Lời giới
thiệu
Đ
|
ức Phật ra đời và thuyết pháp “vì hạnh phúc và an
lạc cho số đông”. Những lời dạy của Ngài cho con người chỉ nhắm vào hai
mục tiêu chính: khổ và diệt khổ. Ngài không tranh luận với đời. Ngài chỉ thuyết
pháp, nêu bật sự kiện khổ đau ở đời và chỉ bày cho con người cách thức đoạn trừ
khổ đau.
Đức Phật không khuyến khích mọi người theo Ngài chỉ vì niềm
tin suông. Đọc lại lời khuyên của Ngài cho Sìha, vị tướng quân người Licchavì,
Upàli, vị gia chủ nổi tiếng của xứ sở Nalanda và những lời dạy dành cho các vị
Kàlàma xứ Kesaputta, chúng ta thấy rõ nhân cách lớn của bậc đạo sư và tinh thần
tự do tư tưởng hết sức cao cả của Giáo lý Ngài. Chân lý không là đặc quyền của
người nào. Chân lý không có ngã và ngã sở. Người ta không nên khẳng quyết rằng
chỉ có điều mình theo là đúng ngoài ra là hư vọng. đức Phật không bao giờ nói
hãy tin ta, nhưng Ngài bảo hãy đến để mà thấy (Ehibhikkhu). "Hãy
tự mình thắp đuốc lên mà đi" là khẩu hiệu tự do thẩm sát chân lý
trong đạo Phật. Sự thật thách thức khả năng tìm tòi, khám phá của mỗi cá nhân
chứ không yêu cầu lòng tin của mọi người.
Đức Phật là thế và giáo lý của Ngài là thế. Lịch sử của
loài người là lịch sử của sự tìm kiếm và thực nghiệm sự thật. Hãy để cho sự
thật tự hiển lộ trước mắt mọi người. Người con Phật đứng giữa sự chỉ
trích và tán thán hãy học theo cách của bậc đạo sư, không giận giữ hay vui mừng
mà hãy giữ tâm ý thật khách quan để tự thăng tiến tuệ giác. Tập sách “Giới trí
thức bình luận về đức Phật và giáo lý của Ngài” do Tăng sinh Quảng Bảo
sưu tầm và chuyển dịch có thể giúp cho người con Phật thực tập thái độ khách
quan khi đứng trước sự chỉ trích hay tán thán của người khác. Việc làm này của
Tăng sinh là một nỗ lực xứng đáng được tán thán và khuyến khích.
Học viện Phật giáo Việt Nam
tại Thành phố Hồ Chí Minh
Hòa thượng Thích Minh Châu.
Lời
nói đầu
N
|
hững ai xem việc thay đổi tôn giáo hay chấp nhận một tôn
giáo mới lần đầu tiên thì sẽ làm một điều gì đó có thể có một ảnh hưởng sâu sắc
về cuộc đời của họ. Đó không phải là một điều gì phải được từ bỏ một cách hấp
tấp, vội vã, hoặc là nó được từ bỏ dưới sự ảnh hưởng của những cảm xúc tình cảm
khi đạt đến tột đỉnh. Nếu chân lý phải được khám phá, thì thời gian phải được
diễn ra, tất cả những sự kiện phải được xem xét, và vấn đề phải được chất vấn
và những ý kiến khác nhau phải được xem xét, thảo luận. Chúng ta cố gắng làm
tất cả những điều này, trước khi đưa ra những quyết định quan trọng nhất trong
cuộc đời của chúng ta, do vậy, tại sao chúng ta không nên thực thi chúng trước
khi đưa ra những quyết định quan trọng nhất trong cuộc đời của chúng ta liên
quan đến tín ngưỡng tôn giáo của chính mình?
Chấp nhận ý kiến của người khác một cách mù quáng và không
thắc mắc sẽ là một sự ngu xuẩn, nhưng làm ngơ ý kiến của họ cũng là một sự ngốc
nghếch. Trí tuệ và kinh nghiệm của những người khác, đặc biệt là bậc trí, có thể
giúp chúng ta làm sâu sắc thêm sự hiểu biết của chúng ta và đưa chúng ta đến
một vị trí tốt hơn để chọn lựa một giải pháp đúng hơn. Với sự truyền bá Phật
giáo ở các nước Âu Mỹ trong khoảng hơn trăm năm qua, một số đông giới trí thức
phương Tây, kể cả nhiều vị lãnh giải Nobel hòa bình, đã bày tỏ một sự quan tâm
sâu sắc và ngưỡng mộ tôn giáo cổ đại này. Chỉ có một số ít thực sự trở thành
Phật tử. Họ trở thành Phật tử do bị ấn tượng về phương pháp tư duy trong sáng
và hợp lý của đạo Phật, số khác nhờ vào sự khoan dung độ lượng nhã nhặn của tôn
giáo này. Một số khác trở nên ngạc nhiên trong kính phục do triết lý của tôn
giáo này rất thích ứng (nếu không nói là rất giống) với những phát minh của
khoa học hiện đại. Trong khi đó, số khác thích Phật giáo khi tiếp cận với những
ý tưởng về đời sống luân lý đạo đức mà không cần tin vào một đấng Thượng đế đầy
quyền năng. Những lời trích dẫn được thu thập trong cuốn sách nhỏ này thật sự
đáng để quan tâm vì một số lý do sau:
Trước hết, những lời trích dẫn này cho thấy sự hấp dẫn phổ
quát của Phật giáo, mà đây lại là lời phát biểu của những nhà tâm lý, nhà thơ,
triết gia và nhà toán học trên khắp thế giới với nhiều bối cảnh văn hoá và tôn
giáo khác nhau. Có phải chăng lời dạy của một con người đã sống từ lâu vẫn có
thể thích hợp và có ý nghĩa đối với một nhà khoa học lỗi lạc như Einstein, một
nhà thơ như Eliot hoặc một triết gia như Rusell? Lại nữa, những lời trích dẫn
này nói nhiều về những người đã viết ra chúng như họ đã làm gì cho chính đạo
Phật.
Chúng ta đọc những gì mà một số tư tưởng gia có đầu óc vĩ
đại trong thời đại của chúng ta phải nói về quan điểm của Phật giáo về ly tham,
không chấp thủ và tình thương, về yếu tố duy lý trong đạo Phật và về vai trò và
địa vị của đức Phật trong lịch sử nhân loại. Họ so sánh Phật giáo với những tôn
giáo khác, làm nổi bật sự đề cao về yếu tố lý trí của tôn giáo này và cho chúng
ta biết được những ảnh hưởng lớn lao của nó đối với nền tâm lý học hiện đại. Hy
vọng rằng những gì được nói trong cuốn sách nhỏ này sẽ làm cho độc giả có động
cơ nhìn sâu hơn nữa về những lời dạy của đức Phật, và nếu thoả mãn về mặt tâm
linh hãy ứng dụng những nguyên tắc này vào đời sống thực tiễn. Thiết nghĩ đây
là một công trình có giá trị nghiên cứu và rất hữu dụng đối với những ai khi
nghiên cứu đạo Phật. Hơn nữa, những lời trích dẫn trong tập cách này là những
nguồn dẫn chứng quý giá đối với những ai muốn nghiên cứu và viết lách về những
đề tài liên quan đến Phật giáo và những lĩnh vực khác.
Tuy nhiên, do đây là một tập sách sưu tầm những nguồn tư
liệu nằm rải rác trong các sách báo Anh ngữ, cũng như một số tư liệu đã được
dịch sang Việt ngữ, người dịch xin cáo lỗi cùng với quý độc giả trong vấn đề
sắp xếp những lời phát biểu theo thứ tự từng tác giả hay theo từng chủ đề khác
nhau liên quan đến giáo lý và cuộc đời của đức Phật. Ở cuối phần tập sách nhỏ
này, người dịch xin trích dẫn nguyên bản tác phẩm "Buddhism in the
Eyes of Intellectuals" của Đại lão Hoà thượng K. Sri Dhammananda,
một vị Hoà thượng người Tích Lan có công rất lớn trong công việc hằng truyền
Phật pháp tại Malaysia và cũng là một nhà Phật học có rất nhiều ảnh hưởng đến
giới nghiên cứu Phật học tân thời. Nhân đây, Người dịch xin bày tỏ tấm lòng
biết ơn đối với Hòa thượng Viện trưởng Thích Minh Châu, người đã hy sinh cả
cuộc đời mình vì sự nghiệp giáo dục đàn hậu học chúng con. Thành kính dâng lên
Thượng tọa Bổn sư , người đã có công giáo dưỡng con nên người, thành quả học
tập này với tất cả tấm lòng quý kính của người đệ tử. Cuối cùng, xin chân thành
tri ân sự chỉ giáo của các bậc cao minh để tập sách nhỏ này ngày càng hoàn
chỉnh hơn.
Quảng Đức, Xuân Canh Thìn
Dịch giả Thích Quảng Bảo
D
|
o đó, trong thời đại ngày nay, hầu hết những tôn giáo khác
thì mới và trẻ khi được so sánh với tôn giáo đáng kính này [Phật giáo], một tôn
giáo chứa đựng trong nó sự vô tận của niềm hy vọng toàn cầu, sự bất tử của tình
thương không bờ bến, một yếu tố bất hoại của niềm tin về sự tuyệt mỹ, và sự quả
quyết tự hào nhất về quyền tự do giải thoát nhân loại.
Đây hoa nở rộ trên cây nhân loại
Đã bừng nở qua vô số năm
Làm thế giới chan hòa hương thơm trí tuệ
Và mật ngọt tình thương.
Sir Edwin Arnold (1832-1904), Nhà thơ, nhà báo người Anh,
và tác giả cuốn "Ánh Sáng Á Châu"
Những lời dạy của thái tử người Ấn Độ thực sự không có gì
lay chuyển trước những phát minh hiện đại của khoa học… Ngôn từ sẽ không làm
cho tôi hiểu nếu tôi cố gắng bày tỏ sự cần thiết mà tôi nghĩ tri thức của niềm
tin và triết lý cao siêu của tôn giáo này làm cho sinh động thêm chủ nghĩa vật
chất của Tây phương… Đó là, trong bất kỳ tình huống nào, một chân lý đã làm ảnh
hưởng không chỉ đối với những tư tưởng gia vĩ đại và hùng vĩ nhất của Hy Lạp và
La Mã mà còn làm những cơ sở khởi đầu cho nền tảng của tư tưởng Cơ đốc giáo-mà
Phật giáo đã ra đời trước tôn giáo này khoảng 500 đến 600 năm. Tôn giáo này có
thể tuyên bố kết bạn tốt đẹp cùng nguồn gốc với những tôn giáo lớn, mà không có
sự hành quyết và ép buộc những người thuộc tôn giáo khác Phật giáo, và
những lý do này có thể chứng kiến dễ dàng trong chính giáo lý của tôn giáo này.
L. Adam Beck, một nhà lữ hành và một học giả người Hoa Kỳ.
Đối với tín đồ Cơ đốc giáo, thì tình yêu là đức tính tối
thượng; nhưng đối với tín đồ Phật giáo, thì lại là trí tuệ bởi vì họ cho rằng
vô minh là nguồn gốc của tất cả những tội lỗi. Đồng thời, tình yêu cũng được
xếp lên hàng cao….Khoan dung và lòng từ, cả hai được căn cứ tên cơ sở trí tuệ
Phật giáo, có lẽ là nguyên nhân chính giải thích tại sao con đường Trung đạo
của đức Phật Cồ Đàm đã truyền bá từ thế hệ này sang thế hệ khác hơn 2500 năm
qua.
Sir Charles Bell KCIE, CMG (1870-1945), nhà ngoại giao và
nhà biên soạn từ điển người Anh.
Thông điệp của đức Phật về chân lý, hòa bình, từ bi và
khoan dung rất là thích hợp đối với xã hội ngày nay cũng như nhiều thế kỷ trước
đây. Thời gian trôi qua đã làm cho những ánh sáng càng tỏa sáng hơn. Sự lan
tràn của chủ nghĩa vật chất và sự theo đuổi những thành đạt của cá nhân bất
chấp mọi giá đã làm xói mòn những sợi dây thắt chặt tình huynh đệ và tính cộng
đồng. Trong những tình huống này, điều cần thiết và quan trọng đối với chúng ta
là nhớ lại và truyền bá thông điệp về từ bi và trí tuệ của đức Phật để hận thù
có thể được thay thế bằng tình thương, xung đột bằng hòa bình an lạc, và sự cạnh
tranh bằng hợp tác lẫn nhau.
Tiến sĩ Amadou-Mahta M'Bow-Chủ tịch tổ chức UNESCO.
Chỉ có tôn giáo duy nhất trong tất cả các tôn giáo trên thế
giới hấp dẫn tôi nhất là Phật giáo. Đạo Phật, như sự hiểu biết của tôi về tôn
giáo này, đúng ra là một hệ thống triết học của thế giới, và một triết lý sống
đối với những người ưu tú được hình thành ở nơi tôn giáo này (câu này tối nghĩa
quá, dò lại nguyên tác), chứ không phải là một tôn giáo xét theo ý nghĩa thông
thường của ngôn từ.
CD Broad (1887-1971), triết gia người Anh.
Cuộc cách mạng gần đây của con người có lẽ bắt đầu với sự
tiến bộ cao của chân tay, và sự lựa chọn một bộ não, đặc biệt thông thạo thao
tác của đôi bàn tay. Chúng ta cảm thấy vui mừng về điều đó trong những hành
động của mình, với kết quả là đối với giới nghệ thuật, bàn tay là một biểu
tượng chính yếu; chẳng hạn bàn tay của đức Phật ban tặng cho con người món quà
của lòng nhân đạo trong một tư thế tịch lặng, món quà của sự vô uý.
J. Bronowski (1908-1974), một tác giả và triết gia,
khoa học gia người Hoa Kỳ.
Cho dù người phương Tây lần đầu đến với giáo lý đạo Phật mà
họ vốn dĩ quen với khoa học hiện đại, hay những thuật ngữ chuyên môn của đạo Cơ
đốc giáo, họ nên luôn luôn ghi nhớ rằng đức Phật không quan tâm sự hiện hữu hay
không hiện hữu của một đấng quyền năng tối cao, hoặc là những mệnh đề triết học
trừu tượng khác. Điều Ngài quan tâm duy nhất là “con đường”, con đường thực tế,
qua đó con người có thể chấm dứt những khổ đau của mình trong kiếp này và mai
sau.
Marie b. Byles (1900-1979), một tác giả và nhà leo núi
người Úc.
Thông điệp của đức Phật về từ bi và sự tận tâm, nhiệt tình
trong sự nghiệp phục vụ cho nhân loại càng thích hợp hơn trong xã hội ngày nay
hơn bao giờ hết trong lịch sử nhân loại. Hòa bình, sự hiểu biết và một cách
nhìn vượt khỏi những hạn chế thuần tuý trong phạm vi quốc gia đã trở thành các
vấn đề cấp bách hơn trong thời đại bất an, thiên về vũ khí hạt nhân hôm nay.
Javier Perez De Cuellar, nhà ngoại giao của Peru, và Tổng
Thư ký của Liên Hợp Quốc.
Người ta không thể từ chối rằng vẻ đẹp thực sự của Đông
phương trong nhiều thành ngữ mà giới Phật tử sử dụng; và rằng có cơ sở thực sự
cho sự nhiệt tình khiến họ phát sinh. Chưa bao giờ trong lịch sử của thế giới
một kế hoạch như thế lại được vạch ra, quá tự do thoát khỏi những tác nhân của
một đấng siêu nhiên, quá độc lập, thậm chí rất đối kháng với niềm tin về một
linh hồn, niềm tin vào một Thượng đế, và hy vọng một kiếp sống tương lai.
Cho dù những điều này là đúng hay sai, đó là một điểm
chuyển đổi trong lịch sử tôn giáo của con người khi mà một nhà cải cách, hoàn
toàn đầy đủ nhiệt tâm nhất vì những mục tiêu luân lý đạo đức và được đào tạo
trong tất cả nền văn hóa tri thức trong thời đại của vị ấy, đã đưa ra một cách
thận trọng, cân nhắc, và với một tri thức có những quan điểm chống lại học
thuyết của sự cứu rỗi được tìm thấy ở đây, ngay trong kiếp sống này, trong một
trái tim tâm hồn thay đổi bên trong.
Dù là Phật tử hay không phải, tôi đã xem xét các hệ thống
của tất cả các tôn giáo lớn trên thế giới, và tôi không tìm thấy tôn giáo nào
có thể vượt qua cái đẹp và tính toàn diện của giáo lý Bát thánh đạo và Tứ thánh
đế của đức Phật. Tôi rất hài lòng xây dựng cuộc đời mình trên con đường đó.
Giáo sư T.W. Rhys Davids (1843-1922), thành lập hội Thánh
Điển Pali, nhà biên tập từ điển Pali-Anh, dịch giả Trường Bộ Kinh và là nhà
biên tập của nhiều kinh sách Phật học.
Cũng như những bậc thầy khác cùng thời đại Ngài, đức Phật
giảng dạy thông qua những cuộc hội thoại, bài diễn thuyết, và những hình ảnh ẩn
dụ. Nếu so với đấng Christ vàø Socrates, Đức Phật chẳng bao giờ có ý định đem
học thuyết của Ngài viết thành văn bản. Ngài đã tóm tắt những lời thuyết giảng
ấy thành những bài kinh nhằm mục đích nhắc nhở cho chúng ta ghi nhớ những gì
Ngài dạy, như đã được chư vị đệ tử Ngài bảo tồn cho chúng ta ngày nay. Những
bài kinh này phác thảo cho chúng ta một nhân vật đặc trưng nhất trong lịch sử
Ấn Độ: một con người với ý chí và nghị lực mãnh liệt, quyền uy và tự trọng,
danh tiếng, nhưng có một nhân cách nhã nhặn tế nhị và ngôn từ hiền hòa từ ái,
và một lòng từ tâm vô biên. Ngài tuyên bố sự giác ngộ giải thoát nhưng không có
một sự khêu gợi; Ngài không bao giờ giả vờ rằng một vị thiên thần đang nói
chuyện với Ngài. Trong tranh luận, Ngài kiên nhẫn và trung dung hơn bất kỳ
những vị đạo sư khác của nhân loại.
Giống như Đức Khổng Phu Tử và Christ, Ngài mong muốn chuyển
hóa ác thành thiện, tình thương thay hận thù; và Ngài hoàn toàn im lặng trước
những sự hiểu lầm và nhục mạ của kẻ khác… Không giống như hầu hết các bậc Thánh
khác, đức Phật có một óc hài hước, và biết rằng hiện tượng siêu hình học mà
không có hành động là sự kêu căng (tối nghĩa và không thuần Việt).
Will Durant (1885-1981), một sử gia người Mỹ và người đoạt
giải thưởng Pulitzer.
Nhưng sự cuốn hút của Eliot đến với Phật giáo không chỉ đơn
giản là do của hệ thống triết lý của tôn giáo này. Niết-bàn là sự dập tắt hoàn
toàn của tham, sân, si; sự đoạn diệt hoàn toàn tham ái, tự do giải thoát khỏi
sự chấp thủ…. Sự chuyên chế của đạo Phật thì rất nghiêm khắc như những gì mà
Eliot tìm thấy trong Maurras, và mặc dù có lẽ nhà thơ này thích thú Phật giáo
với nhiều lý do tương tự, tôn giáo phương Đông có những sự gắn bó lãng mạn cho
những ai muốn tách khỏi những sự ràng buộc của gia đình.
Peter Ackrayd bình về nhà thơ người Anh-T.S.Eliot
(1888-1965).
Trong những tôn giáo vĩ đại nhất trong lịch sử, tôi thích
Phật giáo hơn, đặc biệt là Phật giáo Nguyên thuỷ, bởi vì tôn giáo này không có
những yếu tố ngược đãi, khủng bố. Phật giáo là một sự kết hợp giữa nền triết lý
tuyệt vời và khoa học. Phật giáo tán thành những phương pháp khoa học và tiếp
tục theo đuổi mục đích đó và có thể được gọi là một tôn giáo lý trí. Trong tôn
giáo này chúng ta tìm thấy câu trả lời cho những câu hỏi như: "Danh và sắc
là gì? Cái nào quan trọng hơn cái nào? Thế giới và vũ trụ có chuyển động đến
một mục tiêu nào đó hay không? Địa vị của con người là gì ? Liệu có một đời
sống thánh thiện hay không?" Phật giáo dìu dắt con người đến những nơi mà
khoa học không thể đưa đến, bởi vì những giới hạn trong việc sử dụng những công
cụ của khoa học. Những đòi hỏi đó chính là yếu tố tâm.
