đích sau: (1)
chuyển pháp luân, (2) độ cha mẹ, (3) kiến lập niềm tin cho người chưa có lòng
tin, (4) khiến người chưa phát Bồ tát ý phát tâm Bồ tát, (5) thọ ký cho các vị
Phật tương lai[10]. Cũng từ đây pháp luân trở thành biểu tượng cho chánh pháp
của Đức Phật.
b) Pháp Luân và sự Phát triển
của tư tưởng Phật giáo
Việc Đức Phật chuyển bánh xe pháp tại Lộc Uyển để gióng lên hồi
chuông tỉnh thức, để đánh lên tiếng trống bất tử được xem là một trong bốn sự
kiện quan trọng nhất trong cuộc đời của Ngài cũng như trong lịch sử hình thành
và phát triển của Đạo Phật[11]. Thuật ngữ thường dùng để chỉ cho sự kiện này là
Chuyển pháp luân (P. dhammacakkappavattana, S. dharmacakra-pravartana). Ngoài ý
nghĩa thông thường là chuyển vận bánh xe chánh pháp, thuật ngữ này còn mang ý
nghĩa là thành lập vương quốc trí tuệ hay xây dựng vương quốc chân lý[12].
Vương quốc mà Đức Phật đã khai sáng đó không phải được xây dựng trên bạo lực,
cường quyền, bánh xe pháp mà Ngài đã chuyển vận cũng không dựa trên sự áp đặt
những niềm tin mù quáng, mà ngược lại chúng được thiết lập trên nền tảng tri
kiến như thị về cuộc đời và ước nguyện xây dựng một đời sống tâm linh hướng
thượng. Điều này được thể hiện ngay trong nội dung bài pháp đầu tiên của Ngài.
Nội dung bài pháp đầu tiên của Đức Phật được ghi lại trong rất
nhiều văn bản Phật học thuộc các truyền thống khác nhau[13]. Trong số các văn
bản này, kinh Thánh Cầu (Trung Bộ I, tương ứng với kinh La
Ma trong Trung A Hàm),Nidānakathā – chương giới thiệu của bản
luận giải kinh Bổn Sanh (jātakatthakathā), kinh Chuyển
Pháp Luân (nằm trong Đại Phẩm của Luật Tạng Nam Truyền), kinh Tương
Ưng, và kinh Tạp A Hàm là những nguồn tư liệu quan
trọng nhất[14]. Điều đáng chú ý là tuy cùng thuật lại sự kiện chuyển pháp luân
của Đức Phật, các tư liệu trên lại trình bày khác nhau về nội dung giáo lý mà
Đức Phật đã giảng dạy. Kinh Thánh Cầu thuật lại rằng tại Lộc
Uyển Đức Phật đã giảng giải cho năm Tỳ-kheo về sự nguy hiểm của sanh, già,
bệnh, chết, ô nhiễm, dục lạc và con đường vượt thoát những triền phược đó để
chứng pháp vô sanh, vô nhiễm, vô thượng an ổn, vượt qua các khổ ách, chứng đắc
Niết Bàn[15]. Kinh La Ma thì ghi rằng Đức Phật đã thuyết
giảng về pháp môn Trung Đạo và Bát Chánh Đạo[16]. Riêng trong kinh Tương
Ưng, chươngTương Ưng Uẩn (Tương Ưng III) nói rằng Đức Phật
đã dạy về đặc tính vô thường, khổ, và vô ngã của năm uẩn[17], còn chương Tương
Ưng Sự Thật (Tương Ưng V) thì thuật lại rằng ban đầu Đức Phật giảng
về lý Trung Đạo, Bát Chánh Đạo, sau đó Ngài giảng giải chi tiết về Tứ Thánh
Đế[18]. Theo kinh Tạp A Hàm, quyển 15, Đức Phật đã giảng pháp Tứ
Đế cho các Tỳ-kheo tại Lộc Uyển[19]. Kinh Chuyển Pháp Luân thì
ghi lại rằng Đức Phật đã giảng dạy về lý Trung Đạo và Tứ Đế cho năm người đệ tử
đầu tiên của mình. Như thế, tuy các văn bản trên có đôi nét khác biệt, chúng ta
vẫn có thể khẳng định một điều là giáo lý chính yếu mà Đức Phật đã thuyết giảng
lần đầu tiên tại Lộc Uyển là giáo lý Tứ Đế.
Theo kinh Chuyển Pháp Luân, ngay sau khi Đức Phật
thuyết giảng bài pháp đầu tiên tại Lộc Uyển, chư thiên các cõi trời dục giới
tuần tự truyền nhau rằng: “ Bánh xe Pháp tối thượng ấy đã được đức Thế
Tôn chuyển vận ở Ba-la-nại, tại Isipatana, nơi vườn nai không thể bị chuyển vận
nghịch lại bởi sa-môn, bà-la-môn, Thiên nhân, Ma vương, Phạm thiên, hoặc bất cứ
ai ở trên đời . ” Liền khi ấy mười ngàn thế giới chấn động, một
vầng hào quang toả chiếu siêu việt cả hào quang của chư thiên các cõi trời[20].
Khi nói rằng bánh xe pháp không thể bị “chuyển vận nghịch lại” như thế, đoạn
kinh trên đã khẳng định một sự thật là giáo pháp của Đức Phật là bất biến, khế
hợp trong mọi thời, mọi nơi, lợi lạc cho mọi căn cơ khác nhau. Đây chính là một
trong những nét độc đáo nhất của hình tượng pháp luân trong Đạo Phật.
Vì luôn khế hợp với chân lý của cuộc đời, nên giáo pháp của Đức
Phật cũng như một bánh xe có thể chuyển vận hướng vể phía trước, di chuyển, lan
toả đến nhiều xứ sở khác nhau. Giáo pháp ấy vốn tự thân đã hoàn bị, sự lý viên
dung, và đã được chính Đức Phật chuyển vận ngay tại trung tâm văn hoá và tâm
linh lớn nhất thời bấy giờ trong vương quốc mà Ngài đang cư trú, đó là thành
Ba-la-nại. Nếu như Vương Xá là trung tâm chính trị và kinh tế lớn nhất của
vương quốc Ma-kiệt-đà thì Ba-la-nại, một miền đất thiêng nằm trên bờ sông Hằng
được mệnh danh là thành phố của thần linh, lại là trung tâm văn hoá và tinh
thần quan trọng, là nơi qui tụ của các nhà lãnh đạo tinh thần kiệt xuất nhất
thời bấy giờ. Ngay từ khi cùng Xa-nặc từ bỏ thành Ca-tỳ-la, thái tử Tất Đạt Đa
đã khẳng khái khước từ mọi uy quyền thế trị để tìm về cội nguồn của sức mạnh
tâm linh siêu tuyệt. Chính vì thế, ngay sau khi thành đạo Ngài đã quyết định
đến Ba-la-nại, kinh thành tâm linh thời bấy giờ để gióng lên tiếng trống bất tử
và chuyển vận bánh xe chánh pháp, mang ánh sáng chân lý vào đời. Từ đây, bổn
phận của những thế hệ tiếp nối truyền thống tâm linh ấy là làm sao bảo tồn và
tiếp tục chuyển vận bánh xe pháp đến mọi phương trời khác nhau. Ý nguyện này đã
được chính Đức Phật gởi gắm cho tôn giả Xá-lợi-phất, vị hộ trì chánh pháp đệ
nhất, như sau: “Này Sàriputta, ví như trưởng tử, con vua Chuyển luân vương,
chơn chánh vận chuyển bánh xe đã được vua cha vận chuyển. Cũng vậy, này
Sàriputta, Ông chơn chánh chuyển vận pháp luân vô thượng đã được Ta chuyển vận.”[21]
Những trình bày trên cho thấy rằng thuật ngữ pháp luân được phát
sanh từ thành ngữ chuyển pháp luân, nghĩa là chuyển vận bánh xe pháp. Do vậy
hình tượng bánh xe trong thuật ngữ pháp luân không phải ám chỉ đến sự thể nhập
hay chứng ngộ chánh pháp (như các thuật ngữ pháp nhãn, pháp
huệ) mà là nhắm đến ý nghĩa truyền bá chánh pháp. Ý nghĩa chính của chữ
pháp trong thuật ngữ này được trình bày trong kinh Chuyển Pháp Luân đó là giáo
lý Tứ Đế - bốn chân lý cao thượng. Ngoài hình tượng chuyển pháp luân, kinh điển
nhà Phật còn dùng các hình ảnh: đánh trống pháp (kích pháp cổ), thổi kèn pháp
(suy pháp loa), dựng cờ pháp (thụ pháp tràng), đốt đuốc pháp (nhiên pháp cự),
tuôn mưa pháp (vũ pháp vũ)…để diễn tả việc thuyết giáo, truyền bá chánh pháp
của Đức Phật[22].
Kinh Chuyển Pháp Luân ghi lại rằng khi giảng
dạy bài kinh này cho năm anh em tôn giả Kiều Trần Như, Đức Phật đã chuyển vận
bánh xe pháp mà xưa nay chưa có một ai chuyển được, dầu đó là Thiên nhân, Ma
vương hay Phạm thiên. Điều này hàm ý rằng Đức Phật là người đầu tiên đã hiến
tặng cho nhân loại món quà chánh pháp vô giá, để từ đó hình thành ba ngôi báu
của thế gian. Pháp luân mà Đức Phật đã từng chuyển vận là vô giá bởi lẽ thể
tánh của nó vốn xứng hợp với chân như, với thật tánh của vạn hữu. Theo Luận
Đại Tỳ-bà-sa, Luận Câu Xá, Kinh Đại Bát Niết Bàn…,
trong hai mươi bộ phái thì mười bộ phái đầu như Hữu bộ, Đa Văn bộ, Kinh Lượng
bộ…lấy Bát Chánh Đạo làm thể của pháp luân, mười bộ còn lại như Đại Chúng bộ,
Pháp Tạng bộ, Ẩm Quang bộ…thì cho rằng những lời Phật dạy đều là thể của pháp
luân[23]. Trong kinh Phương Quảng Đại Trang Nghiêm, Đức Phật đã
minh giải thể tánh này cho ngài Di Lặc và các bậc Bồ tát khác như sau: pháp
luân vốn thâm sâu, vi diệu, khó thấy, khó biết, khó ngộ, kiên cố, bao la, không
thể dùng thức để suy nghiệm, chẳng thể dùng trí để hiểu, lìa mọi thái cực, mọi
phan duyên, xa rời tác ý hoặc không tác ý…chỉ có thể dùng trí Kim Cang để chứng
đắc. Vì pháp luân hiển bày bản tánh bất sanh bất diệt của các pháp, khế hợp với
chân như thật tế, nên những ai chuyển được pháp luân như thế thì được tôn xưng
là Phật, là Chánh Biến Tri, là Pháp Vương, là Đại Đạo Sư[24]…Lời dạy này đã nêu
bậc giá trị vĩnh hằng và vô song của bánh xe pháp mà Đức Phật đã chuyển vận.
Giáo pháp mà Đức Phật đã chuyển vận trong lần đầu tiên tại Ba-la-nại, rồi kế
đến tại Già-da, Vương Xá, Tỳ-xá-ly, Xá Vệ…tuy khác biệt trên phương diện ngôn
ngữ hay phương thức diễn đạt, nhưng lại mang tính đồng nhất về tư tưởng và mục
đích. Theo ngài Khuy Cơ, năm đặc điểm chính của pháp luân là tự tánh, quyến
thuộc, nhân, cảnh, và quả. Tự tánh pháp luân là trạch pháp, giác chi, chánh
kiến.v.v…, Nhân của pháp luân là hay sanh giáo pháp thánh đạo như văn, tư, tư
.v.v…Quyến thuộc của pháp luân là các pháp trợ thánh đạo. Cảnh của pháp luân là
các giáo lý về chơn đế và tục đế…Quả của pháp luân là Bồ đề, Niết Bàn[25]. Một
số văn bản Đại Thừa cho rằng lần chuyển Pháp luân tại Lộc Uyển chỉ là lần đầu
trong ba lần chuyển Pháp luân của Đức Phật.
Theo kinh Giải Thâm Mật, tại Ba-la-nại Đức Phật đã
chuyển bánh xe pháp lần đầu tiên thông qua bài pháp Tứ Đế cho những hành giả có
chủng tánh Thanh Văn. Dầu rằng đây là một giáo lý thâm sâu mà trước đó chưa ai
có thể tuyên thuyết được, song đây vẫn chưa là giáo lý toàn hảo. Trong lần
chuyển bánh xe pháp lần thứ hai Đức Phật vì những chúng sanh phát tâm hướng về
Đại Thừa mà giảng giải rằng các pháp vốn vô tự tánh, vô sanh, vô diệt, bổn lai
tịch tịnh, tự tánh Niết Bàn. Tuy giáo lý trong giai đoạn này thậm thâm, hy hữu,
nhưng lại là giáo lý ẩn mật, khó hiểu, còn hàm chứa nhiều tranh luận, và đây là
lý do để Đức Phật chuyển bánh xe pháp lần thứ ba. Trong lần giáo hoá sau cùng
này, Đức Phật vì các hành giả hướng tâm đến tất cả các thừa giáo, giảng thuyết
một cách minh bạch, tường tận về bản tánh vô sanh, vô diệt, vắng lặng, trong
sạch cũng như tánh vô tự tánh của các pháp. Pháp luân được chuyển vận trong lần
sau cùng này là hy hữu, không vướng đọng bất kỳ tranh luận nào, toàn hảo, và tối
thượng[26]. Bản kinh này được xem là cơ sở y cứ để các nhà Đại Thừa sau này,
nhất là các luận sư Phật giáo Trung Hoa và Tây Tạng đưa ra nhiều cách giải
thích khác nhau về ba lần chuyển bánh xe pháp của Đức Phật.