Bản thân tôi cảm thấy rằng dù làø trong
vấn đề trí tuệ hay đức hạnh, Chúa cũng như một số người được biết trong lịch sử
không thể là những người đại diện cao nhất về 2 lĩnh vực này. Tôi nghĩ rằng tôi
nên đặt đức Phật và Socrates lên trên Chúa đối với những sự tôn kính này.
Bertrand Rusell (1872- 1970), triết gia toán học và logic
lỗi lạc nhất trong thế kỷ 20.
Con người đã từ bỏ sự vô minh vọng tưởng về một đấng Thượng
đế như là một người cha giúp đỡ- nhưng con người cũng từ bỏ những mục đích chân
thật của tất cả những tôn giáo lớn mang tính nhân bản: vượt qua những sự giới
hạn của một cái tự ngã ích kỷ, đạt được tình thương, mục đích và sự khiêm
nhường và tôn trọng sự sống để mà mục đích của cuộc đời được sống, và con người
trở lại với những tiềm năng ẩn chứa bên trong anh ta.
Đây là những mục đích của các tôn giáo lớn ở phương Tây,
cũng như đây là những mục tiêu của các tôn giáo lớn ở phương Đông. Tuy nhiên,
phương Đông thì không bị đè nặng bởi ý niệm về một đấng Thượng đế siêu
nghiệm-một đấng cứu thế mà các tôn giáo nhất thần thường cho là tài sản của
riêng họ.
Đạo giáo và Phật giáo xét về mặt lý trí và thực tiễn thì
siêu việt hơn những tôn giáo phương Tây. Hai tôn giáo này quan sát về con người
một cách thiết thực và có mục đích, không một ai ngoại trừ bậc giác ngộ có thể
dẫn dắt con người và có thể được dẫn dắt chỉ đường bởi vì mỗi người đều có
trong mình khả năng giác ngộ và được giác ngộ.
Đây là lý do quý hiếm giải thích tại sao tư tưởng Đong
phương, Đạo giáo, Phật giáo và thiền Phật giáo đảm nhiệm một vai trò quan trọng
như thế trong xã hội phương Tây hiện nay. Thiền Phật giáo giúp cho con người
tìm ra những giải đáp cho vấn đề hiện hữu của con người….
Nghịch lý thay, tư tưởng tôn giáo Đong phương hóa ra thích
hợp hơn đối với tư tưởng duy lý phương Tây hơn là chính bản thân tư tưởng tôn
giáo Tây Phương.
Erich Fromm (1900-1980), một triết gia xã hội và nhà phân
tâm học người Mỹ.
Có thể có một ý nghĩa lớn lao trong sự kiện rằng triết gia
Pythagoras tại Hy Lạp và đức Phật tại Phương Đông xuất hiện cùng lúc vào thế kỷ
thứ 6 B.C. Cả hai Ngài đều là những nhà tư tưởng và nhà hoạt động tầm vóc và
sâu sắc…
R.Buckminster Fuller (1895-1984), một nhà phát minh, triết
gia và kỹ sư người Mỹ.
Là một người nghiên cứu về tôn giáo tỷ giảo, tôi tin rằng
đạo Phật là đạo hoàn hảo nhất trên thế giới từ trước tới giờ. Học thuyết tiến
hóa và luân hồi cao đẹp hơn bất cứ niềm tin nào khác. Không phải lịch sử tôn
giáo cũng không phải là sự nghiên cứu triết học mà chính nghề nghiệp chuyên môn
của tôi như là một bác sĩ đã đưa tôi lần đầu tiên đến thế giới tư tưởng Phật
giáo. Công việc của tôi là chữa trị những khổ đau về mặt tâm thần và chính điều
này đã đưa đẩy tôi làm quen với quan điểm và phương pháp của Bậc thầy vĩ đại
của nhân loại, mà đề tài chính yếu là sự khổ đau triền miên, già, bệnh và chết.
Bác sĩ Carl C. Jung (1875-1961), nhà phân tâm học người
Thụy Sĩ, học trò lôĩ lạc nhất của Freud và là người sáng lập viện nghiên cứu về
phân tâm học.
Lời giảng dạy căn bản của Ngài Cồ Đàm, nghiên cứu từ cội
gốc ngày nay đã trở nên rõ ràng và dễ hiểu và hoàn toàn phù hợp với những tư
tưởng tân tiến. Nó vượt khỏi tất cả những sự tranh chấp, và là sự thành tựu của
một trong những nguồn trí tuệ thể nhập tuyệt vời mà thế giới đã từng biết
đến.
Hơn hết mọi ảnh hưởng trong biên niên sử nhân loại, đạo
Phật đã đóng góp nhiều hơn cho những sự tiến bộ của nền văn minh thế giới và
nền văn hóa của nhân loại…
H.G.
Wells (1866-1946).
Ta nhập thế bằng tình yêu bát ngát, dù cuộc đời vẫn quằn
quại thương đau. Bất cứ ai nếu chăm chú đọc một vài bài thuyết pháp của đức
Phật cũng sẽ nhận thấy sự nhịp nhàng, sự yên tĩnh của tâm hồn, sự cao đẹp vui
tươi, sự quyết tâm không mảy may lay chuyển, lòng yêu thương dạt dào và sự kiên
trì không bờ bến.
Nội dung trí tuệ những lời dạy của Ngài chỉ là một phần sự
nghiệp của Ngài, và nửa còn lại là cuộc đời của Ngài, đời sống thực mà Ngài đã
sống, một sự tu tập, sự tự tu tập tâm linh cao nhất mà Ngài đã hoàn tất
và đem ra giảng dạy ở nơi đây. Đức Phật đã hoàn tất sự tu tập tâm linh cho
chính mình và chư đệ tử của Ngài. Ngài đã đề xuất một mục đích và đã đạt được
những kết quả mà các nhà hành động chân chính nổi danh của phương Tây đã phải
ngã mũ kính phục.
Herman Hesse (1877-1962), người đoạt giải thưởng
Nobel văn chương.
Chẳng hạn nếu chúng ta thắc mắc liệu vị trí của âm điện tử
đứng yên, chúng ta phải trả lời là không; nếu chúng ta hỏi liệu vị trí của âm
điện tử có thay đổi cùng với thời gian hay không, chúng ta phải trả lời là
không; nếu chúng ta hỏi rằng liệu âm điện tử có yên nghỉ hay không, chúng ta
phải trả lời là không; nếu hỏi âm điện tử có di động hay không, chúng ta phải
trả lời là không. đức Phật cũng trả lời như vậy khi được hỏi về những
điều kiện về tự ngã của con người sau khi chết, nhưng chúng không phải là những
câu trả lời tương tự đối với truyền thống của nền khoa học thế kỷ 17 và 18.
Robert Oppenheimer, nhà vật lý học, cha đẻ của trái bom
nguyên tử đầu tiên của Hoa Kỳ.
Chủ nghĩa bi quan yếm thế bày tỏ thái độ tuyệt vọng đối với
đời sống, một ý niệm tổng quát và mơ hồ rằng đời sống đầy dẫy khổ đau và tội
lỗi. Trong thực tế, giáo lý nguyên thủy của đức Phật cũng lạc quan như bất cứ
chủ nghĩa lạc quan nào khác ở phương Tây. Chủ trương rằng Phật giáo là "bi
quan" là chỉ áp dụng suông vào Phật giáo nguyên tắc đặc cách của người
phương Tây, theo đó không thể có hạnh phúc nếu không có tự ngã. Người Phật tử
chân chánh nhìn tương lai với tinh thần nhiệt thành hướng về hạnh phúc trường
cửu.
Encyclopaedia of Britannica.
Tính chất ôn hòa của dân tộc Ấn biểu hiện trọn vẹn giáo lý
của đức Phật. Phật giáo truyền bá tinh thần bất bạo động, tức là lòng bi mẫn
đối với tất cả chúng sanh. Đối với người cư sĩ Phật tử, chế tạo và buôn bán
súng đạn, chất độc, chất say, giết hại cầm thú đều là những nguyên tắc đạo đức
không nên phạm.
Aldous Huxley.
Chắc chắn có những lý do để chủ trương rằng cái
"Tôi" ngày hôm nay và cái "Tôi" ngày hôm qua là một, và để
lấy một thí dụ hiển nhiên hơn nữa, nếu cùng một lúc, tôi thấy một người và nghe
người ấy nói thì rõ ràng là cái "Tôi" nghe và cái "Tôi"
thấy là một.
Bertrand Russell-Religion and Science.
Thật không phải quá đáng khi quả quyết rằng nhờ sự trung
gian của người Ba Tư mà những người Hy Lạp hiếu kỳ đồng thời với đức Phật..đã
thâu nhập những kiến thức ít nhiều chính xác về thời kỳ văn hóa cực thịnh của
phương Đông.
Greek Thinkers- sử gia Garbe.
Những ai được ở trong một gia tộc hoặc trong một làng nằm
theo lưu vực sông Hằng (Ganges) thật là hữu phước, vì nơi đây dân chúng sống
trong tinh thần bác ái, an lành, trong tinh thần công lý cao thượng, nơi đây
dân chúng được hít thở một thứ không khí nhẹ nhàng, do những lời giản dị chất
phác tạo nên… Ta cũng có thể nói rằng những ai sống trong một gia đình
hoặc một làng nằm trong lưu vực sông Thames ngày nay cũng không kém phần hữu
phước, vì nơi đây giáo lý từ bi giữa người và người của đức Phật đã thấm nhuần
đời sống gia đình và xã hội và đã làm cho nền luân lý vững chắc. Giáo lý đó vẫn
còn rõ ràng, đầy đủ và thích hợp với người Anh hiện nay, cũng như từ bao giờ, đã
thích hợp với người Ấn.
Giáo sư Rhys Davids.
Đức Phật là sự hiện thân của tất cả những đức hạnh mà Ngài
thuyết giảng. Trong suốt cuộc hành trình 45 năm đầy thành công và đáng ghi nhớ
của Ngài, Ngài đã chuyển dịch tất cả những ngôn từ của mình thành hành động; và
không có chỗ nào mà Ngài không nói hết những khiếm khuyết của con người hoặc là
những sự đam mê hạ liệt thấp hèn. Nền tảng luân lý đạo đức chủ yếu của đức Phật
là hoàn hảo nhất mà thế giới đã từng biết đến.
Giáo sư Max Muller, nhà Ấn Độ học người Đức.
Paul kết hợp tình yêu với lòng tin và hy vọng, và quan điểm
của ông về tình yêu liên quan đến niềm tin và hy vọng: " Tình yêu, theo
ôâng, là tin tưởng tất cả mọi thứ và hy vọng mọi thứ." Theo tôi,
tình yêu không có nghĩa là tin tưởng vào tất cả và hy vọng tất cả. Tình yêu
sống soát khi sự vỡ mộng, thất vọng bắt đầu và tiếp tục ở sự thất vọng, buồn
rầu. Tình yêu không phải là thứ tình thương ngưng hoạt động khi không có niềm
tin và hy vọng. Miễn là khi nào còn niềm tin và hy vọng hỗ trợ tình yêu thì đó
chỉ là một thứ tình yêu trẻ con. Rằng tình yêu là hạnh phúc dễ chịu là một
chuyện hoang đường mang tính chất thời trang. Đức Phật biết rằng tình yêu mang
lại "sự tổn thương và khổ đau, buồn rầu, thất vọng, áo não"; và Ngài
khuyên thái độ ly tham, không chấp thủ. Tình yêu mà tôi xem như là một đức hạnh
thì không phải là một thứ tình yêu mù quáng về người mình yêu hoặc là người
mình tin cậy, một tình yêu đầy hy vọng của Paul, nhưng tình yêu mà biết những
gì đức Phật đã biết và vẫn yêu, với đôi mắt mở rộng.
Giáo sư Walter Kaufmann, triết gia người Mỹ.
Anh ta đọc nhiều sách và hiểu sâu sắc về kinh điển Phật
giáo, phiên dịch kinh điển sang Pháp ngữ, và thậm chí viết tiểu sử của đức
Phật. Nhưng căn nguyên sâu xa khiến cho anh ta quan tâm thích thú đạo Phật là
sự kiện mà anh ta cảm thấy Phật giáo đã mang lại cho anh ta sự củng cố trực
tiếp về tư tưởng triết học để giải tỏa những sự thất vọng trong cuộc sống của
anh ta…Jack tuân giữ giới thứ nhất trong đạo Phật hơn tất cả những thứ khác và
phát biểu rằng: "Tất cả đời là khổ đau".
Ann Charters.
Nếu tôi biết rằng đức Phật sẽ thuyết giảng ở đây vào ngày
mai, thì trên thế gian này không có một thứ gì có thể ngăn cản việc tôi đi đến
nghe Ngài thuyết giảng. Và tôi sẽ theo Ngài cho đến cùng.
J.Krishnamurti, triết gia người Ấn (1895-1986).
Người Ấn, người Aztec, và người Mê-hi-cô xưa! Tất cả đều
làm cho tôi thích thú và đã làm cho tôi thích thú trong nhiều năm qua, có một
sưc quyến rũ, và một phép thần diệu đối với tôi. Đó chính là đức Phật. Đức Phật
là một con người quá hoàn hảo và sung mãn đối với tôi.
D. H. Lawrence (1885-1930), tiểu thuyết gia người Anh.
Ngày nay khoa học đang thử thách sự hạn chế của bộ não con
người, một bộ não bao gồm khoảng 10.000 triệu tế bào được kích thích xung điện
đã được trù tính với những bản năng của lịch sử lâu dài của chúng ta và dễ tiếp
thu những ý kiến mới dù đúng hay sai. Tổng số những tế bào này cung cấp cho
chúng ta biết được cá tính luôn thay đổi của chúng ta và sự loại bỏ từng phần
bằng cách giải phẩu hay thay đổi nhịp bằng sự điều trị bất ngờ thay đổi nhân
cách của chúng ta…
Bạn thấy rõ ràng đức Phật là một con người giản đơn, tận
tuỵ, đơn chiếc, phấn đấu để đạt được ánh sáng trí tuệ, một cá nhân mang bản
chất con người sinh động, chứ không phải là một huyền thoại. Trong số các
truyền thuyết thần kỳ tôi cũng cảm thấy có một con người, đó là đức Phật. Ngài
đã gởi bức thông điệp tiêu biểu cho tính cách của tôn giáo mình cho toàn thể
nhân loại trên khắp toàn cầu. Nhiều tư tưởng hiện đại tuyệt vời nhất của chúng
ta ngày nay rất hài hòa với giáo lý của Ngài. Ngài dạy tất cả những khổ đau và
sự bất mãn trong cuộc sống là do ích kỷ. Ích kỷ có 3 hình thức. Một là sự tham
muốn nhằm thoả mãn những cảm giác của cá nhân; hai là sự khát ái, hay muốn bất
tử; ba là tham vọng được thành công về của cải vật chất và thế gian trần tục.
Trước khi một con người muốn trở nên thanh tịnh, anh ta phải từ bỏ lối sống cho
những nhu cầu dục vọng của chính mình. Sau đó, anh ta mới có thể trở thành một
bậc vĩ nhân. đức Phật, ra đời trước Đấng Christ, đã dùng nhiều hình thức ngôn
ngữ khác nhau để kêu gọi con người hãy sống với đức tính vị tha. Xét về một số
phương diện, Ngài rất gần gũi với chúng ta và những nhu cầu của chúng ta. Ngài
rất minh bạch hơn Chúa đối với tinh thần phục vụ con người, và không mơ hồ về
vấn đề bất tử của cá nhân.
H.G. Wells
Nếu chúng ta ao ước muốn nhìn thấy con người thánh thiện
nhất của nhân loại, hãy nhìn vị hoàng đế trong y phục của một người hành khất;
chính là Người với sự thánh thiện của Ngài được xem là vĩ đại nhất trong nhân
loại.
Abdul Atahiya thi nhân Hồi giáo.
Nếu bất kỳ vấn đề nào phải được xem xét, thì vấn đề ấy phải
được xem xét một cách hài hòa an lạc và dân chủ như phương pháp mà đức Phật đã
dạy.
J. Nehru, cựu thủ tướng Ấn Độ
Sự khác biệt giữa đức Phật và một chúng sanh tầm thường
cũng giống như sự khác biệt giữa một người bình thường và người điên khùng mất
trí.
Một nhà văn.
Đức Phật thật xứng đáng được bầu chọn là một nhân vật được
đại đa số nhân loại tôn kính nhất.
Giáo sư Saunders, Tổng thư ký hiệp hội thiên chúa giáo
Y.M.C.A, Ấn Độ, Miến điện và Tích Lan.
Đức Phật vĩ đại hơn tất cả các học thuyết và tín điều khác,
và thông điệp vĩnh cửu của Ngài đã làm cho nhân loại rung động qua nhiều thời
đại. Có lẽ không thời điểm nào trong lịch sử quá khứ nhân loại mà thông điệp về
hòa bình của Ngài lại cần thiết hơn cho nhân loại đang khổ đau và điên cuồng
như thế giới hiện nay.
Nehru
Khi chúng ta đọc những bài pháp của đức Phật, chúng ta bị
cảm kích bởi tinh thần lý trí khoa học của Ngài. Con đường đạo đức luân lý của
Ngài, ngay trong những bước đầu tiên là những quan điểm đúng đắn, một cái nhìn
lý trí. Ngài nỗ lực nhằm xua tan tất cả những màng nhện giăng mắc làm ảnh hưởng
đến cái nhìn và định mệnh của nhân loại.
Tiến sĩ S. Radhakrishnan, Đức Phật Cồ Đàm
Đặc điểm nổi bật đáng chú ý nhất của đức Phật là sự kết hợp
độc nhất vô nhị giữa một tinh thần khoa học trầm tĩnh và sự thông cảm thâm uyên
đầm ấm và từ tâm. Thế giới ngày nay ngày càng hướng về đức Phật nhiều hơn vì
chỉ có Ngài là người đại diện cho lương tâm của nhân loại.
Moni Bagghee, "đức Phật Của Chúng Ta".
Đức Phật là người tiên phong của thương yêu nhân loại và là
một triết gia siêu phàm kết hợp trong mình một cá tính dũng cảm và sáng chói.
Ngài có những điều để nói mà không một ai khó lòng mà quên được là sau hơn 2500
năm hăng say, vội vã và thuyết giảng về nền tảng của tri thức. Vĩ đại hơn là
trí tuệ của Ngài là một tấm gương mà NGài đã đưa ra làm chứng.
Moni Bagghee, Đức Phật của Chúng Ta.
Đức Phật như là một bậc lương y. Cũng như bác sĩ phải biết
chẩn đoán nhiều căn bệnh khác nhau, nguyên nhân của bệnh, thuốc giải độc và
phương pháp chữa trị, và có thể áp dụng thuốc thích hợp. Cũng vậy, đức Phật dạy
cho chúng ta Bốn chân lý thánh thiện (Tứ Thánh Đế) chỉ ra sự hiện hữu của khổ
đau, nguyên nhân của khổ, sự đoạn diệt và con đường đưa đến sự diệt tận của khổ
đau.
Tiến sĩ Edward Conze, "Phật giáo"
Đức Phật không phải là tài sản của riêng cho giới Phật tử.
Ngài là tài sản của toàn thể nhân loại. Giáo pháp của Ngài dành cho tất cả mọi
người. Mọi tôn giáo, được ra đời sau đức Phật, đã mượn nhiều ý tưởng hay đẹp từ
đức Phật.
Một học giả Hồi Giáo.
Đức Phật là một người cha nhìn thấy đàn con của mình đang
nô đùa, vui chơi trong ngọn lửa thế gian đầy nguy hiểm và Ngài dùng mọi phương
tiện thiện xảo để cứu các con mình ra khỏi nhà lửa đang cháy này và đưa chúng
đến nơi an lạc của Niết-bàn.