Nếu như sự khác biệt về giáo nghĩa của lần chuyển pháp luân đầu
tiên và hai lần sau là tư tưởng giáo lý Thanh Văn thừa và Đại thừa, thì sự khác
biệt giữa lần chuyển pháp luân thứ hai và thứ ba là Bất liễu nghĩa giáo (hay vị
liễu nghĩa – neyārtha) và Liễu nghĩa giáo (nītārtha). Liễu nghĩa giáo là những
giáo lý, kinh điển được trình bày một cách minh bạch, tường tận, còn Bất liễu
nghĩa giáo là những kinh điển hay giáo lý được trình bày thông qua những phương
tiện hay giáo tướng để tuỳ thuận giáo hoá chúng sanh thuộc nhiều căn cơ khác
nhau. Theo luận sư Long Thọ, Phật pháp thì vô biên, sâu rộng như đại dương,
hàng phàm phu thấy giáo pháp có muôn vàng sai khác, nhưng các bậc trí - những
người đã thâm nhập giáo lý của kinh điển, luận tạng và tánh không, thì mới biết
được rằng giáo pháp của Đức Phật đều là chánh pháp và không hề tương phản
nhau[27]. Cũng chính vì sự cách biệt giữa giáo pháp thâm áo của Đức Phật và tri
thức thế tục của hàng phàm phu nên đại sư Tsong kha pa (Tông-khách-ba) đã
khuyến hoá các hàng Phật tử nên tìm hiểu giáo lý của Đức Phật dựa trên những
luận giải của các bậc tổ sư Đại thừa như các ngài Long Thọ và Vô Trước. Ngài
Tsong kha pa giải thích rằng sở dĩ hàng Phật tử phải y cứ vào các bản luận giải
của những bậc tổ sư trên vì các ngài đã dùng trí tuệ vô nhiễm để giảng giải lời
Phật dạy, và chính Đức Phật cũng đã từng huyền ký rằng các bậc tổ sư này chính
là những người giảng giải Phật pháp một cách chuẩn xác và đúng đắng[28].
Theo ngài Tsong kha pa, cơ sở của sự phân định ba thời chuyển pháp
luân không phải là các khoảng thời gian hành đạo trong cuộc đời của Đức Phật
hay là căn cơ của thính chúng trong mỗi thời giáo, mà chính là cách thức trình
bày giáo lý vô ngã trong mỗi thời như thế. Trong lần chuyển pháp luân đầu tiên,
Đức Phật đã trình bày tinh tế về nguyên lý nhơn vô ngã, nhưng khi tiếp nhận
giáo lý trong giai đoạn này thính chúng lại khởi lên tư duy rằng các uẩn cùng
những pháp khác vốn là thật có. Trong lần chuyển pháp luân thứ hai, Đức Phật
phủ nhận quan điểm này và Ngài tuyên bố rằng các pháp vốn không có tự tánh nên
chúng không thật có. Trong lần chuyển pháp luân thứ ba, Đức Phật đã lý giải sự
khác biệt giữa tam tánh và tam vô tánh của các pháp[29]. Tương tự như cách lý
giải của luận sư Tsong kha pa, các học giả phái Dge lugs pa đều cho rằng sự
phân chia của ba lần chuyển pháp luân như trên được thực hiện trên cơ sở đề tài
thuyết giáo của Đức Phật và rằng phương thức trình bày giáo lý vô ngã chính là
yếu tố quyết định đối với sự phân chia như thế[30].
Tại Trung Hoa, Chân Đế (499-569) và Huyền Trang (600-664), hai nhà
dịch kinh danh tiếng, cũng đưa ra những thuyết tam pháp luân khác nhau. Theo
ngài Chân Đế, trong 45 năm hoằng hoá của Đức Phật, Ngài đã tuyên thuyết ba pháp
luân, đó là chuyển, chiếu, và trì. Ba lần chuyển này gồm có hiển và mật. Mật là
từ đêm thành đạo cho đến đêm nhập Niết Bàn, Ngài đều chuyển ba pháp luân. Hiển
là trong bảy năm đầu tiên kể từ sau ngày thành đạo, Đức Phật chỉ thuyết giảng
giáo lý tứ đế, gọi là chuyển chuyển pháp luân. Trong 31 năm kế tiếp, Ngài tuyên
thuyết kinh Bát nhã .v.v…để hiển bày về tính không, gọi là chuyển chiếu pháp
luân, trong thời gian bảy năm còn lại, Ngài thuyết Kinh Giải Thâm Mật.v.v…để
hiển bày lý trung đạo, gọi là chuyển trì pháp luân[31]. Trong tác phẩm Hoa
Nghiêm Nhất Thừa Giáo Nghĩa Phân Tề Chương, ngài Pháp Tạng cho rằng nếu y
cứ vào quan điểm của pháp sư Huyền Trang và tư tưởng của những kinh điển khác
như Giải Thâm Mật, Kim Quang Minh, và Luận
Du Già thì giáo lý của Đức Phật gồm thâu trong ba loại pháp luân: thứ
nhất, tại vườn nai Đức Phật chuyển pháp luân tứ đế, là pháp tiểu thừa, gọi là
chuyển pháp luân; thứ hai, Ngài nói về tánh không, tức mật ý của Đại Thừa, gọi
là chiếu pháp luân; thứ ba, Ngài thuyết giảng về tam tánh và lý chân như bất
không của Đại Thừa hiển giáo, gọi là trì pháp luân[32]. Theo quan điểm của ngài
Khuy Cơ, tuy được chia thành ba thời chuyển pháp luân như thế, song giáo pháp
của Đức Phật giống như một cơn mưa lớn, thấm nhuần khắp mọi vật. Vì để tuỳ
thuận căn cơ mà đối trị, nên mới có pháp ẩn-hiển, có-không. Xét theo lý trung
đạo, giáo pháp ấy vốn đồng nhất, vô sai biệt[33]. Thuyết tam pháp luân của ngài
Cát Tạng thì khác hẳn với những thuyết trên. Theo ngài, pháp luân bao gồm ba
loại; căn bổn, chi mạt, và nhiếp mạt qui bổn. Căn bổn pháp luân chỉ cho
kinh Hoa Nghiêm mà Đức Phật tuyên thuyết đầu tiên ngay sau khi
thành đạo. Chi mạt pháp luân là giáo pháp tiểu thừa được thuyết cho hàng độn
căn, không lãnh hội được giáo nghĩa thâm sâu của Hoa nghiêm. Nhiếp mạt qui bổn
là chỉ cho thời thuyết giáo Pháp Hoa qui ba thừa thành nhất
thừa[34].