Giáo sư Lakshimi Narasu, "Tinh Hoa Của Phật giáo"
Càng ngày tôi càng cảm thấy rằng đức Phật Thích Ca Mâu Ni
gần gũi nhất về các đức tính và thực nghiệm của Ngài. Ngài là con đường, là
chân lý, và là lẽ sống.
Giám mục Milman.
Đó chính là lúc tôi đang sinh sống tại Oxford vào những năm
đầu năm 1970 tôi bắt đầu quan tâm thích thú Phật giáo. Cuộc đời của tôi thì đầy
dẫy những bối rối và căng thẳng, và tôi tìm thấy triết lý đạo Phật một phương
pháp tư duy mà có thể làm say đắm tôi bởi sự thanh tịnh vắng lặng và lối phân
tích triệt để những tham dục, sự từ bỏ tất cả những sức mạnh của một thế
giới cảm xúc hư ảo mà tôi đang sống, và một sự hứa hẹn của một sự thành thật
mạnh mẽ không mang bản chất tình cảm.
Andrew Harvey tác giả người Anh và nhà thơ của trường đại
học Fellow of all Souls Oxford.
Tôi rời Ấn Độ và trở về Colombo, nơi tôi làm một người
khách của một gia đình sinh viên Tích Lan mà tôi gặp anh ta tại Perth,
Tây Úc. Họ đều là Phật tử, nhà của họ xung quanh một ngôi chùa, và không khí
ngôi nhà rất là yên tĩnh và ôn hòa. Tôi đàm luận rất nhiều về Phật pháp với họ
và họ đưa tôi đi đến một ngôi chùa nằm trên những ngọn đồi tại Kandy, nơi mà
tôi gặp những tu sĩ và tôi đối thoại rất nhiều về vị trụ trì già của ngôi chùa,
vị trụ trì này đã giải thích cho tôi rất nhiều về đạo Phật. Tôi cảm thấy vô
cùng thích thú về tôn giáo này.
Một nhà lữ hành người Âu châu
Phật giáo là một hệ thống không biết đến theo ý niệm cuả
Tây phương; từ chối một sự hiện hữu của một linh hồn ở nơi con người; coi đức
tin vào sự bất tử là một sự sai lầm; từ chối bất cứ kết quả nào của sự cầu
nguyện và hy sinh dâng hiến thần linh. Đạo Phật còn là một hệ thống khuyên con
người không nên trông cậy vào đâu nhưng chỉ bằng nỗ lực của chính bản thân để
đạt được sự giải thoát, cứu rỗi cho chính mình; một hệ thống mà sự thanh tịnh
bản lai của nó không biết gì về những hạnh nguyện của sự phục tùng và chưa bao
giờ tìm sự cứu giúp của một cánh tay thế tục nào, nhưng đã truyền bá khắp nhân
loại.
Trong thế giới đầy bão tố và xung đột, hận thù và bạo động,
thông điệp của đức Phật toả sáng như một vầng thái dương rực rỡ. Có lẽ không
một thời điểm nào trong lịch sử nhân loại mà thông điệp của Ngài lại cần hơn
cho thế giới của những quả bon nguyên tử và khinh khí. Hơn hai nghìn năm qua đã
làm tăng thêm sức sống và sự thật của thông điệp này. Chúng ta hãy nhớ lại bức
thông điệp bất diệt đó và cố gắng uốn nắng tư duy và hành động của chúng ta dựa
trên ánh sáng của chân lý đó. Chúng ta có thể bình thản đối diện với những sự
kinh hoàng của thời đại bom nguyên tử và giúp một phần nhỏ trong việc thúc đẩy
con người tư duy và hành động đúng đắn.
Nehru
Đây là một hệ thống giáo lý mà chúng ta có thể thực hành
theo một cách tự tin. Liệu nơi nào trong thế giới các tôn giáo, hệ thống thờ
cúng tôn giáo và các tín ngưỡng, chúng ta có thể tìm thấy một bậc đạo sư thông
thái như thế? Trong chuỗi những vì sao sáng tỏ, Ngài là vì tinh tú khổng lồ của
những vì sao sáng nhất, vĩ đại nhất. Không có gì là ngạc nhiên mấy khi mà các
nhà khoa học, triết gia, và những con người có học thức cao đã khẳng quyết
rằng: "Ngài là con Người vĩ đại nhất chưa từng có trong lịch sử nhân
loại". Vầng hào quang toả sáng của bậc thầy vĩ đại này rọi sáng khắp thế
gian đau khổ và tối tăm, giống như ngọn hải đăng dẫn đường và toả sáng cho nhân
loại.
Một nhà văn Âu châu.
Những giáo lý như : Lịch thiệp, thanh tịnh, từ bi và sự
giải thoát khỏi những tham ái ích kỷ là những lời dạy căn bản của đạo Phật- một
tôn giáo vĩ đại của Phương Đông.
E.A. Burtt, "đức Phật Từ Bi"
Phật pháp giống như một cái cầu được khéo xây bằng
những mảnh thép uyển chuyển, linh động, gió và nước khó làm cho nó huỷ hoại
được. Nó tự thích nghi với những hoàn cảnh thay đổi, nhưng đồng thời nó cũng đã
củng cố một cách chắc chắn những nền tảng và mở ra một con đường an toàn đưa
đến sự Bất Tử, Niết-bàn.
Tỳ-kheo Khantipalo, "Khoan Dung"
Phương Đông huyền bí, quê hương màu mỡ của các tôn giáo,
chắc chắn đã cung cấp cho chúng ta một sự phát hiện chân thật ở nơi đạo Phật,
bởi vì đạo Phật giúp cho chúng ta biết được vẻ đẹp của luân lý đạo đức và sự
thanh tịnh vốn tiềm ẩn sâu xa trong bản chất của con người mà không cần một
đấng thần linh nào khác hơn là một đấng thần linh trú ẩn trong tâm của con
người để thức tỉnh họ sống một cuộc sống huy hoàng.
Charles T. Gorham
Phật giáo là một tôn giáo rất thiết thực bởi vì Phật
giáo quan niệm về cuộc đời và thế giới một cách thực tế. Phật giáo không lôi
kéo chúng ta đến thiên đàng của những người vô trí một cách sai lầm. Phật giáo
cũng không đe doạ và làm cho chúng ta khổ sở bằng tất cả những nỗi ám ảnh sợ
hãi tưởng tượng và cảm giác tội lỗi. Tôn giáo này kêu gọi chúng ta một cách
chính xác và khách quan những gì chúng ta đang là và những gì thế giới xung
quanh chúng ta, và chỉ cho chúng ta con đường đưa đến tự do giải thoát hoàn
toàn, sự an lạc, hạnh phúc.
Hoà thượng Tiến sĩ W.Rahula.
Sứ mệnh của đức Phật vô cùng độc đáo tiêu biểu cho tính
cách của Phật giáo. Và vì thế, sứ mệnh này đứng biệt lập hẳn với các tôn giáo
khác trên thế giới. Sứ mệnh của Ngài là mang lại những loài chim lý tưởng bay
trên không gian nhưng gần mặt đất hơn, bởi vì thức ăn của chúng thuộc về trái
đất.
Hazzat
Inayat Khan, "Thông điệp của Sufi"
Phật giáo đã cung ứng cho bước tiến của nền văn minh thế
giới và văn hóa thật sự, nhiều hơn bất luận ảnh hưởng nào khác trong ký sự của
nhân loại.
Sử gia H.G.Wells
Văn minh Phật giáo vươn mình lên vững vàng trước khi tất cả
mọi người đến nằm trong ảnh hưởng của nó, một kiểu mẫu của con người xứng đáng
được kính trọng phải như vậy, một nhân vật lý tưởng đáng nêu gương lành cho
hàng vua chúa cũng như hạng cùng đinh…sản xuất tài sản để sử dụng trong công
tác xã hội thay vì lợi ích cá nhân, đo lường cá nhân bằng giá trị đạo đức và
trí tuệ, không phải bằng quyền lực kinh tế, và sự lớn mạnh của quốc gia bằng
tình trạng thanh bình thạnh vượng của dân trong nước chứ không phải thăng bằng
chỉ số chi thâu thương mãi. Đó là vài giá trị được cụ thể hóa trong lý tưởng
của người Phật tử.
Tiến sĩ Richard A. Gard
Duy nhất trong tất cả các tôn giáo lớn thế giới, Phật giáo
tiến hành trên con đường của mình mà không gây sát hại, hành hạ, cấm đoán, kiểm
duyệt hoặc tìm tòi soi bói.
Aldous Huxley
Tôn giáo của những tâm hồn cao cả và toàn vẹn nhất có thể
tồn tại chung mà hoàn toàn không có niềm tin khải thị nào, trong ý nghĩa chân
thật nhất của danh từ không có niềm tin nơi tinh chất cốt yếu của đạo giáo thần
khải, nơi có một thần linh vô ngã. Trong danh từ thần linh vô ngã, tôi bao gồm
tất cả những ý niệm về cái gọi là thần linh siêu nhân, cùng một bản chất tinh
thần và đạo đức như một người nhưng ở tầng lớp cao hơn, hoặc một năng lực đạo
đức siêu phàm.
Julian
Huxley, Relegion without Revelation
Bằng đức hy sinh rộng lớn mênh mông của Ngài, bằng hạnh từ
khước vĩ đại của Ngài, và bằng phẩm hạnh thanh tịnh vô nhiễm của đời Ngài, Ngài
đã ghi tạc lên trên Aán độ giáo những dấu vết không bao giờ phai mờ, và đối với
bậc thầy vĩ đại ấy, Aán độ giáo còn mang một mối nợ phải được tri ân muôn đời.
Mahatma Gandhi
Tôi không biết cái chi trên thế gian này vĩ đại hơn hình
ảnh của đức Phật. Đó là sự hiện thân tuyệt hảo của tâm linh trong lĩnh vực hữu
hình.
Bá tước Kayserling " The Travel Diary of a
philosopher".
Đức Phật lúc nào cũng là nguồn gợi cảm dồi dào cho tôi…
chính phẩm cách cá nhân của Ngài đã lôi cuốn tôi.
Nehru
Phật giáo truyền dạy một lối sống, không phải bằng cách
thống trị mà bằng nguyên tắc, một lối sống tốt đẹp, và đó là một tôn giáo khoan
dung độ lượng. Đây là hệ thống từ thiện nhất dưới mặt trời. Không bao giờ và
không nơi nào có máu đổ trong sự nghiệp truyền bá. Không bao giờ có sự hành hạ
ngược đãi những ai không cùng theo một tín ngưỡng- một bài học mà người Cơ đốc
giáo vẫn còn phải học. đức Phật dạy cho con người làm cho thế giới ngày càng
tốt đẹp hơn và thánh thiện ngay trong đời sống hiện tại.
Joseph Wain
Ta có thể nhận thấy trong giáo huấn của đức Phật những điểm
giống với học thuyết dân chủ hiện đại. Ngài khuyên dạy lòng khoan dung đại
lượng, ý niệm khơi dậy những cuộc thảo luận, quyền tự do lựa chọn rộng rãi,
bình đẳng bất bạo động, vô thường-mỗi ý niệm ấy đều đi ngược dòng những tập tục
thông thường vào thời của Ngài. Đó là những khái niệm cách mạng mà đức Phật giới
thiệu từ hơn 2500 năm trước đây. Đó là những cải tiến tri thức trọng đại..
nhưng tất cả đều có tính cách dân chủ, trong nội dung cũng như tác ý.
Giáo sư Ralps Buultjens " Buddhism and
Democracy"
Con đường của Phật giáo là con đường trung đạo giữa hai cực
đoan. Đây không phải là một sự thoả hiệp yếu đuối, nhưng là một sự vừa phải hợp
lý tránh sự cuồng tín và sự lười biếng giãi đãi, và tiến lên một cách đều đều
và có quyết tâm mà không có sự chần chừ đem lại sự phản ứng riêng, mà luôn tiến
không ngừng bước. Đức Phật gọi nó là Con Đường Thánh Tám Ngành (Bát thánh đạo)
đưa đến Niết-bàn, và con đường này có thể được xem như là một cuộc hành trình
tu tập tâm linh thánh thiện cao quý nhất, song được biểu hiện ở một hình thức
giản đơn.
Phật giáo cũng không bi quan hay yếm thế. Phật giáo là một
hệ thống tư duy, một tôn giáo, một khoa học tâm linh, và một triết lý sống hợp
lý, thiết thực và bao hàm tất cả. Hơn 2500 năm, Phật giáo đã làm thoả mãn những
nhu cầu tâm linh của hơn 1/3 nhân loại. Đạo Phật mời gọi những ai đi tìm chân
lý bởi vì Phật giáo là một tôn giáo không có giáo điều, làm thoả mãn nhu cầu
của lý trí cũng như con tim, nhấn mạnh tinh thần tự tin, tự lập đi kèm với sự
khoan dung đối với quan điểm của những người khác, bao hàm cả khoa học, tôn
giáo, triết học, tâm lý học, huyền thoại, đạo đức luân lý và nghệ thuật. Đạo
phật còn chỉ ra duy con người là đấng sáng tạo của kiếp sống hiện tại của mình
và là người thiết kế độc nhất toàn bộ sinh mệnh của anh ta.
Christmas Humphreys (1901-1983), thẩm phán nổi tiếng người
Anh.
Tôi càng tu tập thiền chỉ, tôi càng trở nên có ấn tượng với
phương pháp này như là một hệ thống huấn luyện tâm. Nó phù hợp với thái độ của
tâm của người phương Tây chúng ta khi nghiên cứu khoa học: không thành kiến,
không thiên vị, khách quan và phân tích. Nó dựa trên kinh nghiệm cá nhân và
trực tiếp chứ không dựa vào ý kiến hay quan điểm của một ai khác. Nó vô cùng
đơn giản và tận dụng vừa phải sự chú ý một cách cơ bản đơn giản như một cái
nhìn được duy trì nhưng trong một sự chọn lựa cẩn thận và hệ thống giới luật
nghiêm khắc. Do đó, nó khám phá ra tất cả những sự phán quyết hấp tấp, thiếu
chính xác, tất cả những điều nói về nó, tất cả những tranh luận, thảo luận, và
một sự lãng phí thời gian như chúng ta thường đam mê trong thế giới Tây Phương
của chúng ta. Trên thực tế, nó giải thoát chúng ta ra khỏi cuộc sống theo đường
mòn và sự trói buộc của chính mình, những thành kiến của chúng ta, những lời
sáo, sự vô minh và sự bảo thủ cố chấp của chúng ta, nhằm mục đích tạo cho chúng
ta sự tự do nhìn thế giới và chứng minh thế giới chân thật.
Tiến sĩ Graham Howe MB.BS. DPM, nhà vật lý học nổi tiếng
người Anh.
Quả thật chỉ có ánh sáng từ phương Đông, từ những triết lý
sống động, hài hòa và nhất là những huấn thị sâu sắc và giáo lý độc nhất
vô nhị của đức Phật sẽ là sự dàn trải và khoả lấp những lỗ hổng, cũng như sự
giải trừ các khủng hoảng cho đời sống hiện đại của Tây phương-một đời sống mang
danh là tiến hóa nhưng thực chất đang rơi vào tha hóa.
Matthieu Ricard, nhà khoa học về sinh học phân tử người
Pháp.
Thực thể hay chân ngã là sự khẳng định bao la, không có
tính phủ định, sự cân bằng hóa giải hết mọi thứ quan hệ dính mắc ràng
buộc..chân tâm không bị ràng buộc bởi tất cả mọi giới hạn. Trong con người nó
luôn luôn được xác định như sự lạc quan, tích cực ngược lại với sự bi quan tiêu
cực…..Phật giáo là một triết thuyết siêu nghiệm, mọi hành vi tạo tác dù thiện
hay ác đều tạo ra quả và không vượt khỏi luật nhân quả.
Người tốùt lành hay thiện tri thức, ngoài việc thấy biết về
thiên quốc còn thấy được những điều tốt lành trên mặt đất, thấy được những công
cụ cao quý của những tâm hồn cao quý. Khi chúng ta thấy các đường xe hoả, các
nhà máy và các ngân hàng, chúng ta thương hại cho sự nghèo khổ của những người
Phật tử mơ mộng. Thực sự, tinh thần Phật giáo cũng tạo ra một lực lượng sáng
tạo tương tự, nhưng nó đem lại sự bình yên và hạnh phúc thực sự cho toàn thể vũ
trụ thay vì sự thụ hưởng trần tục qua việc ăn ngon mặc đẹp và những ly rượu đắt
tiền, nhưng phải trả giá bằng những khổ đau, bằng chiến tranh bóc lột, bất công
và bằng sa đoạ.
Ralph Waldo Emerson, nhà văn người Mỹ.
Những lời Phật nói là chân lý tối thượng mà người nghe có
thể đạt đến chỗ đoạn diệt hoàn toàn mọi khổ đau; có thể đi đến con đường tốt
nhất để đạt được chân tính (Phật tính) và có thể thành Phật. Con đường tốt nhất
để đạt được Phật tính là con đường thiền định.
Tôi biết một số người nghĩ xấu về tôi khi họ nghe tôi nói
về đức Phật, vì họ kính yêu Chúa hơn Phật của tôi; nhưng tôi cam đoan rằng tôi
vẫn vui lòng vì lòng kính yêu là nguyên tắc chính của lòng mộ đạo.
Henry
David Thoreau, nhà văn người Mỹ
Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo của toàn cầu,
vượt lên trên mọi thần linh, giáo điều và thần học. Tôn giáo ấy phải bao quát
cả phương diện tự nhiên lẫn siêu nhiên, đặt trên căn bản của ý thức đạo lý,
phát xuất từ kinh nghiệm tổng thể gồm mọi lĩnh vực trên trong cái nhất
thể đầy đủ ý nghĩa. Phật giáo là tôn giáo duy nhất đáp ứng đầy đủ các điều kiện
đó.
Nếu có một tôn giáo nào đương đầu với các nhu cầu của khoa
học hiện đại thì đó là Phật giáo. Phật giáo không cần xét lại quan điểm của
mình để cập nhật hóa với những khám phá mới của khoa học. Phật giáo không cần
từ bỏ những quan điểm của mình để xu hướng theo khoa học, vì Phật giáo bao hàm
cả khoa học cũng như vượt qua khỏi khoa học.
Albert Einstein, nhà vật lý học vĩ đại nhất của thế kỷ 20.
Phật giáo là một tôn giáo cao cả nhất, và là một trong
những tia sáng vĩ đại nhất không chỉ riêng cho Châu á mà cho khắp toàn cầu.
Schopenhauer,
triết gia người Đức
Trong đạo Phật, không có thần thánh nào có khả năng giải
thoát con người. Chỉ có chính con người có khả năng đó, hiện tại và ngay ở đây.
Sử gia Jean Marc.
Khoa học và đạo Phật có một nền tảng chung về tương quan,
tương duyên, và khái niệm vô thường. Mọi hiện tượng đều được coi như một mấu
trong mạng lưới của quan hệ nhân quả; vì thế nên nó không có bản chất riêng
biệt. Cách nhìn ấy ngược lại với những cách nhìn của những tôn giáo lớn, tin
nơi đấng Thần linh. Các tôn giáo này khẳng định sự tồn tại của những thực thể
bất di, bất dịch, vượt ngoài quy luật nhân quả, như có Thượng đế, có Chúa, có
linh hồn.
Francisco Varela, nhà sinh học thần kinh, Giám đốc nghiên
cứu của Trung tâm Nghiên cứu Khoa học toàn quốc, Pháp.
Đức Phật với trí tuệ vĩ đại đã chống lại các tập tục mê
tín, các lễ nghi phiền toái, các Thầy tu Bà-la-môn thủ đoạn và những đặc quyền
đặc lợi dành cho giai cấp này. Ngài đã lên án những quan niệm thần học và siêu
hình học, các bùa phép, sự thiên khải và sự siêu nhiên phản khoa học. Ngài chú
trọng đến logic, lý trí và thực nghiệm. Ngài nhấn mạnh đến các phương diện đạo
đức và phương pháp của Ngài là sự phân tích mang tính tâm lý học…
Jawaharlal Nehru.
Tất cả mọi người sống ở Á châu đều có thể hãnh diện về một
tôn giáo không những có trước tôn giáo Tây phương cả hơn 500 năm mà còn có thể
bành trướng và duy trì mà không cần dùng đến bạo lực, và không hề bị hen ố bởi
những cuộc chiến tranh tôn giáo và Thánh chiến.
Tiến sĩ Edward Conze-Buddhism.
Tất cả các tôn giáo Á Đông đều phải biết ơn Phật giáo về
giáo lý đạo đức nhất mà giá trị của tôn giáo này còn hữu hiệu cho đến ngay bây
giờ mà tột đỉnh của giáo lý này là lòng từ bi đối với mọi chúng sanh, giáo lý
của đấng Toàn Giác.
William Hunter- A Brief History of The Indian People.
Phật giáo thực sự là làn gió xuân thổi từ đầu này tới đầu
kia của căn vườn Á châu và làm nở ra, không những chỉ có những bông sen ở Ấn
Độ, mà còn làm nở những bông hoa hồng ở Ba Tư, hoa đền đài ở Tích Lan, hoa cúc
ở Trung Hoa, hoa Anh đào ở Nhật Bản v.v…Toàn bộ văn hóa Á châu là văn hóa Phật
giáo. Không có nơi nào ngoài Đông phương mà tư tưởng Phật giáo lại có thể thống
nhất. Mỗi quốc gia đều có cách riêng để chấp nhận tư tưởng Phật giáo theo nhu
cầu địa phương, nhưng khi khối Đông phương phải đối đầu với khối Tây Phương thì
tư tưởng Phật giáo là lực nối kết những quốc gia này lại với nhau.
Ơû đây chúng ta nhấn mạnh sự kiện là, nếu lịch sử Phật giáo
có cho thế gới bài học nào, thì đó là trong sự truyền bá đạo Phật từ thung lũng
sông Hằng đến Tích Lan ở miền nam, cho tới Cao Nguyên Trung Á ở phía bắc, rồi
tới các hải đảo Nhật Bản ở phía đông, Phật giáo, văn hóa, văn minh và giáo dục
là những bạn đồng hành không thể tách rời nhau được.
Giáo sư Bapat- 2500 Years of Buddhism.
Toàn thể vũ trụ là một bãi chiến trường bao la hùng vĩ. Nơi
nơi đều diễn ra sự tranh đấu. Sự hiện hữu chỉ là một sự tranh đấu vô hiệu chống
lại những mầm mống của các loại bệnh khủng khiếp, giữa các phân tử với các phân
tử, các nguyên tử với các nguyên tử, các điện tử với các điện tử. Tâm vẫn là
một cảnh chiến trận. Sắc, thinh, hương, vị, v.v…là những hậu quả của sự phản
công và sự tham gia của các năng lực bên ngoài. Chính sự hiện hữu của chiến
tranh chứng minh rằng trên thế giới không có một quốc gia hoàn toàn hòa bình và
có một trạng thái hoàn toàn an lạc, hòa bình. Đó là những gì chúng ta gọi là
Thế giới Niết-bàn.
Hoà thượng Narada Thera- The Bodhisatva Ideal.
Đức Phật không hận thù giận dữ với thế gian. Ngài xem thế
gian là vô thường và khổ đau hơn là đồi bại, tội lỗi, thế gian là vô minh hơn
là phiến loạn. Ngài không hề bày tỏ thái độ buồn phiền về những người không
nghe theo Ngài và cũng không bày tỏ sự khó chịu.
Giáo sư Elliot- Buddhism and Hinduism.
Lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, đức Phật đã khuyên
nhủ, tha thiết yêu cầu, và kêu gọi nhân loại không nên làm sát hại sanh mạng,
không nên dâng hiến sự cầu nguyện hoặc là ca tụng hay hy sinh sanh mạng dâng
hiến cúng tế chư thần linh. Với tất cả tài hùng biện trong những lời yêu cầu
của Ngài, bậc giác ngộ đã quyết liệt tuyên bố rằng các vị thần linh cũng là
những vị hết sức cần sự cứu rỗi cho chính các vị.
Giáo sư Rhys Davids.
Ý niệm về tội lỗi của Phật giáo có phần hơi khác về ý niệm
của thiên chúa giáo. Theo người Phật tử, tội lỗi chỉ là do vô minh hay không
hiểu mà gây ra. Con người tội lỗi tồi bại là một con người vô minh. Anh ta
không cần sự trừng phạt và sự lên án mà cần được sự chỉ giáo hướng dẫn. Anh ta
không được xem như là một kẻ vi phạm những mệnh lệnh của Thượng đế hoặc là như
là một kẻ phải cầu xin lòng bi mẫn và sự tha thứ của Thượng đế. Điều cần thiết
hơn đối với những người bạn phạm tội như anh ta hãy cho anh ta biết được lẽ
phải của con người. Người Phật tử không tin người phạm tội có thể thoát
được những hậu quả đã gây ra bằng những nỗ lực cầu nguyện để thương lượng với
Thượng đế.
John Walters- Mind Unshaken.
Phật giáo và Kỳ na giáo chắc chắn không phải là Ấn giáo
hoặc là ngay cả giáo lý vệ đà. Nhưng cả hai tôn giáo này đều phát sinh tại Ấn
độ và là những bộ phận không thể thiếu được trong đời sống của người dân Ấn,
nền văn hóa và triết học Ấn. Tín đồ Phật giáo hay tín đồ Kỳ na giáo tại
Ấn hoàn toàn là sản phẩm của tư duy và văn hóa Ấn, song đó không phải là
tín ngưỡng của Ấn giáo. Đó là một sự nhầm lẫn khi đồng hóa nền văn hóa Ấn Độ với
nền văn hóa Ấn giáo.
Nehru -Dicovery Of India.
Với ý kiến cân nhắc thận trọng, tôi cho rằng phần căn bản
thiết yếu nhất của nền giáo lý đức Phật hình thành nên một phần không thể thiếu
được của Ấn giáo. Hiện nay người Ấn độ giáo tại Ấn Độ không thể hồi tưởng lại
những dấu vết của họ và đi đằng sau bước chân của những sự cải cách vĩ đại mà
đức Phật Cồ- đàm đã làm ảnh hưởng đến Ấn giáo. Bằng sự hy sinh lớn lao, bằng sự
xuất thế vĩ đại của Ngài, và sự thanh tịnh hoàn toàn của cuộc đời Ngài, Ngài đã
để lại một ấn tượng không thể nào tẩy xoá được cho Ấn giáo, và Ấn giáo suốt đời
nhớ ơn công lao vĩ đại của bậc thầy vĩ đại đó.
Thánh Mahatma Gandhi, Maha Bodhi.
Không có một tôn giáo nào tại Ấn Độ thời tiền Phật giáo có
thể được cho là tôn giáo thiết lập nên một hệ thống luân lý đạo đức và tôn giáo
mang giá trị phổ quát và bắt buộc cho toàn thể nhân loại.
Tiến sĩ S.N Dasgupta.
Đức Phật không chỉ nhận ra sự thực tối hậu mà Ngài còn
trình bày một cách rõ ràng tri thức thâm uyên của Ngài vượt khỏi những
phạm trù của lĩnh vực tri thức của nhân loại và các thần linh thoát khỏi những
sự nguỵ trang huyền thoại và lớp vỏ hoang đường. Ơû đây, tuy nhiên, tri
thức của Ngài được trình bày theo một hình thức thuyết phục và vững chắc để cho
con người có thể theo Ngài mà hành trì những lời dạy ấy một cách tích cực và tự
tin. Vì chính lý do này, đức Phật không yêu cầu bất kỳ một niềm tin nào, nhưng
hứa hẹn một tri thức.
George Grimm, The Doctrine of The Buddha.
Lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, đức Phật tuyên bố một
sự cứu rỗi mà mỗi người có thể tự mình đạt được và bằng chính bản thân mình
ngay trong kiếp sống hiện tại mà không cần đến sự giúp đỡ tối thiểu của một
Đấng Thiêng Liêng nào hay các vị thần linh. Ngài hoàn toàn nhấn mạnh về giáo lý
tự tin, tự thanh tịnh, thanh nhã, giác ngộ, an lạc, và tình thương phổ quát.
Ngài cũng nhấn mạnh sự cần thiết của tri thức, bởi vì không có trí tuệ thì trí
tuệ siêu việt không thể đạt được ngay trên cuộc đời này.
Giáo sư Elliot, Buddhism and Hinduism.
Không phải chính đức Phật đã giải thoát con người, nhưng
Ngài dạy họ tự giải thoát cho chính mình. Họ chấp nhận về giáo lý chân thật của
Ngài không phải chỉ vì giáo lý đó là của Ngài, nhưng vì sự thuyết phục các nhân
Ngài, được thức tỉnh bởi những lời dạy của Ngài, phát sinh từ ánh sáng trí tuệ
của chính họ.
Tiến sĩ Oldenburg, một học giả người Đức.
Khoa học không thể đưa ra lòng tự tin trong trường hợp này.
Nhưng Phật giáo có thể đương đầu với những thách thức của nguyên tử bởi vì tri
thức siêu thế của Phật giáo xuất phát từ điểm mà khoa học kết thúc. Và điều này
rõ ràng đối với những ai nghiên cứu đạo Phật. Bởi vì, thông qua thiền định Phật
giáo, những yếu tố cấu thành bổ khuyết cho vấn đề đã được chứng minh và cảm
nhận được, và sự khổ đau, buồn rầu hoặc "Dukkha" của sự hiện hữu và
diệt tận (Lý duyên khởi) đã tạo ra chính nó với những gì chúng ta gọi là một
"tự ngã" hay "linh hồn"- sự vô minh về Sakkhayaditthi như
đã được đề cập trong giáo lý của đức Phật.
Egerton C. Baptist, -Supreme Science of the
Buddha.
Phật giáo giúp cho con người tự đứng vững trên đôi bàn chân
của chính mình và đánh thức sự tự tin và tự nỗ lực trong mỗi người.
Hòa thượng Narada
Thera-Buddhism in a Nutshell.
Con người vĩ đại hơn những sức mạnh mù quáng của thiên
nhiên bởi vì ngay cả anh ta bị che phủ bởi chúng anh ta vẫn duy trì được sự
vượt trội hơn về đức hạnh của sự hiểu biết của anh ta về những hiện tượng ấy.
Lại nữa, Phật giáo còn chuyển tải chân lý đi xa hơn nữa: Phật giáo chỉ ra rằng
bằng những phương tiện của sự hiểu biết, con người cũng có thể điều khiển những
hoàn cảnh, kiểm soát những vấn đề. Con người có thể thoát ra khỏi sự che mờ của
những hiện tượng sức mạnh ấy, và vận dụng nghững quy luật của tự nhiên để tự
mình vươn lên.
Pascal
Luật theo ý nghĩa khoa học là một sản phẩm thiết yếu của
tâm trí con người và không có một ý nghĩa gì khi tách ra con người. Lại càng có
ý nghĩa hơn khi tuyên bố rằng con người tạo ra những quy luật của tự nhiên hơn
là lập luận ngược lại rằng tự nhiên tạo ra cho con người những quy luật.
Giáo sư Karl Pearson.
Con người ngày nay là kết quả của sự lặp lại hàng triệu lần
những tư duy và hành động của anh ta trong vô lượng kiếp. Con người không phải
là một thứ sản phẩm được làm sẵn; anh ta trở thành và đang trở thành. Nhân cách
anh ta do sự lựa chọn của chính anh ta đinh đoạt, những tư duy và hành động mà
anh ta chọn lấy cho riêng mình bằng thói quen hình thành nên con người thực tại
của anh ta.
Hoà thượng Piyadassi.
Phật giáo là một tôn giáo hoạt động vì tinh thần dân chủ,
đề cao tính dân chủ trong tôn giáo, tính dân chủ trong xã hội, và tính dân chủ
trong lĩnh vực chính trị.
Tiến sĩ Ambedkar, bộ trưởng Luật Pháp đầu tiên của Ấn Độ
sau khi độc lập khỏi Anh.
Trên thế giới này, đức Phật đã trình bày những chân lý về
những giá trị vĩnh cửu và sự tiến bộ về mặt luân lý đạo đức không chỉ cho riêng
một lãnh thổ Ấn Độ mà là cho toàn thể nhân loại. Đức Phật là một trong những
nhà đạo đức vĩ đại kỳ tài chưa từng được chứng kiến trên thế gian này.
Albert Schweitzer, triết gia phương Tây.
Phật giáo đã đóng góp nhiều cho sự tiến bộ của những nền
văn minh thế giới và nền văn hóa chính đáng hơn là những sự ảnh hưởng khác
trong những biên niên sử của nhân loại.
H.G. Wells.
Không một trang sử Phật giáo nào đã từng bị nhạt màu đi bởi
ánh sáng của những ngọn lửa của toà án dị giáo, hoặc là bị làm đen tối bởi làn
khói của những người ủng hộ dị giáo hoặc là các thành thị của những người dân
theo tà đạo nóng bỏng, hay bị nhuộm đỏ bởi máu của những tội nhân vô tội vì sự
hận thù tôn giáo. Đạo Phật chỉ nắm và sử dụng một thanh gươm duy nhất - thanh
gươm của trí tuệ, và chỉ nhận ra một kẻ thù duy nhất- đó là vô minh. Đó là một
bằng chứng trong lịch sử, và người ta không thể chối cãi được.
Giáo sư V.P. Bapat, 2500 years of Buddhism.
Đó là một sự huy hoàng của Phật giáo mà nó đã tạo ra sự
giác ngộ về mặt tâm linh như là một điều kiện cần thiết cho sự cứu rỗi, giải
thoát. Trong Phật giáo, sự giác ngộ về mặt luân lý đạo đức và tâm linh là hai
nhân tố không thể chia cách nhau được. Trong khi luân lý đạo đức hình thành nên
cơ sở cho một đời sống cao thượng hơn, tri thức và trí tuệ làm hoàn hảo đời
sống đó. Không có một sự hiểu biết hoàn toàn về quy luật duyên khởi và chuyển
hóa, thì không một ai có thể được cho là sống có đạo đức thực sự nếu anh ta
không có một trí tuệ nội quán và tri thức cần thiết. Xét về phương diện này,
Phật giáo khác so với tất cả những tôn giáo khác. Tất cả các tôn giáo thuộc
nhất Thần giáo khởi đầu với một vài giả định nào đó, và khi những giả định này
tương phản với sự phát triển của tri thức, thì sự buồn rầu, khổ đau càng tăng
trưởng. Nhưng Phật giáo không bắt đầu bằng những giả định. Phật giáo đứng trên
tảng đá vững chắc của những sự kiện, và cho nên không bao giờ lánh xa ánh sáng
của tri thức.
Giáo sư Lakhsmi Narasu, The Essence of Buddhism.
Đức Phật Cồ Đàm bác bỏ ngay cả cái bóng dáng của sự hiện
hữu thường hằng bằng một sức mạnh siêu hình hữu ích lớn lao cho những người
nghiên cứu triết học, vì xét thấy điều đó chỉ cung cấp một nửa nhu cầu cho các
lời tranh luận nổi tiếng thuộc chủ nghĩa lý tưởng của Giám Mục Berkeley.
Thật là một dấu hiệu đáng kể về sự suy đoán tế nhị của Người Ấn rằng đức Phật
phải được nhìn nhận sâu sắc hơn các nhà theo chủ nghĩa lý tưởng hiện đại. Ngày
nay trên khắp thế giới tất cả nhân loại đều có khuynh hướng tư duy giác ngộ
không thiên về tư duy thần học, mà thiên về tư duy triết học và tâm lý học. Học
thuyết nhị nguyên thần học đang bị trôi dạt vào sự hiểm nguy. Những nguyên lý
cơ bản của tiến hóa và nhất nguyên luận đang được các nhà tư tưởng thế giới
chấp nhận.
Giáo sư Huxley, Evolution and Ethics.
Tại Ấn Độ 25 thế ký trước đây, người ta đã chứng kiến một
cuộc cách mạng về tâm linh và tôn giáo cuối cùng đã lật đổ được chủ nghĩa độc
thần và giới tu sĩ ích kỷ, và thiết lập nên một tôn giáo tổng hợp, một hệ thống
trí tuệ và tư tưởng có thể được gọi là Dhamma (Giáo Pháp)- một Triết Học Tôn
Giáo.
Anagarika Dharmapala, nhà chấn hưng Phật giáo Ấn Độ cận
đại, The World's Debt to Buddha.
Phật giáo là một sự chuẩn bị cho cuộc sống theo một cách mà
có thể mang lại những lợi ích cao nhất cho cuộc đời. Phật giáo là một tôn giáo
của trí tuệ mà ở đó tri thức và khả năng lý trí hoàn toàn chiếm ưu thế. đức
Phật không thuyết giảng để mà giáo hóa nhân loại về tôn giáo của mình mà để làm
cho hàng thính giả nghe và giác ngộ giáo lý của Ngài.
Một nhà văn Tây phương.
Phật giáo luôn luôn là một vấn đề của thấy và biết, chứ
không phải là vấn đề của tin tưởng và cầu nguyện. Giáo Pháp của đức Phật được
đánh giá như là một hệ thống giáo lý mời bạn đến để mà thấy, chứ không phải đến
để mà tin.
Hoà thượng tiến sĩ W.Rahula, What the Buddha Taught.
Phật giáo sẽ trường tồn cho đến khi nào mặt trời và mặt
trăng không còn hiện hữu nữa, và cho đến khi nào nhân loại không còn tồn tại
trên thế gian này nữa, bởi vì Phật giáo là một tôn giáo của con người cũng như
của chung cho tất cả nhân loại.
Bandaranaike, cựu Thủ tướng Tích Lan.
Người Phật tử không phải là một kẻ nô lệ cho kinh sách hoặc
cho bất cứ người nào. Anh ta cũng không dâng hiến sự tự do tư tưởng của mình
bằng cách trở thành đệ tử của đức Phật. Anh ta có thể hành động theo ý chí chí
tự do của mình và phát triển tri thức của anh ta đến mức độ có thể tự mình
chứng thành quả vị Phật bởi vì tất cả mọi người đều có thể thành Phật.
Hoà thượng Narada Maha Thera, What is Buddhism.
Đạo Phật dạy một cách sống không phải là theo luật lệ mà là
theo nguyên lý, một lối sống cao đẹp; và kết quả là, Phật giáo là một tôn giáo
của từ bi khoan dung. Phật giáo là một hệ thống nhân từ nhất trên thế gian này.
Giáo sĩ Joseph Wain.
Đọc một ít kiến thức về Phật giáo giúp chúng ta nhận thức
rằng hơn 2500 năm trước đây, đạo Phật biết nhiều hơn về vấn đề tâm lý
hiện đại của chúng ta hơn là nhân loại đã biết đến. Những tín đồ đạo Phật đã
nghiên cứu những vấn đề này từ lâu và cũng đã tìm ra những giải Pháp cho vấn đề.
Tiến sĩ Graham Howe.
Hiện nay, chúng ta nghe thấy nhiều về sức mạnh của tư duy,
song Phật giáo là một hệ thống huấn luyện tâm hoàn hảo nhất và hiệu quả nhất đã
được trình bày trước thế giới.
Dudley Wright.
Đức Phật đã tạo ra một tân thế hệ nhân loại, một thế hệ của
những anh hùng luân lý đạo đức, một thế hệ giải phóng những người công nhân lao
động, một thế hệ của các vị Phật.
Manmatha Nath Sastri.
Phật giáo là một tôn giáo sứ mệnh đầu tiên trong lịch sử
nhân loại với một thông điệp toàn cầu về sự cứu rỗi, giải thoát cho tất cả nhân
loại. Sau khi giác ngộ vô thượng Chánh Giác, đức Phật đã phái 62 vị đệ tử đầu
tiên đi vào đời truyền bá giáo pháp của NGài theo nhiều hướng khác nhau, yêu
cầu các vị này hãy truyền bá chánh Pháp vì lợi ích và hạnh phúc cho quấn sanh.