Căn cứ vào những luận cứ trên của kinh Giải Thâm Mật và
của các luận sư Đại Thừa, một số nhà Phật học kết luận rằng nội dung của ba lần
chuyển pháp luân như sau: lần thứ nhất, thông qua kinh điển và luận tạng của
hai phái Nguyên Thuỷ và Tiểu thừa, giáo lý Tứ Đế được giảng thuyết cho các hành
giả Thanh văn thừa; trong lần thứ hai, nguyên lý tánh không được tuyên thuyết
cho các hành giả Bồ tát thừa, kinh điển y cứ tiêu biểu trong giai đoạn này là
các bộ kinh hệ Bát Nhã; và trong lần cuối, với hệ thống kinh điển Đại thừa tối
quan trọng như Pháp Hoa, Như Lai Tạng, Giải
Thâm Mật…giáo lý tam tự tánh, tam vô tánh, Phật tánh, Như Lai tạng, pháp
thân…được tuyên thuyết làm hành trang cho các hành giả Đại thừa[35].
c). Pháp Luân trong kiến trúc, nghệ thuật
Phật giáo
Sự kiện Đức Phật chuyển pháp luân là một trong những đề tài chính
của các nhà điêu khắc Phật giáo tại Ấn Độ. Pho tượng Đức Phật ngồi kiết già,
tay bắt ấn chuyển pháp luân tuyệt đẹp được tìm thấy tại Lộc Uyển là pho tượng
tiêu biểu nhất cho đề tài này. Hầu như mẫu tượng này đều xuất hiện trong hầu
hết các công trình nghệ thuật Phật giáo lớn tại Ấn. Đối với các nghệ nhân Ấn,
hình ảnh Đức Phật ngồi trên một pháp toà, tay bắt ấn pháp luân với nhiều tư
thế, dáng vẻ khác nhau, có khi được kết hợp với hình ảnh của năm vị Tỳ kheo
hoặc hình ảnh của những con nai, đã phần nào vẻ lại khung cảnh ý nghĩa trong
lần chuyển pháp luân đầu tiên của Đức Phật. Có thể rằng khi thuyết giảng cho
năm anh em tôn giả Kiều Trần Như, Đức Phật đã dùng các cử chỉ của tay để minh
hoạ cho những ý tưởng khó có thể thể hiện qua ngôn ngữ thông thường. Tất nhiên,
trong suốt buổi pháp thoại, những cử chỉ, động tác của hai tay của Ngài được
thể hiện qua nhiều dáng vẻ khác nhau. Đây là cơ sở để các nghệ nhân Ấn diễn tả
tư thế hai tay của Đức Phật trong buổi giảng pháp đầu tiên tại Lộc Uyển (ấn
chuyển pháp luân) và trong các buổi giảng khác của Ngài (ấn pháp luân) tại
những nơi khác nhau. Ấn chuyển pháp luân được thể hiện qua pho tượng chuyển
pháp luân tại Lộc Uyển như sau: bàn tay phải nâng lên ngang ngực, lòng bàn tay
hướng ra ngoài, đầu hai ngón cái và ngón trỏ tiếp xúc nhau tạo nên một vòng
tròn huyền nhiệm, trong khi đó bàn tay trái được nâng nhẹ lên, lòng bàn tay
hướng vào bên trong, ngón giữa chạm nhẹ vào điểm tiếp xúc trên. Trong một bích
hoạ tại Ajaṇṭā, hai tay nâng lên ngang ngực, tay trái
nắm chéo y, ngón trỏ và ngón cái của bàn tay phải chạm vào nhau và dường như ấn
nhẹ trên ngón tay của bàn tay trái. Cũng trong thạch động này một bức hoạ khác
diễn tả hai tay nâng lên trong tư thế chuyển pháp luân, nhưng không chạm nhau.
Trong một tác phẩm nghệ thuật khác thuộc trường phái Gandhāra, bàn tay phải co
đều lại, lòng bàn tay hướng vào trong, ngón cái và ngón trỏ của bàn tay trái
đặt phần dưới của lòng bàn tay phải, các ngón khác đều co lại. Các ấn chuyển
pháp luân tại Tây Tạng và Trung Hoa đều có nét tương đồng nhau: tay phải đặt
ngang ngực, lòng bàn tay hướng ra ngoài, ngón trỏ và ngón cái chạm vào nhau,
ngón trỏ và ngón cái của bàn tay trái cũng chạm vào nhau, lòng bàn tay hướng
vào trong, đôi khi tay trái che phần dưới hoặc che hơn một nữa lòng bàn tay
phải[36].
Trong lĩnh vực nghệ thuật, hình tượng pháp luân cũng trở thành một
biểu tượng phổ biến trong các công trình kiến trúc Phật giáo. Thông thường pháp
luân được thể hiện qua hình ảnh của một bánh xe có tám nan hoa. Trục của bánh
xe tượng trưng cho giới luật, vành bánh xe tượng trưng cho trạng thái chuyên
nhất của thiền định, tám nan hoa tượng trưng cho Bát thánh đạo, và tâm điểm của
bánh xe thường đượckhắc thành bốn dòng xoắn, mỗi dòng được tô mỗi màu khác nhau
để chỉ cho bốn phương và cũng để tượng trưng cho Tứ thánh đế hay bốn đại (đất,
nước, gió, lửa)[37]. Một số biểu tượng bánh xe trong các bảo tháp, chùa chiền
của Phật giáo còn được khắc hoạ với 12, 16, 32, hay vô số nan hoa với ý nghĩa
biểu trưng cho 12 chi phần duyên khởi, 16 đặc tính của nguyên lý tánh không, 32
tướng hảo của bậc giác ngộ, và vô số tia sáng của măt trời, vô số Đức Phật
trong vũ trụ, hay vô số giáo lý, pháp môn mà Đức Phật Thích Ca đã giảng dạy.