Ở đây, điều cần thiết là lưu ý đến một đặc trưng độc nhất
của tôn giáo của đức Phật, chính là đó là một tôn giáo của bất kỳ một vị đạo sư
nào, mà kết quả là một nền triết học nhất quán cho chúng ta biết về những chân
lý tối hậu của sự hiện hữu và thực tại. Tôn giáo của đức Phật là một triết lý
sống do sự chấp nhận một quan điểm sống được cho là thực tại. Triết lý của đức
Phật không phải là không đề cập đến bản chất của tri thức.
Tiến sĩ K.N. Jayatilleke, Buddhism and Peace.
Chỉ nói về Phật giáo thôi, người ta có thể khẳng định đó là
một tôn giáo không có sự cuồng tín. Mục đích của Phật giáo là nhằm tạo ra một
sự chuyển hóa từ bên trong của mỗi cá nhân bằng cách tự chinh phục và chiến
thắng mình, cho dù những sức mạnh của tiền bạc vật chất hay sự thuyết phục để ảnh
hưởng đến sự chuyển hóa đi nữa. đức Phật chỉ chỉ ra con đường duy nhất đưa đến
sự giải thoát, và con đường đó được để lại cho mỗi cá nhân để tự mình quyết
định nếu mình muốn đi theo con đường đó.
Giáo sư Lakshmi Narasu, Essence of Buddhism.
Đạo Phật giống như một lòng bàn tay và các tôn giáo khác
giống như những ngón tay trong lòng bàn tay.
The Great Khan Mongka.
Một số người nghĩ rằng Phật giáo là một tôn giáo đen tối và
buồn chán. Đó là một sự nhận xét sai lầm; Phật giáo sẽ làm cho tín đồ của mình
sáng lạng và vui tươi. Khi chúng ta đọc những mẫu chuyện tiền sinh của các vị
Bồ tát, các vị Phật tương lai, chúng ta biết được hạnh nguyện tu tập về sự hoàn
hảo của các đức tính kiên nhẫn và khoan dung độ lượng như thế nào. Phật giáo sẽ
giúp cho chúng ta được vui tươi ngay cả trong những tình huống khó khăn lớn và
lấy làm vui mừng trong những lợi ích khác.
Thượng tọa Gnanatiloka, một học giả Phật học người Đức.
Hãy trở về với Phật giáo và bạn sẽ đọc được những gì mà vị
Hoàng đế A Dục không chỉ tuyên thuyết một nền luân lý đạo đức cao thượng mà còn
sử dụng quyền uy của một bậc đế vương theo một phương cách khiến cho các vị đế
vương hiện đại cuả các niềm tin khác phải hổ thẹn.
Geoffrey Mortiner, một nhà văn Tây Phương.
Thậm chí cho đến ngày nay không thể xem rằng Phật giáo đã
bị mai một, suy yếu bởi vì Phật giáo được bám chặt trên những nguyên lý cố định
không bao giờ được sửa đổi. Gertrude Garatt.
Tất cả những lời dạy của đức Phật có thể được tóm gọn lại
trong một thuật ngữ: " Dhamma" (Pháp- Chân Lý). Pháp này chân thật,
hiện hữu không chỉ ở nơi tâm trí của con người mà còn hiện hữu ở khắp nơi trên
vũ trụ này. Tất cả vũ trụ là một sự hiện thân tiết lộ của Pháp. Quy luật của tự
nhiên mà giới khoa học ngày nay đã khám phá là sự biểu hiện của Pháp- Chân lý.
Nếu mặt trăng lên và lặng xuống, thì đó là bởi vì
Pháp, bởi vì Pháp là quy luật trú ngụ trong vũ trụ khiến phát sinh ra những
hoạt động theo những phương cách được nghiên cứu trong vật lý học, hóa học,
động vật học, thực vật học và thiên văn học. Pháp hiện hữu trong vũ trụ chỉ vì
Pháp hiện hữu trong tâm trí của con người. Nếu con người sống theo đúng với
chánh Pháp, thì anh ta sẽ thoát khỏi khổ đau và chứng đắc Niết-bàn, an lạc.
Thượng tọa A. Mahinda.
Mặc dù ngay từ đầu người ta có thể bị thu hút bởi sự khóang
đạt của tôn giáo này, người ta có thể tán dương chân giá trị của Phật giáo chỉ
khi người ta phán xét Phật giáo thông qua kết quả mà nó đã phát sinh trong
chính cuộc sống hằng ngày của chính mình.
Tiến sĩ Edward Conze, học giả và dịch giả của các kinh điển
hệ Bát-nhã
Nếu không có những thú vui nhục dục, thì liệu cuộc sống có
thể nào chịu đựng được? Không có một niềm tin vào sự vĩnh hằng bất tử, thì liệu
con người có thể sóng có luân lý đạo đức? Không có sự sùng bái, cầu nguyện một
đấng Thần linh, Thượng đế thì liệu con người có thể tiến đến một cuộc sống
Thánh thiện, Chân chánh? Vâng, có thể, đức Phật trả lời. Những mục đích này có
thể đạt được bằng trí tuệ, tri kiến; chính tri thức, trí tuệ là chìa khóa đưa
đến đạo lộ cao thượng hơn, một đạo lộ đáng được theo đuổi trong cuộc sống; tri
kiến, trí tuệ mang lại cho chúng ta sự an lạc và hạnh phúc trong cuộc sống,
giúp chúng ta không dao động trước những cơn bão tố của thế giới hiện tượng.
Giáo sư Karl Pearson.
Những vị đệ tử khiêm nhường của đức Phật thật là may mắn
biết bao! Họ không có thừa hưởng lối nguỵ biện về tính không thể sai lầm của
bất cứ những sách khải huyền ngay từ lúc khởi đầu.
Thượng toạ tiến sĩ Ananda Kaushalyayana.
Do vậy, Phật giáo là một tôn giáo dành riêng cho cá nhân
của mỗi người, và không có lý do để hình thành nên hình thức lễ nghi cúng bái
trong tôn giáo này. Một hành động được thực thi với một ý tưởng phục vụ cho
điều kiện riêng của cá nhân thì không phải là một hình thức lễ nghi. Khi chúng
ta nhìn bề ngoài của hầu hết những hình thức dường như là lễ nghi của đạo Phật
ngày nay, thì không nên vội kết luận đạo Phật là đạo mang bản chất lễ nghi tôn
giáo, mà thực sự đó không phải là hình thức lễ nghi.
Tiến sĩ W.F. Jayasuriya, the Psychology and Philosophy of
Buddhism.
Nếu đức Phật phải được gọi là một "Bậc cứu thế"
thì đó chỉ là dựa trên ý nghĩa ngôn từ rằng Ngài đã khám phá và chỉ ra Con
Đường đưa đến sự giải thoát, Niết-bàn. Song chính chúng ta phải thực hành
con đường.
Hoà thượng tiến sĩ W.Rahula, What the Buddha taught.
Tạo áp lực cho chính mình tin vào và chấp nhận một điều gì
mà không có sự hiểu biết đúng đắn thì đó là một thái độ chính trị chứ không
phải là thái độ tâm linh hay tri thức.
Hoà thượng tiến sĩ W.Rahula, What the Buddha taught.
Chúng ta không nên chỉ tôn trọng tôn giáo của mình và chê
bai đã phá tôn giáo của những người khác, nhưng chúng ta nên tôn trọng ton giáo
của những người khác vì lý do này hay lý do khác. Làm như vậy, chúng ta giúp
cho tôn giáo của mình phát triển và cũng giúp ích cho các tôn giáo khác cũng
phát triển như tôn giáo mình. Khi hành động khác đi với tinh thần trên, thì
chúng ta tự mình đào mồ chôn tôn giáo của chính mình và còn làm hại các tôn
giáo khác. Bất cứ ai kính trọng tôn giáo của mình và chỉ trích chê bai tôn giáo
của người khác, tưởng rằng thực sự làm như vậy là tận tuỵ với tôn giáo của mình
và nghĩ rằng "Tôi sẽ làm rạng danh tôn giáo của mình." Song trên thực
tế lại ngược lại, khi làm như vậy là anh ta làm tổn thương tôn giáo của mình
ngày càng trầm trọng thêm. Do vậy, nên hài hòa là tốt hơn: Tất cả hãy cùng nhau
lắng nghe và sẵn sàng lắng nghe giáo lý của những người khác tôn giáo mình.
Đại Đế A Dục (Asoka)
Một tôn giáo của triết lý sống được đánh giá không chỉ bằng
chân lý mà tôn giáo này đã tuyên thuyết mà còn bằng những sự chuyển hóa, đổi
thay mà tôn giáo này đã mang lại trong cuộc sống của những tín đồ của tôn giáo
đó. Từ trước đến nay, sự kiểm nghiệm này liên quan đến Phật giáo, đã đạt được
một kỷ lục về những thành tựu mà chúng ta có thể lấy làm hãnh diện thực sự.
D. Valisinha, Tổng Thư ký Hội Maha Bodhi, Buddhist Way of
Life.
Người ta cũng có thể nói rằng Ấn Độ đã khám phá ra vô thức
sớm hơn các nhà tâm lý học Tây phương. Đối với họ, vô thức bao gồm tổng thể
những cảm giác tiềm tàng trong cá nhân như là sự thừa hưởng từ kiếp sống trước.
Kỹ thuật thiền định của đạo Phật, đề cập đến những nguồn năng lực tiềm ẩn bên
trong, là một người đi trước so với lối phân tích tâm lý hiện đại, cũng như sự
huấn luyện tinh thần mang tính tự sinh v.v…
Giáo sư Von Glasenapp, một học giả người Đức.
Phật giáo là một tôn giáo lớn duy nhất trên thế giới được
hình thành trên cơ sở ý thức và chân thực, căn cứ trên một hệ thống phân tích
hợp lý về những vấn đề trắc trở của cuộc sống và giải pháp để giải quyết những
khó khăn ấy.
Moni Baghee, Our Buddha.
Không có những gì mà chúng ta có thể gọi là tín điều trong
giáo lý của đức Phật. Với một quan điểm khóang đạt hiếm có trong thời đại của
Ngài và không mấy phổ biến trong thời đại của chúng ta, Ngài đã từ chối kiềm chế
đàn áp sự phê bình chỉ trích. Đối với Ngài, thiếu khoan dung độ lượng dường như
là kẻ thù vĩ đại nhất của tôn giáo.
Tiến sĩ K.Radhakrishnan, Gautama the Buddha.
Hầu hết những người mới vào đạo của các tôn giáo khác được
điều khiển bởi những vị trưởng giáo của họ và bị ngăn cấm không cho đọc những
kinh sách, giáo lý, học thuyết, tạp chí, sách bỏ túi hay những cuốn tiểu
luận của các tôn giáo khác. Thái độ này dường như không thấy xảy ra trong đạo
Phật.
Tỳ-kheo Khantipalo, Tolerance.
Năm giới này chỉ ra năm hướng chính quan trọng mà một người
Phật tử tự kiểm soát mình phải thực thi. Do vậy, giới thứ nhất khuyên răng
người Phật tử kiềm chế lòng tham dục của sự giận dữ; giới thứ hai giúp họ kiềm
chế những tham đắm về của cải vật chất; giới thứ ba kiềm chế về nhục dục; giớ
thứ tư giúp chế ngự sự khiếp nhược, hèn nhát và ác tâm muốn hại tha nhân
(nguyên nhân của tính không trung thực); và giới thứ năm giúp chế ngự lòng tham
ái đối với những thích thú tiêu cực, bất thiện.
Edmond Holmes, The Creed of Buddha.
Một trong những học giả đầu tiên bắt đầu công việc chuyển
dịch hệ văn học Pàli sang Anh ngữ, là con trai của một Mục Sư nổi tiếng.
Mục đích của vị ấy khi thực thi công việc này là để chứng minh sự vượt trội của
Cơ đốc giáo so với Phật giáo. Tuy ông ta thất bại trong nhiệm vụ lớn lao này,
song đạt được một sự chiến thắng vĩ đại hơn ông ta mong đợi. Kết quả là ông ta
trở thành một Phật tử. Chúng ta không bao giờ quên được cái cơ duyên may mắn
hạnh phúc đã thúc đẩy ông ta thực hiện công việc này và do đó mang lại giáo
Pháp quí giá này cho hàng nghìn người dân tại Tây phương. Danh xưng của vị học
giả vĩ đại này là Tiến sĩ Rhys Davids.
Thượng toạ A.Mahinda, Blue Print of Happiness.
Có thể rằng khuynh hướng hướng đến một chính quyền tự trị
được làm bằng chứng bởi những hình thức đa dạng của những hoạt động phối tác
được nhận lấy từ hình thức phôi thai đầu tiên của Phật giáo, từ bỏ thế lực
quyền hành của giai cấp, tầng lớp tu sĩ tăng lữ và đi xa hơn nữa là bằng học
thuyết về sự bình đẳng công bằng như đã được chứng minh qua sự xoá tan hệ thống
giai cấp đặc quyền. Quả nhiên, chính nhờ vào những kinh sách đạo Phật mà chúng
ta phải trở về để thừa nhận rằng sự kiện xã hội có tổ chức của những mô hình
gương mẫu đầu tiên của những đại diện thể chế tự trị được thực thi. Nhiều người
hơi ngạc nhiên khi biết rằng những cuộc kiết tập kinh điển của chư vị đệ tử đức
Phật tại Ấn Độ cách đây 2500 năm và về trước nữa lại được tìm thấy những
nguyên lý mà chúng ta đang thực thi ngày nay tại nghị trường.
Cấp bậc của hội chúng được bảo vệ bởi sự chỉ định của viên
chức đặc biệt-là phôi thai của "Mr Speaker" (ông Chủ tọa) trong Hạ
Nghị viện của chúng ta ngày nay. Một viên chức thứ hai được bổ nhiệm để kiểm
tra xem xét số đại biểu cần thiết theo quy định được đảm bảo- nguyên mẫu của
một Trưởng quan chức có quyền duy trì kỷ luật trong các thành viên của Đảng
chính trị đang cầm quyền trong Nghị viện trong hệ thống của chúng ta ngày nay.
Hầu tước của Zetland, nguyên phó vương của Ấn Độ.
Trong 25 thế kỷ qua, Phật giáo đã hội nhập với các niềm tin
cổ truyền và các tôn giáo của nhiều vùng đất, hài hòa chúng với bản chất thanh
khiết của nền triết học Phật giáo. Cùng một lúc, Phật giáo đã nẩy nở trên khắp
Á Châu. Cho đến nay, Phật giáo vẫn là tôn giáo chính của các dân tộc Thái Lan,
Tích Lan, Miến Điện, Tây Tạng, Lào, Camp
Lời giới
thiệu
Đ
|
ức Phật ra đời và thuyết pháp “vì hạnh phúc và an
lạc cho số đông”. Những lời dạy của Ngài cho con người chỉ nhắm vào hai
mục tiêu chính: khổ và diệt khổ. Ngài không tranh luận với đời. Ngài chỉ thuyết
pháp, nêu bật sự kiện khổ đau ở đời và chỉ bày cho con người cách thức đoạn trừ
khổ đau.
Đức Phật không khuyến khích mọi người theo Ngài chỉ vì niềm
tin suông. Đọc lại lời khuyên của Ngài cho Sìha, vị tướng quân người Licchavì,
Upàli, vị gia chủ nổi tiếng của xứ sở Nalanda và những lời dạy dành cho các vị
Kàlàma xứ Kesaputta, chúng ta thấy rõ nhân cách lớn của bậc đạo sư và tinh thần
tự do tư tưởng hết sức cao cả của Giáo lý Ngài. Chân lý không là đặc quyền của
người nào. Chân lý không có ngã và ngã sở. Người ta không nên khẳng quyết rằng
chỉ có điều mình theo là đúng ngoài ra là hư vọng. đức Phật không bao giờ nói
hãy tin ta, nhưng Ngài bảo hãy đến để mà thấy (Ehibhikkhu). "Hãy
tự mình thắp đuốc lên mà đi" là khẩu hiệu tự do thẩm sát chân lý
trong đạo Phật. Sự thật thách thức khả năng tìm tòi, khám phá của mỗi cá nhân
chứ không yêu cầu lòng tin của mọi người.
Đức Phật là thế và giáo lý của Ngài là thế. Lịch sử của
loài người là lịch sử của sự tìm kiếm và thực nghiệm sự thật. Hãy để cho sự
thật tự hiển lộ trước mắt mọi người. Người con Phật đứng giữa sự chỉ
trích và tán thán hãy học theo cách của bậc đạo sư, không giận giữ hay vui mừng
mà hãy giữ tâm ý thật khách quan để tự thăng tiến tuệ giác. Tập sách “Giới trí
thức bình luận về đức Phật và giáo lý của Ngài” do Tăng sinh Quảng Bảo
sưu tầm và chuyển dịch có thể giúp cho người con Phật thực tập thái độ khách
quan khi đứng trước sự chỉ trích hay tán thán của người khác. Việc làm này của
Tăng sinh là một nỗ lực xứng đáng được tán thán và khuyến khích.
Học viện Phật giáo Việt Nam
tại Thành phố Hồ Chí Minh
Hòa thượng Thích Minh Châu.
Lời
nói đầu
N
|
hững ai xem việc thay đổi tôn giáo hay chấp nhận một tôn
giáo mới lần đầu tiên thì sẽ làm một điều gì đó có thể có một ảnh hưởng sâu sắc
về cuộc đời của họ. Đó không phải là một điều gì phải được từ bỏ một cách hấp
tấp, vội vã, hoặc là nó được từ bỏ dưới sự ảnh hưởng của những cảm xúc tình cảm
khi đạt đến tột đỉnh. Nếu chân lý phải được khám phá, thì thời gian phải được
diễn ra, tất cả những sự kiện phải được xem xét, và vấn đề phải được chất vấn
và những ý kiến khác nhau phải được xem xét, thảo luận. Chúng ta cố gắng làm
tất cả những điều này, trước khi đưa ra những quyết định quan trọng nhất trong
cuộc đời của chúng ta, do vậy, tại sao chúng ta không nên thực thi chúng trước
khi đưa ra những quyết định quan trọng nhất trong cuộc đời của chúng ta liên
quan đến tín ngưỡng tôn giáo của chính mình?
Chấp nhận ý kiến của người khác một cách mù quáng và không
thắc mắc sẽ là một sự ngu xuẩn, nhưng làm ngơ ý kiến của họ cũng là một sự ngốc
nghếch. Trí tuệ và kinh nghiệm của những người khác, đặc biệt là bậc trí, có thể
giúp chúng ta làm sâu sắc thêm sự hiểu biết của chúng ta và đưa chúng ta đến
một vị trí tốt hơn để chọn lựa một giải pháp đúng hơn. Với sự truyền bá Phật
giáo ở các nước Âu Mỹ trong khoảng hơn trăm năm qua, một số đông giới trí thức
phương Tây, kể cả nhiều vị lãnh giải Nobel hòa bình, đã bày tỏ một sự quan tâm
sâu sắc và ngưỡng mộ tôn giáo cổ đại này. Chỉ có một số ít thực sự trở thành
Phật tử. Họ trở thành Phật tử do bị ấn tượng về phương pháp tư duy trong sáng
và hợp lý của đạo Phật, số khác nhờ vào sự khoan dung độ lượng nhã nhặn của tôn
giáo này. Một số khác trở nên ngạc nhiên trong kính phục do triết lý của tôn
giáo này rất thích ứng (nếu không nói là rất giống) với những phát minh của
khoa học hiện đại. Trong khi đó, số khác thích Phật giáo khi tiếp cận với những
ý tưởng về đời sống luân lý đạo đức mà không cần tin vào một đấng Thượng đế đầy
quyền năng. Những lời trích dẫn được thu thập trong cuốn sách nhỏ này thật sự
đáng để quan tâm vì một số lý do sau:
Trước hết, những lời trích dẫn này cho thấy sự hấp dẫn phổ
quát của Phật giáo, mà đây lại là lời phát biểu của những nhà tâm lý, nhà thơ,
triết gia và nhà toán học trên khắp thế giới với nhiều bối cảnh văn hoá và tôn
giáo khác nhau. Có phải chăng lời dạy của một con người đã sống từ lâu vẫn có
thể thích hợp và có ý nghĩa đối với một nhà khoa học lỗi lạc như Einstein, một
nhà thơ như Eliot hoặc một triết gia như Rusell? Lại nữa, những lời trích dẫn
này nói nhiều về những người đã viết ra chúng như họ đã làm gì cho chính đạo
Phật.