Các tác phẩm điêu khắc từ TK I Tr. CN tại tháp Sanchi còn lưu lại hình tượng
bánh xe tượng trưng cho pháp luân. Bánh xe này được khắc hoạ một cách cân đối
và đặt trên một bệ đá hai tầng cùng với hình ảnh của nhiều người lễ bái xung
quanh. Theo nhà khảo cổ Cunningham, bánh xe là biểu tượng chính trên đỉnh của
mỗi cổng tại tháp Sanchi[38]. Cổng phía Nam của tháp Barhut (đầu TK I Tr. CN)
cũng còn lưu lại hình ảnh bánh xe đặt trên một cái bệ bao quanh là dáng của một
ngôi điện thờ. Điều đáng chú ý là trục và vành của bánh xe được trang hoàng với
nhiều vòng hoa, xung quanh đó là cảnh những người hành hương đi chân đất hay đi
xe tứ mã đến cúng bái tại điện thờ trên. Điều này cho thấy là bánh xe đã được
dùng làm biểu tượng cho chính Đức Phật. Trong giai đoạn đầu của nghệ thuật Phật
giáo tại Ấn Độ, khi mà hình ảnh của Đức Phật chưa được khắc hoạ, thì các chủ đề
nghệ thuật chính là những di vật gắn liền với cuộc đời của Đức Phật như là: cây
bồ đề, toà kim cang, hoa sen, dấu chân.v.v…Nếu như những di vật này nhắc đến
những sự kiện trong cuộc đời Đức Phật thì bánh xe lại là hình ảnh tượng trưng
cho chính Đức Phật, hay nói một cách chính xác hơn, là pháp thân của
Đức phật. Điều mà chúng ta dễ nhận biết là trong các văn bản Phật học Pali, các
thuật ngữ Báo thân và Ứng hoá thân vẫn chưa xuất hiện. Riêng thuật ngữ pháp
thân được ghi lại trong những đoạn kinh quan trọng như “Như Lai có thể được
gọi là Pháp thân (Dhammakāya) hay Phạm thân (Brahmakāya)” (Trường Bộ III),
hay “Ai thấy pháp là thấy Ta (Phật)” (Tương Ưng III). Do vậy,
một khi pháp luân được dùng để biểu trưng cho Đức Phật, thì nó cũng
biểu trưng cho Pháp thân của Ngài[39].
Khi nói đến nhân cách và con người của Đức Phật, kinh điển Pali
thường tôn xưng Ngài là bậc Đại nhơn (Mahāpurisa), Nhật Chủng (Ādicca-bandhu),
Chuyển Luân Thánh Vương (Rājā cakkavattī), Thiên Trung Thiên (Devātideva)…để
nói lên phẩm tính siêu việt của Ngài. Cách tôn xưng Đức Phật là bậc Đại Nhơn
hay Chuyển Luân Thánh Vương chỉ mang tính tương đối bởi lẽ ngoài ngoài những
phước báu về tướng hảo và vẻ đẹp vốn có của một vị Đại Nhân hay của một vị
Chuyển Luân Thánh Vương, Đức Phật còn là một bậc giác ngộ, và chính vì thế Ngài
đã từng khẳng định rằng : “Ta không phải là thiên nhân, Càn-thát-bà,
Dạ-xoa, hay phàm nhân.” (Tăng Chi II). Đôi khi Đức Phật cũng được tôn xưng
là Chuyển Luân Vương, nhưng vương quốc của Ngài không phải bốn châu thiên hạ mà
chính là vương quốc chánh pháp. Có một lần Bà-la-môn Sela được chiêm ngưỡng ba
mươi hai tướng tốt của Đức Phật, ông liền tán thán Đức Phật như một vị luân
vương, bậc Điều Ngự, Đại Vương…, Đức Phật bèn đáp lại rằng Ngài cũng là vua,
nhưng vương quốc của Ngài là chánh pháp, Ngài cũng chuyển bánh xe báu (như
Chuyển Luân Vương chuyển điều khiển xe báu để cai trị thiên hạ), nhưng bánh xe
pháp của Ngài không thoái chuyển (Kinh Sela, Trung Bộ II). Nếu như bánh xe
trong nền văn hoá cổ xưa của Ấn Độ tượng trưng cho mặt trời, cho uy quyền tối
thượng, cho Chuyển Luân Thánh Vương, thì hình tượng bánh xe trong Phật giáo lại
tượng trưng cho giáo pháp của Đức Phật và cho chính Đức Phật. Chuyển Luân Thánh
Vương dùng xe báu để hàng phục các oán địch, cai trị thiên hạ, giữ yên bờ cõi,
còn Đức Phật chuyển vận bánh xe pháp để nhiếp phục, đoạn trừ phiền não trong
tâm thức của chúng sanh.
d). Biểu tượng Pháp Luân tại Lộc Uyển
Có thể nói hình tượng pháp luân quan trọng bậc nhất hiện còn lưu
lại là pháp luân được gắn trên phần đỉnh của trụ đá được tôn trí tại Lộc Uyển
để đánh dấu nơi Đức Phật chuyển pháp luân theo sắc chỉ của vua A Dục. Vào năm
1905 F.O. Oertel đã phát hiện ra những phần bị gãy của trụ đá này và trên thân
trụ đá này có khắc chỉ dụ của vua A Dục. Trên đỉnh của trụ đá này là tượng của
bốn con sư tử xoay về bốn hướng trông vô cùng oai hùng và mạnh mẽ. Bên trên bốn
con sư tử này là hình tượng pháp luân. Bốn con sư tử này ngồi trên một cái
trống được khắc hoạ với bốn con thú khác nhau: sư tử, voi, bò, và ngựa. Giữa
bốn con thú này là hình bốn bánh xe. Đánh giá về nét điêu khắc phần đỉnh của
trụ đá này, nhà nghiên cứu V.A. Smith đã đưa ra lời bình phẩm như sau: “Thật
khó tìm thấy ở một đất nước nào một mẫu điêu khắc thú cổ xưa độc đáo hơn hoặc
tương đương với công trình nghệ thuật tuyệt đẹp này, một tác phẩm đã kết hợp
thành công giữa phẩm cách lý tưởng và khuôn mẩu thực tế, và được hoàn thành với
từng chi tiết hết sức chuẩn xác.”[40] Hình tượng pháp luân này tại
Lộc Uyển về sau đã được mô phỏng và khắc hoạ cùng với hình tượng của hai con
nai nằm hai bên trong tư thế tự tại, chú tâm, và hỷ lạc. Nai bên phải có dáng
vẻ oai phong, mạnh mẽ tượng trưng cho con đực và con bên trái có nét nhu mì,
mềm mại của con cái. Ngoài ý nghĩa biểu trưng cho sự kiện chuyển pháp luân đầu
tiên tại Lộc Uyển, hình tượng pháp luân và đôi nai như thế còn nói lên được cái
đẹp của đời sống viễn ly, xuất trần theo chánh pháp, cũng như tư tưởng từ bi, bất
bạo động, cộng sinh, sự hài hoà giữa con người và muôn vật, giữa hữu tình và vô
tình theo giáo lý duyên sanh và vô ngã của Đạo Phật.