Chúng ta đọc những gì mà một số tư tưởng gia có đầu óc vĩ
đại trong thời đại của chúng ta phải nói về quan điểm của Phật giáo về ly tham,
không chấp thủ và tình thương, về yếu tố duy lý trong đạo Phật và về vai trò và
địa vị của đức Phật trong lịch sử nhân loại. Họ so sánh Phật giáo với những tôn
giáo khác, làm nổi bật sự đề cao về yếu tố lý trí của tôn giáo này và cho chúng
ta biết được những ảnh hưởng lớn lao của nó đối với nền tâm lý học hiện đại. Hy
vọng rằng những gì được nói trong cuốn sách nhỏ này sẽ làm cho độc giả có động
cơ nhìn sâu hơn nữa về những lời dạy của đức Phật, và nếu thoả mãn về mặt tâm
linh hãy ứng dụng những nguyên tắc này vào đời sống thực tiễn. Thiết nghĩ đây
là một công trình có giá trị nghiên cứu và rất hữu dụng đối với những ai khi
nghiên cứu đạo Phật. Hơn nữa, những lời trích dẫn trong tập cách này là những
nguồn dẫn chứng quý giá đối với những ai muốn nghiên cứu và viết lách về những
đề tài liên quan đến Phật giáo và những lĩnh vực khác.
Tuy nhiên, do đây là một tập sách sưu tầm những nguồn tư
liệu nằm rải rác trong các sách báo Anh ngữ, cũng như một số tư liệu đã được
dịch sang Việt ngữ, người dịch xin cáo lỗi cùng với quý độc giả trong vấn đề
sắp xếp những lời phát biểu theo thứ tự từng tác giả hay theo từng chủ đề khác
nhau liên quan đến giáo lý và cuộc đời của đức Phật. Ở cuối phần tập sách nhỏ
này, người dịch xin trích dẫn nguyên bản tác phẩm "Buddhism in the
Eyes of Intellectuals" của Đại lão Hoà thượng K. Sri Dhammananda,
một vị Hoà thượng người Tích Lan có công rất lớn trong công việc hằng truyền
Phật pháp tại Malaysia và cũng là một nhà Phật học có rất nhiều ảnh hưởng đến
giới nghiên cứu Phật học tân thời. Nhân đây, Người dịch xin bày tỏ tấm lòng
biết ơn đối với Hòa thượng Viện trưởng Thích Minh Châu, người đã hy sinh cả
cuộc đời mình vì sự nghiệp giáo dục đàn hậu học chúng con. Thành kính dâng lên
Thượng tọa Bổn sư , người đã có công giáo dưỡng con nên người, thành quả học
tập này với tất cả tấm lòng quý kính của người đệ tử. Cuối cùng, xin chân thành
tri ân sự chỉ giáo của các bậc cao minh để tập sách nhỏ này ngày càng hoàn
chỉnh hơn.
Quảng Đức, Xuân Canh Thìn
Dịch giả Thích Quảng Bảo
D
|
o đó, trong thời đại ngày nay, hầu hết những tôn giáo khác
thì mới và trẻ khi được so sánh với tôn giáo đáng kính này [Phật giáo], một tôn
giáo chứa đựng trong nó sự vô tận của niềm hy vọng toàn cầu, sự bất tử của tình
thương không bờ bến, một yếu tố bất hoại của niềm tin về sự tuyệt mỹ, và sự quả
quyết tự hào nhất về quyền tự do giải thoát nhân loại.
Đây hoa nở rộ trên cây nhân loại
Đã bừng nở qua vô số năm
Làm thế giới chan hòa hương thơm trí tuệ
Và mật ngọt tình thương.
Sir Edwin Arnold (1832-1904), Nhà thơ, nhà báo người Anh,
và tác giả cuốn "Ánh Sáng Á Châu"
Những lời dạy của thái tử người Ấn Độ thực sự không có gì
lay chuyển trước những phát minh hiện đại của khoa học… Ngôn từ sẽ không làm
cho tôi hiểu nếu tôi cố gắng bày tỏ sự cần thiết mà tôi nghĩ tri thức của niềm
tin và triết lý cao siêu của tôn giáo này làm cho sinh động thêm chủ nghĩa vật
chất của Tây phương… Đó là, trong bất kỳ tình huống nào, một chân lý đã làm ảnh
hưởng không chỉ đối với những tư tưởng gia vĩ đại và hùng vĩ nhất của Hy Lạp và
La Mã mà còn làm những cơ sở khởi đầu cho nền tảng của tư tưởng Cơ đốc giáo-mà
Phật giáo đã ra đời trước tôn giáo này khoảng 500 đến 600 năm. Tôn giáo này có
thể tuyên bố kết bạn tốt đẹp cùng nguồn gốc với những tôn giáo lớn, mà không có
sự hành quyết và ép buộc những người thuộc tôn giáo khác Phật giáo, và
những lý do này có thể chứng kiến dễ dàng trong chính giáo lý của tôn giáo này.
L. Adam Beck, một nhà lữ hành và một học giả người Hoa Kỳ.
Đối với tín đồ Cơ đốc giáo, thì tình yêu là đức tính tối
thượng; nhưng đối với tín đồ Phật giáo, thì lại là trí tuệ bởi vì họ cho rằng
vô minh là nguồn gốc của tất cả những tội lỗi. Đồng thời, tình yêu cũng được
xếp lên hàng cao….Khoan dung và lòng từ, cả hai được căn cứ tên cơ sở trí tuệ
Phật giáo, có lẽ là nguyên nhân chính giải thích tại sao con đường Trung đạo
của đức Phật Cồ Đàm đã truyền bá từ thế hệ này sang thế hệ khác hơn 2500 năm
qua.
Sir Charles Bell KCIE, CMG (1870-1945), nhà ngoại giao và
nhà biên soạn từ điển người Anh.
Thông điệp của đức Phật về chân lý, hòa bình, từ bi và
khoan dung rất là thích hợp đối với xã hội ngày nay cũng như nhiều thế kỷ trước
đây. Thời gian trôi qua đã làm cho những ánh sáng càng tỏa sáng hơn. Sự lan
tràn của chủ nghĩa vật chất và sự theo đuổi những thành đạt của cá nhân bất
chấp mọi giá đã làm xói mòn những sợi dây thắt chặt tình huynh đệ và tính cộng
đồng. Trong những tình huống này, điều cần thiết và quan trọng đối với chúng ta
là nhớ lại và truyền bá thông điệp về từ bi và trí tuệ của đức Phật để hận thù
có thể được thay thế bằng tình thương, xung đột bằng hòa bình an lạc, và sự cạnh
tranh bằng hợp tác lẫn nhau.
Tiến sĩ Amadou-Mahta M'Bow-Chủ tịch tổ chức UNESCO.
Chỉ có tôn giáo duy nhất trong tất cả các tôn giáo trên thế
giới hấp dẫn tôi nhất là Phật giáo. Đạo Phật, như sự hiểu biết của tôi về tôn
giáo này, đúng ra là một hệ thống triết học của thế giới, và một triết lý sống
đối với những người ưu tú được hình thành ở nơi tôn giáo này (câu này tối nghĩa
quá, dò lại nguyên tác), chứ không phải là một tôn giáo xét theo ý nghĩa thông
thường của ngôn từ.
CD Broad (1887-1971), triết gia người Anh.
Cuộc cách mạng gần đây của con người có lẽ bắt đầu với sự
tiến bộ cao của chân tay, và sự lựa chọn một bộ não, đặc biệt thông thạo thao
tác của đôi bàn tay. Chúng ta cảm thấy vui mừng về điều đó trong những hành
động của mình, với kết quả là đối với giới nghệ thuật, bàn tay là một biểu
tượng chính yếu; chẳng hạn bàn tay của đức Phật ban tặng cho con người món quà
của lòng nhân đạo trong một tư thế tịch lặng, món quà của sự vô uý.
J. Bronowski (1908-1974), một tác giả và triết gia,
khoa học gia người Hoa Kỳ.
Cho dù người phương Tây lần đầu đến với giáo lý đạo Phật mà
họ vốn dĩ quen với khoa học hiện đại, hay những thuật ngữ chuyên môn của đạo Cơ
đốc giáo, họ nên luôn luôn ghi nhớ rằng đức Phật không quan tâm sự hiện hữu hay
không hiện hữu của một đấng quyền năng tối cao, hoặc là những mệnh đề triết học
trừu tượng khác. Điều Ngài quan tâm duy nhất là “con đường”, con đường thực tế,
qua đó con người có thể chấm dứt những khổ đau của mình trong kiếp này và mai
sau.
Marie b. Byles (1900-1979), một tác giả và nhà leo núi
người Úc.
Thông điệp của đức Phật về từ bi và sự tận tâm, nhiệt tình
trong sự nghiệp phục vụ cho nhân loại càng thích hợp hơn trong xã hội ngày nay
hơn bao giờ hết trong lịch sử nhân loại. Hòa bình, sự hiểu biết và một cách
nhìn vượt khỏi những hạn chế thuần tuý trong phạm vi quốc gia đã trở thành các
vấn đề cấp bách hơn trong thời đại bất an, thiên về vũ khí hạt nhân hôm nay.
Javier Perez De Cuellar, nhà ngoại giao của Peru, và Tổng
Thư ký của Liên Hợp Quốc.
Người ta không thể từ chối rằng vẻ đẹp thực sự của Đông
phương trong nhiều thành ngữ mà giới Phật tử sử dụng; và rằng có cơ sở thực sự
cho sự nhiệt tình khiến họ phát sinh. Chưa bao giờ trong lịch sử của thế giới
một kế hoạch như thế lại được vạch ra, quá tự do thoát khỏi những tác nhân của
một đấng siêu nhiên, quá độc lập, thậm chí rất đối kháng với niềm tin về một
linh hồn, niềm tin vào một Thượng đế, và hy vọng một kiếp sống tương lai.
Cho dù những điều này là đúng hay sai, đó là một điểm
chuyển đổi trong lịch sử tôn giáo của con người khi mà một nhà cải cách, hoàn
toàn đầy đủ nhiệt tâm nhất vì những mục tiêu luân lý đạo đức và được đào tạo
trong tất cả nền văn hóa tri thức trong thời đại của vị ấy, đã đưa ra một cách
thận trọng, cân nhắc, và với một tri thức có những quan điểm chống lại học
thuyết của sự cứu rỗi được tìm thấy ở đây, ngay trong kiếp sống này, trong một
trái tim tâm hồn thay đổi bên trong.
Dù là Phật tử hay không phải, tôi đã xem xét các hệ thống
của tất cả các tôn giáo lớn trên thế giới, và tôi không tìm thấy tôn giáo nào
có thể vượt qua cái đẹp và tính toàn diện của giáo lý Bát thánh đạo và Tứ thánh
đế của đức Phật. Tôi rất hài lòng xây dựng cuộc đời mình trên con đường đó.
Giáo sư T.W. Rhys Davids (1843-1922), thành lập hội Thánh
Điển Pali, nhà biên tập từ điển Pali-Anh, dịch giả Trường Bộ Kinh và là nhà
biên tập của nhiều kinh sách Phật học.
Cũng như những bậc thầy khác cùng thời đại Ngài, đức Phật
giảng dạy thông qua những cuộc hội thoại, bài diễn thuyết, và những hình ảnh ẩn
dụ. Nếu so với đấng Christ vàø Socrates, Đức Phật chẳng bao giờ có ý định đem
học thuyết của Ngài viết thành văn bản. Ngài đã tóm tắt những lời thuyết giảng
ấy thành những bài kinh nhằm mục đích nhắc nhở cho chúng ta ghi nhớ những gì
Ngài dạy, như đã được chư vị đệ tử Ngài bảo tồn cho chúng ta ngày nay. Những
bài kinh này phác thảo cho chúng ta một nhân vật đặc trưng nhất trong lịch sử
Ấn Độ: một con người với ý chí và nghị lực mãnh liệt, quyền uy và tự trọng,
danh tiếng, nhưng có một nhân cách nhã nhặn tế nhị và ngôn từ hiền hòa từ ái,
và một lòng từ tâm vô biên. Ngài tuyên bố sự giác ngộ giải thoát nhưng không có
một sự khêu gợi; Ngài không bao giờ giả vờ rằng một vị thiên thần đang nói
chuyện với Ngài. Trong tranh luận, Ngài kiên nhẫn và trung dung hơn bất kỳ
những vị đạo sư khác của nhân loại.
Giống như Đức Khổng Phu Tử và Christ, Ngài mong muốn chuyển
hóa ác thành thiện, tình thương thay hận thù; và Ngài hoàn toàn im lặng trước
những sự hiểu lầm và nhục mạ của kẻ khác… Không giống như hầu hết các bậc Thánh
khác, đức Phật có một óc hài hước, và biết rằng hiện tượng siêu hình học mà
không có hành động là sự kêu căng (tối nghĩa và không thuần Việt).
Will Durant (1885-1981), một sử gia người Mỹ và người đoạt
giải thưởng Pulitzer.
Nhưng sự cuốn hút của Eliot đến với Phật giáo không chỉ đơn
giản là do của hệ thống triết lý của tôn giáo này. Niết-bàn là sự dập tắt hoàn
toàn của tham, sân, si; sự đoạn diệt hoàn toàn tham ái, tự do giải thoát khỏi
sự chấp thủ…. Sự chuyên chế của đạo Phật thì rất nghiêm khắc như những gì mà
Eliot tìm thấy trong Maurras, và mặc dù có lẽ nhà thơ này thích thú Phật giáo
với nhiều lý do tương tự, tôn giáo phương Đông có những sự gắn bó lãng mạn cho
những ai muốn tách khỏi những sự ràng buộc của gia đình.
Peter Ackrayd bình về nhà thơ người Anh-T.S.Eliot
(1888-1965).
Trong những tôn giáo vĩ đại nhất trong lịch sử, tôi thích
Phật giáo hơn, đặc biệt là Phật giáo Nguyên thuỷ, bởi vì tôn giáo này không có
những yếu tố ngược đãi, khủng bố. Phật giáo là một sự kết hợp giữa nền triết lý
tuyệt vời và khoa học. Phật giáo tán thành những phương pháp khoa học và tiếp
tục theo đuổi mục đích đó và có thể được gọi là một tôn giáo lý trí. Trong tôn
giáo này chúng ta tìm thấy câu trả lời cho những câu hỏi như: "Danh và sắc
là gì? Cái nào quan trọng hơn cái nào? Thế giới và vũ trụ có chuyển động đến
một mục tiêu nào đó hay không? Địa vị của con người là gì ? Liệu có một đời
sống thánh thiện hay không?" Phật giáo dìu dắt con người đến những nơi mà
khoa học không thể đưa đến, bởi vì những giới hạn trong việc sử dụng những công
cụ của khoa học. Những đòi hỏi đó chính là yếu tố tâm.
Bản thân tôi cảm thấy rằng dù làø trong
vấn đề trí tuệ hay đức hạnh, Chúa cũng như một số người được biết trong lịch sử
không thể là những người đại diện cao nhất về 2 lĩnh vực này. Tôi nghĩ rằng tôi
nên đặt đức Phật và Socrates lên trên Chúa đối với những sự tôn kính này.
Bertrand Rusell (1872- 1970), triết gia toán học và logic
lỗi lạc nhất trong thế kỷ 20.
Con người đã từ bỏ sự vô minh vọng tưởng về một đấng Thượng
đế như là một người cha giúp đỡ- nhưng con người cũng từ bỏ những mục đích chân
thật của tất cả những tôn giáo lớn mang tính nhân bản: vượt qua những sự giới
hạn của một cái tự ngã ích kỷ, đạt được tình thương, mục đích và sự khiêm
nhường và tôn trọng sự sống để mà mục đích của cuộc đời được sống, và con người
trở lại với những tiềm năng ẩn chứa bên trong anh ta.
Đây là những mục đích của các tôn giáo lớn ở phương Tây,
cũng như đây là những mục tiêu của các tôn giáo lớn ở phương Đông. Tuy nhiên,
phương Đông thì không bị đè nặng bởi ý niệm về một đấng Thượng đế siêu
nghiệm-một đấng cứu thế mà các tôn giáo nhất thần thường cho là tài sản của
riêng họ.
Đạo giáo và Phật giáo xét về mặt lý trí và thực tiễn thì
siêu việt hơn những tôn giáo phương Tây. Hai tôn giáo này quan sát về con người
một cách thiết thực và có mục đích, không một ai ngoại trừ bậc giác ngộ có thể
dẫn dắt con người và có thể được dẫn dắt chỉ đường bởi vì mỗi người đều có
trong mình khả năng giác ngộ và được giác ngộ.
Đây là lý do quý hiếm giải thích tại sao tư tưởng Đong
phương, Đạo giáo, Phật giáo và thiền Phật giáo đảm nhiệm một vai trò quan trọng
như thế trong xã hội phương Tây hiện nay. Thiền Phật giáo giúp cho con người
tìm ra những giải đáp cho vấn đề hiện hữu của con người….
Nghịch lý thay, tư tưởng tôn giáo Đong phương hóa ra thích
hợp hơn đối với tư tưởng duy lý phương Tây hơn là chính bản thân tư tưởng tôn
giáo Tây Phương.
Erich Fromm (1900-1980), một triết gia xã hội và nhà phân
tâm học người Mỹ.
Có thể có một ý nghĩa lớn lao trong sự kiện rằng triết gia
Pythagoras tại Hy Lạp và đức Phật tại Phương Đông xuất hiện cùng lúc vào thế kỷ
thứ 6 B.C. Cả hai Ngài đều là những nhà tư tưởng và nhà hoạt động tầm vóc và
sâu sắc…
R.Buckminster Fuller (1895-1984), một nhà phát minh, triết
gia và kỹ sư người Mỹ.
Là một người nghiên cứu về tôn giáo tỷ giảo, tôi tin rằng
đạo Phật là đạo hoàn hảo nhất trên thế giới từ trước tới giờ. Học thuyết tiến
hóa và luân hồi cao đẹp hơn bất cứ niềm tin nào khác. Không phải lịch sử tôn
giáo cũng không phải là sự nghiên cứu triết học mà chính nghề nghiệp chuyên môn
của tôi như là một bác sĩ đã đưa tôi lần đầu tiên đến thế giới tư tưởng Phật
giáo. Công việc của tôi là chữa trị những khổ đau về mặt tâm thần và chính điều
này đã đưa đẩy tôi làm quen với quan điểm và phương pháp của Bậc thầy vĩ đại
của nhân loại, mà đề tài chính yếu là sự khổ đau triền miên, già, bệnh và chết.
Bác sĩ Carl C. Jung (1875-1961), nhà phân tâm học người
Thụy Sĩ, học trò lôĩ lạc nhất của Freud và là người sáng lập viện nghiên cứu về
phân tâm học.
Lời giảng dạy căn bản của Ngài Cồ Đàm, nghiên cứu từ cội
gốc ngày nay đã trở nên rõ ràng và dễ hiểu và hoàn toàn phù hợp với những tư
tưởng tân tiến. Nó vượt khỏi tất cả những sự tranh chấp, và là sự thành tựu của
một trong những nguồn trí tuệ thể nhập tuyệt vời mà thế giới đã từng biết
đến.
Hơn hết mọi ảnh hưởng trong biên niên sử nhân loại, đạo
Phật đã đóng góp nhiều hơn cho những sự tiến bộ của nền văn minh thế giới và
nền văn hóa của nhân loại…
H.G.
Wells (1866-1946).
Ta nhập thế bằng tình yêu bát ngát, dù cuộc đời vẫn quằn
quại thương đau. Bất cứ ai nếu chăm chú đọc một vài bài thuyết pháp của đức
Phật cũng sẽ nhận thấy sự nhịp nhàng, sự yên tĩnh của tâm hồn, sự cao đẹp vui
tươi, sự quyết tâm không mảy may lay chuyển, lòng yêu thương dạt dào và sự kiên
trì không bờ bến.