Như một hồi chuông thanh thoát ngân xa mãi trong vũ trụ vô biên,
như ánh sáng của vầng thái dương lan toả khắp mọi nơi, len sâu vào những nơi
tối tăm nhất của quả địa cầu, âm vang tình thương và ánh sáng tuệ giác mà Đức
Phật đã khơi nguồn từ xứ Ba-la-nại ngày xưa đã lan toả khắp nơi trên hoàn vũ,
thấm sâu vào huyết mạch của hàng triệu con tim, từ những bậc đế vương cho đến
những kẻ khốn cùng bất hạnh. Bánh xe pháp của Ngài đã chuyên chở những đạo sĩ
khổ hạnh như Kiều Trần Như đến cảnh giới thánh thiện, đã biến niềm đam mê dục
lạc của kỷ nữ Ambapālī thành niềm đam mê chánh pháp, đã chuyển hoá sự khát máu
của Vô Não thành niềm khát khao thánh quả, đã chuyển xoay tham vọng viễn chinh
của vua A Dục thành một cuộc chinh phục tự thân. Tuy là một Phật tử tại gia,
vua A Dục đã hoàn thành xuất sắc sứ mạng tiếp nối và chuyển vận bánh xe pháp
của Đức Phật trong khắp vương quốc mình, rồi sau đó đến những quốc gia lân cận
và những miền đất xa xôi. Cũng chính nhà vua đã cử các sứ đoàn Phật giáo đến
nhiều quốc gia khác nhau để thực hiện sứ mạng đó. Nhờ sự chuyển vận bánh xe
pháp đó của vua A Dục, khi Ấn Độ bị các thế lực ngoại bang xâm lược, Phật giáo
dù bị suy vi trên mảnh đất quê hương, nhưng lại cắm rễ, sinh sôi và lớn mạnh
trên những miền đất khác. Bánh xe pháp vô hình, vô tướng mà Đức Phật đã chuyển
vận tại Lộc Uyển đã được vua A Dục, vài trăm năm sau đó, cho khắc hoạ trên
những trụ đá sư tử oai phong với ước vọng là giáo pháp của Đức Phật như tiếng
rống của loài thú uy dũng này sẽ vang vọng mãi, sẽ được chuyển vận mãi cho đến
tận ngàn sau.
Điều kỳ diệu là bánh xe pháp mà vua A Dục đã cho dựng trên trụ đá
sư tử tại Lộc Uyển xưa kia đã trở thành biểu tượng thiêng liêng trên quốc kỳ Ấn
và tung bay phấp phới trên toàn cõi Ấn Độ. Hình sư tử trên đầu trụ đá ấy cũng
đã trở thành quốc huy của đất nước này. Sau khi Ấn Độ giành được độc lập từ sự
tranh đấu theo đường hướng bất bạo động do Mahatma Gandhi khởi xướng, trong lúc
hội đồng lập hiến của Ấn đang bận rộn với việc soạn thảo hiến pháp cho đất
nước, thì vấn đề lựa chọn biểu tượng cho quốc kỳ và quốc huy của Ấn đã được các
nhà lãnh đạo quốc gia bàn bạc kỷ lưỡng. Sau một thời gian làm việc nghiêm túc,
cuối cùng hình tượng sư tử trên đầu trụ đá vua A Dục và pháp luân của Đức Phật
đã được các nhà lãnh đạo Ấn chọn làm biểu tượng của quốc gia. Vào lúc 10 giờ
sáng ngày 22-07-1947 trước sự hiện diện của tổng thống Rajendra Prasad và hội
đồng lập hiến, Jawaharlal Nehru, vị Thủ tướng đầu tiên của Ấn Độ độc lập đã
dõng dạt tuyên bố: “Quyết nghị rằng quốc kỳ của Ấn Độ sẽ gồm ba dải màu
vàng nghệ, trắng và xanh lá cây đậm nằm ngang cân đối nhau. Giữa dải màu trắng
sẽ là một bánh xe màu xanh nước biển tượng trưng cho Chakra. Mẫu bánh xe này
lấy theo mẫu bánh xe nằm trên đỉnh của trụ đá đầu hình sư tử của vua A Dục tại
Sarnath…Khi đề cập đến tên tuổi của A Dục, tôi muốn các vị biết rằng giai đoạn
A Dục vốn là một giai đoạn quốc tế của lịch sử Ấn Độ. Đó không phải là một giai
đoạn quốc gia nhỏ hẹp. Đó là một giai đoạn khi mà các nhà đại sứ của Ấn Độ được
gởi đi khắp nơi, đến tận những đất nước xa xôi, không phải theo lối của một đế
quốc và chủ nghĩa đế quốc, mà họ là những vị sứ giả của hoà bình, của thiện chí
và văn hoá.”[41] Sau khi được hội đồng lập hiến thông qua, ngày
15-08-1947 pháp luân của Đức Phật đã chính thức trở thành biểu tượng cho sự tự
do, thịnh vượng, và hạnh phúc của nhân dân Ấn Độ. Giải thích về việc chọn pháp
luân làm biểu tượng quốc gia như trên, tiến sĩ Ambedkar, cha đẻ của bản hiến
pháp Ấn Độ đã nói: “Khi vấn đề quốc kỳ và quốc huy được hồi đồng lập hiến
xem xét, chúng tôi không thể tìm được một biểu tượng thích hợp nào từ văn hoá
Bà-la-môn. Cuối cùng, văn hoá Phật giáo đã cứu nguy cho chúng tôi và chúng tôi
đã nhất trí dùng pháp luân (Dharma-Chakra) làm biểu tượng của quốc gia.”[42]
4. Triết lý sống qua hình tượng Bánh xe
trong Phật giáo
a. Tiếp xúc với sự sống
Trong sự vận hành của dòng đời, cuộc sống của mỗi người như một
bánh xe đang lăn đều trên đường đời. Điều thú vị là tuy chu vi của bánh xe này
rất lớn, nhưng sự tiếp xúc của bánh xe với mặt đất chỉ là một điểm nhỏ mà thôi.