Nội dung trí tuệ những lời dạy của Ngài chỉ là một phần sự
nghiệp của Ngài, và nửa còn lại là cuộc đời của Ngài, đời sống thực mà Ngài đã
sống, một sự tu tập, sự tự tu tập tâm linh cao nhất mà Ngài đã hoàn tất
và đem ra giảng dạy ở nơi đây. Đức Phật đã hoàn tất sự tu tập tâm linh cho
chính mình và chư đệ tử của Ngài. Ngài đã đề xuất một mục đích và đã đạt được
những kết quả mà các nhà hành động chân chính nổi danh của phương Tây đã phải
ngã mũ kính phục.
Herman Hesse (1877-1962), người đoạt giải thưởng
Nobel văn chương.
Chẳng hạn nếu chúng ta thắc mắc liệu vị trí của âm điện tử
đứng yên, chúng ta phải trả lời là không; nếu chúng ta hỏi liệu vị trí của âm
điện tử có thay đổi cùng với thời gian hay không, chúng ta phải trả lời là
không; nếu chúng ta hỏi rằng liệu âm điện tử có yên nghỉ hay không, chúng ta
phải trả lời là không; nếu hỏi âm điện tử có di động hay không, chúng ta phải
trả lời là không. đức Phật cũng trả lời như vậy khi được hỏi về những
điều kiện về tự ngã của con người sau khi chết, nhưng chúng không phải là những
câu trả lời tương tự đối với truyền thống của nền khoa học thế kỷ 17 và 18.
Robert Oppenheimer, nhà vật lý học, cha đẻ của trái bom
nguyên tử đầu tiên của Hoa Kỳ.
Chủ nghĩa bi quan yếm thế bày tỏ thái độ tuyệt vọng đối với
đời sống, một ý niệm tổng quát và mơ hồ rằng đời sống đầy dẫy khổ đau và tội
lỗi. Trong thực tế, giáo lý nguyên thủy của đức Phật cũng lạc quan như bất cứ
chủ nghĩa lạc quan nào khác ở phương Tây. Chủ trương rằng Phật giáo là "bi
quan" là chỉ áp dụng suông vào Phật giáo nguyên tắc đặc cách của người
phương Tây, theo đó không thể có hạnh phúc nếu không có tự ngã. Người Phật tử
chân chánh nhìn tương lai với tinh thần nhiệt thành hướng về hạnh phúc trường
cửu.
Encyclopaedia of Britannica.
Tính chất ôn hòa của dân tộc Ấn biểu hiện trọn vẹn giáo lý
của đức Phật. Phật giáo truyền bá tinh thần bất bạo động, tức là lòng bi mẫn
đối với tất cả chúng sanh. Đối với người cư sĩ Phật tử, chế tạo và buôn bán
súng đạn, chất độc, chất say, giết hại cầm thú đều là những nguyên tắc đạo đức
không nên phạm.
Aldous Huxley.
Chắc chắn có những lý do để chủ trương rằng cái
"Tôi" ngày hôm nay và cái "Tôi" ngày hôm qua là một, và để
lấy một thí dụ hiển nhiên hơn nữa, nếu cùng một lúc, tôi thấy một người và nghe
người ấy nói thì rõ ràng là cái "Tôi" nghe và cái "Tôi"
thấy là một.
Bertrand Russell-Religion and Science.
Thật không phải quá đáng khi quả quyết rằng nhờ sự trung
gian của người Ba Tư mà những người Hy Lạp hiếu kỳ đồng thời với đức Phật..đã
thâu nhập những kiến thức ít nhiều chính xác về thời kỳ văn hóa cực thịnh của
phương Đông.
Greek Thinkers- sử gia Garbe.
Những ai được ở trong một gia tộc hoặc trong một làng nằm
theo lưu vực sông Hằng (Ganges) thật là hữu phước, vì nơi đây dân chúng sống
trong tinh thần bác ái, an lành, trong tinh thần công lý cao thượng, nơi đây
dân chúng được hít thở một thứ không khí nhẹ nhàng, do những lời giản dị chất
phác tạo nên… Ta cũng có thể nói rằng những ai sống trong một gia đình
hoặc một làng nằm trong lưu vực sông Thames ngày nay cũng không kém phần hữu
phước, vì nơi đây giáo lý từ bi giữa người và người của đức Phật đã thấm nhuần
đời sống gia đình và xã hội và đã làm cho nền luân lý vững chắc. Giáo lý đó vẫn
còn rõ ràng, đầy đủ và thích hợp với người Anh hiện nay, cũng như từ bao giờ, đã
thích hợp với người Ấn.
Giáo sư Rhys Davids.
Đức Phật là sự hiện thân của tất cả những đức hạnh mà Ngài
thuyết giảng. Trong suốt cuộc hành trình 45 năm đầy thành công và đáng ghi nhớ
của Ngài, Ngài đã chuyển dịch tất cả những ngôn từ của mình thành hành động; và
không có chỗ nào mà Ngài không nói hết những khiếm khuyết của con người hoặc là
những sự đam mê hạ liệt thấp hèn. Nền tảng luân lý đạo đức chủ yếu của đức Phật
là hoàn hảo nhất mà thế giới đã từng biết đến.
Giáo sư Max Muller, nhà Ấn Độ học người Đức.
Paul kết hợp tình yêu với lòng tin và hy vọng, và quan điểm
của ông về tình yêu liên quan đến niềm tin và hy vọng: " Tình yêu, theo
ôâng, là tin tưởng tất cả mọi thứ và hy vọng mọi thứ." Theo tôi,
tình yêu không có nghĩa là tin tưởng vào tất cả và hy vọng tất cả. Tình yêu
sống soát khi sự vỡ mộng, thất vọng bắt đầu và tiếp tục ở sự thất vọng, buồn
rầu. Tình yêu không phải là thứ tình thương ngưng hoạt động khi không có niềm
tin và hy vọng. Miễn là khi nào còn niềm tin và hy vọng hỗ trợ tình yêu thì đó
chỉ là một thứ tình yêu trẻ con. Rằng tình yêu là hạnh phúc dễ chịu là một
chuyện hoang đường mang tính chất thời trang. Đức Phật biết rằng tình yêu mang
lại "sự tổn thương và khổ đau, buồn rầu, thất vọng, áo não"; và Ngài
khuyên thái độ ly tham, không chấp thủ. Tình yêu mà tôi xem như là một đức hạnh
thì không phải là một thứ tình yêu mù quáng về người mình yêu hoặc là người
mình tin cậy, một tình yêu đầy hy vọng của Paul, nhưng tình yêu mà biết những
gì đức Phật đã biết và vẫn yêu, với đôi mắt mở rộng.
Giáo sư Walter Kaufmann, triết gia người Mỹ.
Anh ta đọc nhiều sách và hiểu sâu sắc về kinh điển Phật
giáo, phiên dịch kinh điển sang Pháp ngữ, và thậm chí viết tiểu sử của đức
Phật. Nhưng căn nguyên sâu xa khiến cho anh ta quan tâm thích thú đạo Phật là
sự kiện mà anh ta cảm thấy Phật giáo đã mang lại cho anh ta sự củng cố trực
tiếp về tư tưởng triết học để giải tỏa những sự thất vọng trong cuộc sống của
anh ta…Jack tuân giữ giới thứ nhất trong đạo Phật hơn tất cả những thứ khác và
phát biểu rằng: "Tất cả đời là khổ đau".
Ann Charters.
Nếu tôi biết rằng đức Phật sẽ thuyết giảng ở đây vào ngày
mai, thì trên thế gian này không có một thứ gì có thể ngăn cản việc tôi đi đến
nghe Ngài thuyết giảng. Và tôi sẽ theo Ngài cho đến cùng.
J.Krishnamurti, triết gia người Ấn (1895-1986).
Người Ấn, người Aztec, và người Mê-hi-cô xưa! Tất cả đều
làm cho tôi thích thú và đã làm cho tôi thích thú trong nhiều năm qua, có một
sưc quyến rũ, và một phép thần diệu đối với tôi. Đó chính là đức Phật. Đức Phật
là một con người quá hoàn hảo và sung mãn đối với tôi.
D. H. Lawrence (1885-1930), tiểu thuyết gia người Anh.
Ngày nay khoa học đang thử thách sự hạn chế của bộ não con
người, một bộ não bao gồm khoảng 10.000 triệu tế bào được kích thích xung điện
đã được trù tính với những bản năng của lịch sử lâu dài của chúng ta và dễ tiếp
thu những ý kiến mới dù đúng hay sai. Tổng số những tế bào này cung cấp cho
chúng ta biết được cá tính luôn thay đổi của chúng ta và sự loại bỏ từng phần
bằng cách giải phẩu hay thay đổi nhịp bằng sự điều trị bất ngờ thay đổi nhân
cách của chúng ta…
Bạn thấy rõ ràng đức Phật là một con người giản đơn, tận
tuỵ, đơn chiếc, phấn đấu để đạt được ánh sáng trí tuệ, một cá nhân mang bản
chất con người sinh động, chứ không phải là một huyền thoại. Trong số các
truyền thuyết thần kỳ tôi cũng cảm thấy có một con người, đó là đức Phật. Ngài
đã gởi bức thông điệp tiêu biểu cho tính cách của tôn giáo mình cho toàn thể
nhân loại trên khắp toàn cầu. Nhiều tư tưởng hiện đại tuyệt vời nhất của chúng
ta ngày nay rất hài hòa với giáo lý của Ngài. Ngài dạy tất cả những khổ đau và
sự bất mãn trong cuộc sống là do ích kỷ. Ích kỷ có 3 hình thức. Một là sự tham
muốn nhằm thoả mãn những cảm giác của cá nhân; hai là sự khát ái, hay muốn bất
tử; ba là tham vọng được thành công về của cải vật chất và thế gian trần tục.
Trước khi một con người muốn trở nên thanh tịnh, anh ta phải từ bỏ lối sống cho
những nhu cầu dục vọng của chính mình. Sau đó, anh ta mới có thể trở thành một
bậc vĩ nhân. đức Phật, ra đời trước Đấng Christ, đã dùng nhiều hình thức ngôn
ngữ khác nhau để kêu gọi con người hãy sống với đức tính vị tha. Xét về một số
phương diện, Ngài rất gần gũi với chúng ta và những nhu cầu của chúng ta. Ngài
rất minh bạch hơn Chúa đối với tinh thần phục vụ con người, và không mơ hồ về
vấn đề bất tử của cá nhân.
H.G. Wells
Nếu chúng ta ao ước muốn nhìn thấy con người thánh thiện
nhất của nhân loại, hãy nhìn vị hoàng đế trong y phục của một người hành khất;
chính là Người với sự thánh thiện của Ngài được xem là vĩ đại nhất trong nhân
loại.
Abdul Atahiya thi nhân Hồi giáo.
Nếu bất kỳ vấn đề nào phải được xem xét, thì vấn đề ấy phải
được xem xét một cách hài hòa an lạc và dân chủ như phương pháp mà đức Phật đã
dạy.
J. Nehru, cựu thủ tướng Ấn Độ
Sự khác biệt giữa đức Phật và một chúng sanh tầm thường
cũng giống như sự khác biệt giữa một người bình thường và người điên khùng mất
trí.
Một nhà văn.
Đức Phật thật xứng đáng được bầu chọn là một nhân vật được
đại đa số nhân loại tôn kính nhất.
Giáo sư Saunders, Tổng thư ký hiệp hội thiên chúa giáo
Y.M.C.A, Ấn Độ, Miến điện và Tích Lan.
Đức Phật vĩ đại hơn tất cả các học thuyết và tín điều khác,
và thông điệp vĩnh cửu của Ngài đã làm cho nhân loại rung động qua nhiều thời
đại. Có lẽ không thời điểm nào trong lịch sử quá khứ nhân loại mà thông điệp về
hòa bình của Ngài lại cần thiết hơn cho nhân loại đang khổ đau và điên cuồng
như thế giới hiện nay.
Nehru
Khi chúng ta đọc những bài pháp của đức Phật, chúng ta bị
cảm kích bởi tinh thần lý trí khoa học của Ngài. Con đường đạo đức luân lý của
Ngài, ngay trong những bước đầu tiên là những quan điểm đúng đắn, một cái nhìn
lý trí. Ngài nỗ lực nhằm xua tan tất cả những màng nhện giăng mắc làm ảnh hưởng
đến cái nhìn và định mệnh của nhân loại.
Tiến sĩ S. Radhakrishnan, Đức Phật Cồ Đàm
Đặc điểm nổi bật đáng chú ý nhất của đức Phật là sự kết hợp
độc nhất vô nhị giữa một tinh thần khoa học trầm tĩnh và sự thông cảm thâm uyên
đầm ấm và từ tâm. Thế giới ngày nay ngày càng hướng về đức Phật nhiều hơn vì
chỉ có Ngài là người đại diện cho lương tâm của nhân loại.
Moni Bagghee, "đức Phật Của Chúng Ta".
Đức Phật là người tiên phong của thương yêu nhân loại và là
một triết gia siêu phàm kết hợp trong mình một cá tính dũng cảm và sáng chói.
Ngài có những điều để nói mà không một ai khó lòng mà quên được là sau hơn 2500
năm hăng say, vội vã và thuyết giảng về nền tảng của tri thức. Vĩ đại hơn là
trí tuệ của Ngài là một tấm gương mà NGài đã đưa ra làm chứng.
Moni Bagghee, Đức Phật của Chúng Ta.
Đức Phật như là một bậc lương y. Cũng như bác sĩ phải biết
chẩn đoán nhiều căn bệnh khác nhau, nguyên nhân của bệnh, thuốc giải độc và
phương pháp chữa trị, và có thể áp dụng thuốc thích hợp. Cũng vậy, đức Phật dạy
cho chúng ta Bốn chân lý thánh thiện (Tứ Thánh Đế) chỉ ra sự hiện hữu của khổ
đau, nguyên nhân của khổ, sự đoạn diệt và con đường đưa đến sự diệt tận của khổ
đau.
Tiến sĩ Edward Conze, "Phật giáo"
Đức Phật không phải là tài sản của riêng cho giới Phật tử.
Ngài là tài sản của toàn thể nhân loại. Giáo pháp của Ngài dành cho tất cả mọi
người. Mọi tôn giáo, được ra đời sau đức Phật, đã mượn nhiều ý tưởng hay đẹp từ
đức Phật.
Một học giả Hồi Giáo.
Đức Phật là một người cha nhìn thấy đàn con của mình đang
nô đùa, vui chơi trong ngọn lửa thế gian đầy nguy hiểm và Ngài dùng mọi phương
tiện thiện xảo để cứu các con mình ra khỏi nhà lửa đang cháy này và đưa chúng
đến nơi an lạc của Niết-bàn.
Giáo sư Lakshimi Narasu, "Tinh Hoa Của Phật giáo"
Càng ngày tôi càng cảm thấy rằng đức Phật Thích Ca Mâu Ni
gần gũi nhất về các đức tính và thực nghiệm của Ngài. Ngài là con đường, là
chân lý, và là lẽ sống.
Giám mục Milman.
Đó chính là lúc tôi đang sinh sống tại Oxford vào những năm
đầu năm 1970 tôi bắt đầu quan tâm thích thú Phật giáo. Cuộc đời của tôi thì đầy
dẫy những bối rối và căng thẳng, và tôi tìm thấy triết lý đạo Phật một phương
pháp tư duy mà có thể làm say đắm tôi bởi sự thanh tịnh vắng lặng và lối phân
tích triệt để những tham dục, sự từ bỏ tất cả những sức mạnh của một thế
giới cảm xúc hư ảo mà tôi đang sống, và một sự hứa hẹn của một sự thành thật
mạnh mẽ không mang bản chất tình cảm.
Andrew Harvey tác giả người Anh và nhà thơ của trường đại
học Fellow of all Souls Oxford.
Tôi rời Ấn Độ và trở về Colombo, nơi tôi làm một người
khách của một gia đình sinh viên Tích Lan mà tôi gặp anh ta tại Perth,
Tây Úc. Họ đều là Phật tử, nhà của họ xung quanh một ngôi chùa, và không khí
ngôi nhà rất là yên tĩnh và ôn hòa. Tôi đàm luận rất nhiều về Phật pháp với họ
và họ đưa tôi đi đến một ngôi chùa nằm trên những ngọn đồi tại Kandy, nơi mà
tôi gặp những tu sĩ và tôi đối thoại rất nhiều về vị trụ trì già của ngôi chùa,
vị trụ trì này đã giải thích cho tôi rất nhiều về đạo Phật. Tôi cảm thấy vô
cùng thích thú về tôn giáo này.
Một nhà lữ hành người Âu châu
Phật giáo là một hệ thống không biết đến theo ý niệm cuả
Tây phương; từ chối một sự hiện hữu của một linh hồn ở nơi con người; coi đức
tin vào sự bất tử là một sự sai lầm; từ chối bất cứ kết quả nào của sự cầu
nguyện và hy sinh dâng hiến thần linh. Đạo Phật còn là một hệ thống khuyên con
người không nên trông cậy vào đâu nhưng chỉ bằng nỗ lực của chính bản thân để
đạt được sự giải thoát, cứu rỗi cho chính mình; một hệ thống mà sự thanh tịnh
bản lai của nó không biết gì về những hạnh nguyện của sự phục tùng và chưa bao
giờ tìm sự cứu giúp của một cánh tay thế tục nào, nhưng đã truyền bá khắp nhân
loại.
Trong thế giới đầy bão tố và xung đột, hận thù và bạo động,
thông điệp của đức Phật toả sáng như một vầng thái dương rực rỡ. Có lẽ không
một thời điểm nào trong lịch sử nhân loại mà thông điệp của Ngài lại cần hơn
cho thế giới của những quả bon nguyên tử và khinh khí. Hơn hai nghìn năm qua đã
làm tăng thêm sức sống và sự thật của thông điệp này. Chúng ta hãy nhớ lại bức
thông điệp bất diệt đó và cố gắng uốn nắng tư duy và hành động của chúng ta dựa
trên ánh sáng của chân lý đó. Chúng ta có thể bình thản đối diện với những sự
kinh hoàng của thời đại bom nguyên tử và giúp một phần nhỏ trong việc thúc đẩy
con người tư duy và hành động đúng đắn.
Nehru
Đây là một hệ thống giáo lý mà chúng ta có thể thực hành
theo một cách tự tin. Liệu nơi nào trong thế giới các tôn giáo, hệ thống thờ
cúng tôn giáo và các tín ngưỡng, chúng ta có thể tìm thấy một bậc đạo sư thông
thái như thế? Trong chuỗi những vì sao sáng tỏ, Ngài là vì tinh tú khổng lồ của
những vì sao sáng nhất, vĩ đại nhất. Không có gì là ngạc nhiên mấy khi mà các
nhà khoa học, triết gia, và những con người có học thức cao đã khẳng quyết
rằng: "Ngài là con Người vĩ đại nhất chưa từng có trong lịch sử nhân
loại". Vầng hào quang toả sáng của bậc thầy vĩ đại này rọi sáng khắp thế
gian đau khổ và tối tăm, giống như ngọn hải đăng dẫn đường và toả sáng cho nhân
loại.
Một nhà văn Âu châu.
Những giáo lý như : Lịch thiệp, thanh tịnh, từ bi và sự
giải thoát khỏi những tham ái ích kỷ là những lời dạy căn bản của đạo Phật- một
tôn giáo vĩ đại của Phương Đông.
E.A. Burtt, "đức Phật Từ Bi"
Phật pháp giống như một cái cầu được khéo xây bằng
những mảnh thép uyển chuyển, linh động, gió và nước khó làm cho nó huỷ hoại
được. Nó tự thích nghi với những hoàn cảnh thay đổi, nhưng đồng thời nó cũng đã
củng cố một cách chắc chắn những nền tảng và mở ra một con đường an toàn đưa
đến sự Bất Tử, Niết-bàn.
Tỳ-kheo Khantipalo, "Khoan Dung"
Phương Đông huyền bí, quê hương màu mỡ của các tôn giáo,
chắc chắn đã cung cấp cho chúng ta một sự phát hiện chân thật ở nơi đạo Phật,
bởi vì đạo Phật giúp cho chúng ta biết được vẻ đẹp của luân lý đạo đức và sự
thanh tịnh vốn tiềm ẩn sâu xa trong bản chất của con người mà không cần một
đấng thần linh nào khác hơn là một đấng thần linh trú ẩn trong tâm của con
người để thức tỉnh họ sống một cuộc sống huy hoàng.