Như vậy, những giá trị sống động nhất, thiết thực nhất của sự vận hành bánh xe
này không phải ở những điểm đã đi qua hay những điểm chưa tiếp xúc với mặt đất
trên bánh xe mà chính là điểm đang tiếp xúc trong hiện tại. Cũng thế đạo Phật
xem cuộc sống trong giây phút hiện tại của mỗi người là mấu chốt để chế tác
niềm hạnh phúc trong cuộc sống này. Những gì trong quá khứ, dù thất bại đắng
cay hay thành công mãn nguyện đều chỉ còn trong ký ức và những ước vọng về
tương lai chỉ là ảo ảnh trong tâm trí mỗi người mà thôi. Hiện tại là thời khắc
thể hiện sự sống đích thực, linh động của mỗi người.
Để tạo dựng một cuốc sống có hạnh phúc và an lạc thực sự, con
người cần phải nhận diện và tiếp xúc với những gì mình đang có trong hiện tại.
Sống với hiện tại là cuộc sống thực và qua đó con người mới cảm nhận được những
giá trị đích thực của cuộc sống. Đó là cuộc sống thực và mầu nhiệm vô cùng.
b. Giáo pháp: tâm điểm của Phật giáo
Đức Phật từng dạy rằng ai thấy (hiểu và thể nghiệm) giáo pháp,
người ấy thấy Phật. Trước khi nhập Niết Bàn, đức Phật dạy ngài A Nan sau khi
Ngài nhập diệt nên xem giáo pháp làm thầy, làm ngọn đèn, nên nương tựa vào giáo
pháp. Pháp mà đức Phật chứng ngộ trong đêm thành đạo cũng chính là pháp mà chư
Phật quá khứ và tương lai đã và sẽ chứng ngộ. Do vậy, những gì đức Phật đã
giảng dạy là những chân lý về khổ và con đường thoát khổ, song an lạc trong
cuộc đời mà chư Phật ba đời đã giảng dạy. Đức Phật không cho phép hàng đệ tử
tôn thờ mình như một vị thượng đế, một chúa tể đầy quyền năng, mà chỉ nên xem
Ngài là một vị thầy dẫn đường mà thôi. Những ai sống đúng với chánh pháp và vận
chuyển bánh xe pháp là người học trò xứng đáng trong giáo pháp của đức Phật.
Đạo Phật không lấy đức Phật làm trọng tâm, mà là lấy giáo pháp làm trọng tâm.
Khi nào giáo pháp này còn được giữ gìn và hành trì thì Phật pháp còn tồn tại
trên thế gian này.
c. Sự tiến bộ của tri thức và đạo đức
Sự vận hành của bánh xe pháp trong xã hội hôm nay luôn bao hàm hai
ý nghĩa sâu xa: 1. Giáo pháp của đức Phật luôn mang tính tùy duyên nhưng bất
biến. Phật giáo trong mỗi địa phương, quốc gia, mỗi thời đại mang một sắc thái
riêng, nhưng tựu trung cùng hướng đến đời sống tỉnh thức và giải thoát; 2. Cuộc
sống luôn là một sự vận động, biến đổi không ngừng. Nền văn minh khoa học đang
tiến nhanh như vũ bão, nhưng nếu con người chỉ chú trọng đến sự phát triển về
vật chất mà thiếu sự tiến bộ về mặt tinh thần hay tâm linh thì con người sẽ rơi
vào những khủng hoảng tâm lý trầm trọng, và đó sẽ là nguyên nhân đưa đến những
đổ vỡ hạnh phúc cá nhân, gia đình, và xã hội.
Do vậy, nếu hành trình của một đời người là một cổ xe, thì cổ xe
đó phải gồm hai bộ bánh song hành vật chất và tinh thần. Đời sống tâm linh là
một yếu tố cần thiết để giải tỏa những trở ngại trong đời sống tinh thần, tạo
sự quân bình cần thiết trong đời sống thường nhật của mỗi người. Vì thế, từ
quan điểm của Phật giáo, song hành với bánh xe văn minh, cần phải có bánh xe
chánh pháp để tạo nên sự hài hòa và hạnh phúc của loài người.
d. Chuyển biến của thế giới tâm linh
Thế giới tâm linh là một là một thế giới mà ở đó mỗi hành giả đi
trên một lộ trình từ thấp đến cao, từ phàm đến thánh, như một bánh xe đang vượt
lên đồi núi chập chùng. Càng lên cao, thế giới càng kỳ ảo, tuyệt mỹ, nhưng gian
nan và khó khăn cũng nhiều hơn. Do đó, hành giả tâm linh cần phải có nhiều nghị
lực, sự kiên nhẫn và quyết tâm mạnh mẽ mới thành tựu sở đắc tâm linh của mình.
Kết Luận:
Trong số những biểu tượng phỗ biến trong Phật giáo, có lẽ pháp
luân là biểu tượng quan trọng nhất bởi lẽ nó biểu thị cho cốt tủy của Phật
giáo: giáo pháp của đức Phật. Từ một biểu vốn dĩ đã xuất hiện lâu đời trong văn
hóa Ấn cổ xưa, đức Phật đã xử dụng hình ảnh này để làm biểu tượng chính cho
Phật giáo ngay khi Ngài dạy bài pháp đầu tiên trong cuộc đời hoằng hóa của mình
tại vườn Nai, đó là kinh Chuyển Pháp Luân. Giáo pháp của Phật giáo được truyền
thừa liên tục cũng như một bánh xe được vận chuyển từ quá khứ cho đến hiện tại,
từ hiện tại cho đến tương lai. Với biểu tượng này, Phật giáo luôn hướng đến một
ước vọng hướng thượng và thăng hoa trong đời sống mỗi người. Cuộc sống là một
cái gì đó luôn thay đổi liên tục, nhưng những thay đổi đó được hướng theo tinh
thần đạo đức và tâm linh trong sang thì nó sẽ mang đến nhiều hạnh
phúc cho đời người.
[1] A. K. Haldar, “Symbolism in Indian Art and Religion”, The
Journal of Aesthetics and Art Criticism, Vol. 9, No. 2. (Dec., 1950), p.
125.
[2] Sđd, tr. 126.
[3] Xem chi tiết về mẫu chuyện này trong Bhikkhu Khantipalo,
The Wheel of Birth and Death, The Wheel Publication No. 147/148/149, Kandy:
Buddhist Publication Society, 1970.
[4] Xem thêm A. Govinda, Foundations of Tibetan
Mysticism, York Beach , ME : Samuel Weiser, 1982.
[5] Phật Quang Đại Từ Điển, tr. 3423.
[6] Đại Trí Độ Luận, T (Taisho: Đại
Chính Tân Tu Đại Tạng Kinh) 25n1509, tr. 245.
[7] Phật Quang Đại Từ Điển, tr. 3423.
[8] Đại Trí Độ Luận, T25n1509, tr. 245.
[9] I.B. Horner (tr.) The Collection of the Middle
Length Sayings, Vol. I, Delhi: Motilal, p. 215.
[10] T1n25, tr. 699a.
[11] Các tư liệu còn lại đưa ra những thời điểm khác nhau về
sự kiện này. Kinh Quá Khứ Hiện Tại Nhân Quả và Kinh Pháp Hoa cho là sau khi Đức
Phật thành đạo 21 ngày, Thập Địa Kinh Luận ghi là sau 14 ngày, Tứ Phần Luật ghi
là sau 42 ngày, Kinh Phương Quảng Đại Trang Nghiêm ghi là sau 49 ngày, Ngũ Phần
Luật ghi là sau 56 ngày, Luận Đại Trí Độ ghi là sau 57 ngày. Phật
Quang Đại Từ Điển, tr. 6619.
[12] W. Simpson, The Buddhist Praying-wheel, New Delhi:
Oriential Publishers & Distributors, 1978, p. 52.
[13] Xem Đại Phẩm I (Luật tạng Nam
truyền), Kinh Thánh Cầu (Trung Bộ I), Kinh Bổn Sanh I,
Đại Sử q.3, Kinh Phổ Diệu, q. 7, Trường A Hàm Kinh,
q. 16, Tạp A Hàm kinh, q. 2, Ngũ Phần Luật q.
15, Tứ Phần Luật, q. 32, Kinh Phương Quảng Đại Trang
Nghiêm, q. 11, Phật Bổn Hạnh Tập Kinh, q. 34, Quá
Khứ Hiện Tại Nhân Quả Kinh, q. 3, Phật Sở Hành Tán, q. 3.
[14] Theo truyền thống, hầu hết các nhà Phật học cho rằng bài
pháp đầu tiên mà Đức Phật đã giảng dạy là kinh Chuyển Pháp Luân . Tuy nhiên,
theo giáo sư Hajime Nakamura, bản kinh này được kiết tập hoàn chỉnh trong thời
gian về sau và vì thế nội dung nguyên thuỷ của bài pháp đầu tiên vốn được trình
bày trong kinh Thánh Cầu H. Nakamura, Gotama Buddha, Tokyo:
Kosei Publishing Co., pp. 241-251.
[15] I.B. Horner (tr.) sđd., tr. 217.
[16] Trung A Hàm Kinh, q. 56, T1n26, p. 777c.
[17] F.L. Woodward (tr.) The Book of the Kindred
Sayings, Delhi: Motialal, P. III, pp. 59-60.
[18] Sđd., q. V, pp. 356-360.
[19] Kinh Tạp A Hàm, T2n99, tr. 107c.
[20] I.B. Horner (tr.) The Book of The Discipline,
Oxford: The Pali Text Society, 1992, pp. 17-18.
[21] C.R. Davids (tr.) The Book of the Kindred
Sayings, Delhi: Motialal, P. I, 2005, p. 242.
[22] Phật Thuyết Phật Mẫu Xuất Sanh Tam Pháp Tạng Bát Nhã
Ba La Mật Đa Kinh, T8n228, tr. 608b. Diệu Pháp Liên Hoa Kinh,
T9n262, tr. 3c, 24b. 62a. Kim Quang Minh Kinh, T16n664, tr. 340b,
384b.
[23] Phật Quang Đại Từ Điển, tr. 3423.
[24] T3n187, tr. 608b.
[25] Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Huyền Tán, T34n1723,
tr. 673a, 731a-b. Quán Di Lặc Thượng Sanh Đẩu Xuất Thiên Kinh
Tán T38n1772, tr. 288b. Thuyết Vô Cấu Xứng Kinh Tán,
T38n1782, tr. 1011b
[26] Kinh Giải Thâm Mật, T16n676, tr. 697a. T.
Cleary, Buddhist Yoga, Boston: Shambhala, pp. 39-40. J. Powers,Hermeneutics
and Tradition in the Samdhinirmocana-sutra, Delhi: Motilal, 2004, pp.
103-105.
[27] E. Lamotte, “Assessment of Textual Interpretation in
Buddhism”, D. Loper (ed.) Buddhist Hermeneutics, Delhi: Motilal,
1993, p. 16.
[28] J. Powers, Sđd., tr. 116.
[29] Sđd. tr. 131
[30] Sđd., 127.
[31] Nhơn Vương Hộ Quốc Bát Nhã Kinh Sớ, T33n1705,
tr. 263b. Kim Cang Ánh, quyển thượng, T85n2734, tr. 60b.
[32] T45n1866, tr. 481a.
[33] Thuyết Vô Cấu Xứng Kinh Sớ, T38n1782, tr.
998c-999a.
[34] Hoa Nghiêm Kinh Thám Huyền Ký, T35n1733, tr.
111b. Pháp Hoa Huyền Tán, T34n1724, tr. 859b.
[35] D.L. Snellgrove, Indo-Tibetan Buddhism,
London: Serindia, 1987, pp. 79-116. Tham khảo Stcherbatsky, Buddhist
Logic, Delhi: Motilal, 2000, Vol. I, pp. 3-14. T.R.V. Murti, The
Central Philosophy of Buddhism, New Delhi: Munshiram, 2003, pp. 4-5.
[36] E. D. Saunders, Mudra, London: Routledge,
1960, pp. 94-95.
[37] R. Beer, The Encyclopedia of Tibetan Symbols
and Motifs, London :
Serindia Publications, 1999, p. 186.
[38] W. Simpson, Sđd., p. 50.
[39] A.K. Coomaraswamy, Elements of Buddhist
Iconography, New Delhi :
Mushiram, 1998, pp. 32-33.
[40] E. Hultzsch, Inscriptions of Asoka, New Delhi : Archaeological
Survey of India, 1991, p. xxi.
[41] J. Nehru, “The Asoka Chakra and the National Flag of India ”, Asoka 2300, H. B.
Chowdhury (ed.), Calcutta :
Bauddha Dharmankur Sabha, 1997, pp. 165-168.
[42] D.C. Ahir, “Contribution of Buddhist Culture to Modern India ”, A Panorama of Indian Buddhism,
D.C. Ahir (ed.), Delhi :
Sri Sat Guru Publications, 1995, p. 607.
Nguồn: Viện Văn Học
0 nhận xét:
Đăng nhận xét