Charles T. Gorham
Phật giáo là một tôn giáo rất thiết thực bởi vì Phật
giáo quan niệm về cuộc đời và thế giới một cách thực tế. Phật giáo không lôi
kéo chúng ta đến thiên đàng của những người vô trí một cách sai lầm. Phật giáo
cũng không đe doạ và làm cho chúng ta khổ sở bằng tất cả những nỗi ám ảnh sợ
hãi tưởng tượng và cảm giác tội lỗi. Tôn giáo này kêu gọi chúng ta một cách
chính xác và khách quan những gì chúng ta đang là và những gì thế giới xung
quanh chúng ta, và chỉ cho chúng ta con đường đưa đến tự do giải thoát hoàn
toàn, sự an lạc, hạnh phúc.
Hoà thượng Tiến sĩ W.Rahula.
Sứ mệnh của đức Phật vô cùng độc đáo tiêu biểu cho tính
cách của Phật giáo. Và vì thế, sứ mệnh này đứng biệt lập hẳn với các tôn giáo
khác trên thế giới. Sứ mệnh của Ngài là mang lại những loài chim lý tưởng bay
trên không gian nhưng gần mặt đất hơn, bởi vì thức ăn của chúng thuộc về trái
đất.
Hazzat
Inayat Khan, "Thông điệp của Sufi"
Phật giáo đã cung ứng cho bước tiến của nền văn minh thế
giới và văn hóa thật sự, nhiều hơn bất luận ảnh hưởng nào khác trong ký sự của
nhân loại.
Sử gia H.G.Wells
Văn minh Phật giáo vươn mình lên vững vàng trước khi tất cả
mọi người đến nằm trong ảnh hưởng của nó, một kiểu mẫu của con người xứng đáng
được kính trọng phải như vậy, một nhân vật lý tưởng đáng nêu gương lành cho
hàng vua chúa cũng như hạng cùng đinh…sản xuất tài sản để sử dụng trong công
tác xã hội thay vì lợi ích cá nhân, đo lường cá nhân bằng giá trị đạo đức và
trí tuệ, không phải bằng quyền lực kinh tế, và sự lớn mạnh của quốc gia bằng
tình trạng thanh bình thạnh vượng của dân trong nước chứ không phải thăng bằng
chỉ số chi thâu thương mãi. Đó là vài giá trị được cụ thể hóa trong lý tưởng
của người Phật tử.
Tiến sĩ Richard A. Gard
Duy nhất trong tất cả các tôn giáo lớn thế giới, Phật giáo
tiến hành trên con đường của mình mà không gây sát hại, hành hạ, cấm đoán, kiểm
duyệt hoặc tìm tòi soi bói.
Aldous Huxley
Tôn giáo của những tâm hồn cao cả và toàn vẹn nhất có thể
tồn tại chung mà hoàn toàn không có niềm tin khải thị nào, trong ý nghĩa chân
thật nhất của danh từ không có niềm tin nơi tinh chất cốt yếu của đạo giáo thần
khải, nơi có một thần linh vô ngã. Trong danh từ thần linh vô ngã, tôi bao gồm
tất cả những ý niệm về cái gọi là thần linh siêu nhân, cùng một bản chất tinh
thần và đạo đức như một người nhưng ở tầng lớp cao hơn, hoặc một năng lực đạo
đức siêu phàm.
Julian
Huxley, Relegion without Revelation
Bằng đức hy sinh rộng lớn mênh mông của Ngài, bằng hạnh từ
khước vĩ đại của Ngài, và bằng phẩm hạnh thanh tịnh vô nhiễm của đời Ngài, Ngài
đã ghi tạc lên trên Aán độ giáo những dấu vết không bao giờ phai mờ, và đối với
bậc thầy vĩ đại ấy, Aán độ giáo còn mang một mối nợ phải được tri ân muôn đời.
Mahatma Gandhi
Tôi không biết cái chi trên thế gian này vĩ đại hơn hình
ảnh của đức Phật. Đó là sự hiện thân tuyệt hảo của tâm linh trong lĩnh vực hữu
hình.
Bá tước Kayserling " The Travel Diary of a
philosopher".
Đức Phật lúc nào cũng là nguồn gợi cảm dồi dào cho tôi…
chính phẩm cách cá nhân của Ngài đã lôi cuốn tôi.
Nehru
Phật giáo truyền dạy một lối sống, không phải bằng cách
thống trị mà bằng nguyên tắc, một lối sống tốt đẹp, và đó là một tôn giáo khoan
dung độ lượng. Đây là hệ thống từ thiện nhất dưới mặt trời. Không bao giờ và
không nơi nào có máu đổ trong sự nghiệp truyền bá. Không bao giờ có sự hành hạ
ngược đãi những ai không cùng theo một tín ngưỡng- một bài học mà người Cơ đốc
giáo vẫn còn phải học. đức Phật dạy cho con người làm cho thế giới ngày càng
tốt đẹp hơn và thánh thiện ngay trong đời sống hiện tại.
Joseph Wain
Ta có thể nhận thấy trong giáo huấn của đức Phật những điểm
giống với học thuyết dân chủ hiện đại. Ngài khuyên dạy lòng khoan dung đại
lượng, ý niệm khơi dậy những cuộc thảo luận, quyền tự do lựa chọn rộng rãi,
bình đẳng bất bạo động, vô thường-mỗi ý niệm ấy đều đi ngược dòng những tập tục
thông thường vào thời của Ngài. Đó là những khái niệm cách mạng mà đức Phật giới
thiệu từ hơn 2500 năm trước đây. Đó là những cải tiến tri thức trọng đại..
nhưng tất cả đều có tính cách dân chủ, trong nội dung cũng như tác ý.
Giáo sư Ralps Buultjens " Buddhism and
Democracy"
Con đường của Phật giáo là con đường trung đạo giữa hai cực
đoan. Đây không phải là một sự thoả hiệp yếu đuối, nhưng là một sự vừa phải hợp
lý tránh sự cuồng tín và sự lười biếng giãi đãi, và tiến lên một cách đều đều
và có quyết tâm mà không có sự chần chừ đem lại sự phản ứng riêng, mà luôn tiến
không ngừng bước. Đức Phật gọi nó là Con Đường Thánh Tám Ngành (Bát thánh đạo)
đưa đến Niết-bàn, và con đường này có thể được xem như là một cuộc hành trình
tu tập tâm linh thánh thiện cao quý nhất, song được biểu hiện ở một hình thức
giản đơn.
Phật giáo cũng không bi quan hay yếm thế. Phật giáo là một
hệ thống tư duy, một tôn giáo, một khoa học tâm linh, và một triết lý sống hợp
lý, thiết thực và bao hàm tất cả. Hơn 2500 năm, Phật giáo đã làm thoả mãn những
nhu cầu tâm linh của hơn 1/3 nhân loại. Đạo Phật mời gọi những ai đi tìm chân
lý bởi vì Phật giáo là một tôn giáo không có giáo điều, làm thoả mãn nhu cầu
của lý trí cũng như con tim, nhấn mạnh tinh thần tự tin, tự lập đi kèm với sự
khoan dung đối với quan điểm của những người khác, bao hàm cả khoa học, tôn
giáo, triết học, tâm lý học, huyền thoại, đạo đức luân lý và nghệ thuật. Đạo
phật còn chỉ ra duy con người là đấng sáng tạo của kiếp sống hiện tại của mình
và là người thiết kế độc nhất toàn bộ sinh mệnh của anh ta.
Christmas Humphreys (1901-1983), thẩm phán nổi tiếng người
Anh.
Tôi càng tu tập thiền chỉ, tôi càng trở nên có ấn tượng với
phương pháp này như là một hệ thống huấn luyện tâm. Nó phù hợp với thái độ của
tâm của người phương Tây chúng ta khi nghiên cứu khoa học: không thành kiến,
không thiên vị, khách quan và phân tích. Nó dựa trên kinh nghiệm cá nhân và
trực tiếp chứ không dựa vào ý kiến hay quan điểm của một ai khác. Nó vô cùng
đơn giản và tận dụng vừa phải sự chú ý một cách cơ bản đơn giản như một cái
nhìn được duy trì nhưng trong một sự chọn lựa cẩn thận và hệ thống giới luật
nghiêm khắc. Do đó, nó khám phá ra tất cả những sự phán quyết hấp tấp, thiếu
chính xác, tất cả những điều nói về nó, tất cả những tranh luận, thảo luận, và
một sự lãng phí thời gian như chúng ta thường đam mê trong thế giới Tây Phương
của chúng ta. Trên thực tế, nó giải thoát chúng ta ra khỏi cuộc sống theo đường
mòn và sự trói buộc của chính mình, những thành kiến của chúng ta, những lời
sáo, sự vô minh và sự bảo thủ cố chấp của chúng ta, nhằm mục đích tạo cho chúng
ta sự tự do nhìn thế giới và chứng minh thế giới chân thật.
Tiến sĩ Graham Howe MB.BS. DPM, nhà vật lý học nổi tiếng
người Anh.
Quả thật chỉ có ánh sáng từ phương Đông, từ những triết lý
sống động, hài hòa và nhất là những huấn thị sâu sắc và giáo lý độc nhất
vô nhị của đức Phật sẽ là sự dàn trải và khoả lấp những lỗ hổng, cũng như sự
giải trừ các khủng hoảng cho đời sống hiện đại của Tây phương-một đời sống mang
danh là tiến hóa nhưng thực chất đang rơi vào tha hóa.
Matthieu Ricard, nhà khoa học về sinh học phân tử người
Pháp.
Thực thể hay chân ngã là sự khẳng định bao la, không có
tính phủ định, sự cân bằng hóa giải hết mọi thứ quan hệ dính mắc ràng
buộc..chân tâm không bị ràng buộc bởi tất cả mọi giới hạn. Trong con người nó
luôn luôn được xác định như sự lạc quan, tích cực ngược lại với sự bi quan tiêu
cực…..Phật giáo là một triết thuyết siêu nghiệm, mọi hành vi tạo tác dù thiện
hay ác đều tạo ra quả và không vượt khỏi luật nhân quả.
Người tốùt lành hay thiện tri thức, ngoài việc thấy biết về
thiên quốc còn thấy được những điều tốt lành trên mặt đất, thấy được những công
cụ cao quý của những tâm hồn cao quý. Khi chúng ta thấy các đường xe hoả, các
nhà máy và các ngân hàng, chúng ta thương hại cho sự nghèo khổ của những người
Phật tử mơ mộng. Thực sự, tinh thần Phật giáo cũng tạo ra một lực lượng sáng
tạo tương tự, nhưng nó đem lại sự bình yên và hạnh phúc thực sự cho toàn thể vũ
trụ thay vì sự thụ hưởng trần tục qua việc ăn ngon mặc đẹp và những ly rượu đắt
tiền, nhưng phải trả giá bằng những khổ đau, bằng chiến tranh bóc lột, bất công
và bằng sa đoạ.
Ralph Waldo Emerson, nhà văn người Mỹ.
Những lời Phật nói là chân lý tối thượng mà người nghe có
thể đạt đến chỗ đoạn diệt hoàn toàn mọi khổ đau; có thể đi đến con đường tốt
nhất để đạt được chân tính (Phật tính) và có thể thành Phật. Con đường tốt nhất
để đạt được Phật tính là con đường thiền định.
Tôi biết một số người nghĩ xấu về tôi khi họ nghe tôi nói
về đức Phật, vì họ kính yêu Chúa hơn Phật của tôi; nhưng tôi cam đoan rằng tôi
vẫn vui lòng vì lòng kính yêu là nguyên tắc chính của lòng mộ đạo.
Henry
David Thoreau, nhà văn người Mỹ
Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo của toàn cầu,
vượt lên trên mọi thần linh, giáo điều và thần học. Tôn giáo ấy phải bao quát
cả phương diện tự nhiên lẫn siêu nhiên, đặt trên căn bản của ý thức đạo lý,
phát xuất từ kinh nghiệm tổng thể gồm mọi lĩnh vực trên trong cái nhất
thể đầy đủ ý nghĩa. Phật giáo là tôn giáo duy nhất đáp ứng đầy đủ các điều kiện
đó.
Nếu có một tôn giáo nào đương đầu với các nhu cầu của khoa
học hiện đại thì đó là Phật giáo. Phật giáo không cần xét lại quan điểm của
mình để cập nhật hóa với những khám phá mới của khoa học. Phật giáo không cần
từ bỏ những quan điểm của mình để xu hướng theo khoa học, vì Phật giáo bao hàm
cả khoa học cũng như vượt qua khỏi khoa học.
Albert Einstein, nhà vật lý học vĩ đại nhất của thế kỷ 20.
Phật giáo là một tôn giáo cao cả nhất, và là một trong
những tia sáng vĩ đại nhất không chỉ riêng cho Châu á mà cho khắp toàn cầu.
Schopenhauer,
triết gia người Đức
Trong đạo Phật, không có thần thánh nào có khả năng giải
thoát con người. Chỉ có chính con người có khả năng đó, hiện tại và ngay ở đây.
Sử gia Jean Marc.
Khoa học và đạo Phật có một nền tảng chung về tương quan,
tương duyên, và khái niệm vô thường. Mọi hiện tượng đều được coi như một mấu
trong mạng lưới của quan hệ nhân quả; vì thế nên nó không có bản chất riêng
biệt. Cách nhìn ấy ngược lại với những cách nhìn của những tôn giáo lớn, tin
nơi đấng Thần linh. Các tôn giáo này khẳng định sự tồn tại của những thực thể
bất di, bất dịch, vượt ngoài quy luật nhân quả, như có Thượng đế, có Chúa, có
linh hồn.
Francisco Varela, nhà sinh học thần kinh, Giám đốc nghiên
cứu của Trung tâm Nghiên cứu Khoa học toàn quốc, Pháp.
Đức Phật với trí tuệ vĩ đại đã chống lại các tập tục mê
tín, các lễ nghi phiền toái, các Thầy tu Bà-la-môn thủ đoạn và những đặc quyền
đặc lợi dành cho giai cấp này. Ngài đã lên án những quan niệm thần học và siêu
hình học, các bùa phép, sự thiên khải và sự siêu nhiên phản khoa học. Ngài chú
trọng đến logic, lý trí và thực nghiệm. Ngài nhấn mạnh đến các phương diện đạo
đức và phương pháp của Ngài là sự phân tích mang tính tâm lý học…
Jawaharlal Nehru.
Tất cả mọi người sống ở Á châu đều có thể hãnh diện về một
tôn giáo không những có trước tôn giáo Tây phương cả hơn 500 năm mà còn có thể
bành trướng và duy trì mà không cần dùng đến bạo lực, và không hề bị hen ố bởi
những cuộc chiến tranh tôn giáo và Thánh chiến.
Tiến sĩ Edward Conze-Buddhism.
Tất cả các tôn giáo Á Đông đều phải biết ơn Phật giáo về
giáo lý đạo đức nhất mà giá trị của tôn giáo này còn hữu hiệu cho đến ngay bây
giờ mà tột đỉnh của giáo lý này là lòng từ bi đối với mọi chúng sanh, giáo lý
của đấng Toàn Giác.
William Hunter- A Brief History of The Indian People.
Phật giáo thực sự là làn gió xuân thổi từ đầu này tới đầu
kia của căn vườn Á châu và làm nở ra, không những chỉ có những bông sen ở Ấn
Độ, mà còn làm nở những bông hoa hồng ở Ba Tư, hoa đền đài ở Tích Lan, hoa cúc
ở Trung Hoa, hoa Anh đào ở Nhật Bản v.v…Toàn bộ văn hóa Á châu là văn hóa Phật
giáo. Không có nơi nào ngoài Đông phương mà tư tưởng Phật giáo lại có thể thống
nhất. Mỗi quốc gia đều có cách riêng để chấp nhận tư tưởng Phật giáo theo nhu
cầu địa phương, nhưng khi khối Đông phương phải đối đầu với khối Tây Phương thì
tư tưởng Phật giáo là lực nối kết những quốc gia này lại với nhau.
Ơû đây chúng ta nhấn mạnh sự kiện là, nếu lịch sử Phật giáo
có cho thế gới bài học nào, thì đó là trong sự truyền bá đạo Phật từ thung lũng
sông Hằng đến Tích Lan ở miền nam, cho tới Cao Nguyên Trung Á ở phía bắc, rồi
tới các hải đảo Nhật Bản ở phía đông, Phật giáo, văn hóa, văn minh và giáo dục
là những bạn đồng hành không thể tách rời nhau được.
Giáo sư Bapat- 2500 Years of Buddhism.
Toàn thể vũ trụ là một bãi chiến trường bao la hùng vĩ. Nơi
nơi đều diễn ra sự tranh đấu. Sự hiện hữu chỉ là một sự tranh đấu vô hiệu chống
lại những mầm mống của các loại bệnh khủng khiếp, giữa các phân tử với các phân
tử, các nguyên tử với các nguyên tử, các điện tử với các điện tử. Tâm vẫn là
một cảnh chiến trận. Sắc, thinh, hương, vị, v.v…là những hậu quả của sự phản
công và sự tham gia của các năng lực bên ngoài. Chính sự hiện hữu của chiến
tranh chứng minh rằng trên thế giới không có một quốc gia hoàn toàn hòa bình và
có một trạng thái hoàn toàn an lạc, hòa bình. Đó là những gì chúng ta gọi là
Thế giới Niết-bàn.
Hoà thượng Narada Thera- The Bodhisatva Ideal.
Đức Phật không hận thù giận dữ với thế gian. Ngài xem thế
gian là vô thường và khổ đau hơn là đồi bại, tội lỗi, thế gian là vô minh hơn
là phiến loạn. Ngài không hề bày tỏ thái độ buồn phiền về những người không
nghe theo Ngài và cũng không bày tỏ sự khó chịu.
Giáo sư Elliot- Buddhism and Hinduism.
Lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, đức Phật đã khuyên
nhủ, tha thiết yêu cầu, và kêu gọi nhân loại không nên làm sát hại sanh mạng,
không nên dâng hiến sự cầu nguyện hoặc là ca tụng hay hy sinh sanh mạng dâng
hiến cúng tế chư thần linh. Với tất cả tài hùng biện trong những lời yêu cầu
của Ngài, bậc giác ngộ đã quyết liệt tuyên bố rằng các vị thần linh cũng là
những vị hết sức cần sự cứu rỗi cho chính các vị.
Giáo sư Rhys Davids.
Ý niệm về tội lỗi của Phật giáo có phần hơi khác về ý niệm
của thiên chúa giáo. Theo người Phật tử, tội lỗi chỉ là do vô minh hay không
hiểu mà gây ra. Con người tội lỗi tồi bại là một con người vô minh. Anh ta
không cần sự trừng phạt và sự lên án mà cần được sự chỉ giáo hướng dẫn. Anh ta
không được xem như là một kẻ vi phạm những mệnh lệnh của Thượng đế hoặc là như
là một kẻ phải cầu xin lòng bi mẫn và sự tha thứ của Thượng đế. Điều cần thiết
hơn đối với những người bạn phạm tội như anh ta hãy cho anh ta biết được lẽ
phải của con người. Người Phật tử không tin người phạm tội có thể thoát
được những hậu quả đã gây ra bằng những nỗ lực cầu nguyện để thương lượng với
Thượng đế.
John Walters- Mind Unshaken.
Phật giáo và Kỳ na giáo chắc chắn không phải là Ấn giáo
hoặc là ngay cả giáo lý vệ đà. Nhưng cả hai tôn giáo này đều phát sinh tại Ấn
độ và là những bộ phận không thể thiếu được trong đời sống của người dân Ấn,
nền văn hóa và triết học Ấn. Tín đồ Phật giáo hay tín đồ Kỳ na giáo tại
Ấn hoàn toàn là sản phẩm của tư duy và văn hóa Ấn, song đó không phải là
tín ngưỡng của Ấn giáo. Đó là một sự nhầm lẫn khi đồng hóa nền văn hóa Ấn Độ với
nền văn hóa Ấn giáo.
Nehru -Dicovery Of India.
Với ý kiến cân nhắc thận trọng, tôi cho rằng phần căn bản
thiết yếu nhất của nền giáo lý đức Phật hình thành nên một phần không thể thiếu
được của Ấn giáo. Hiện nay người Ấn độ giáo tại Ấn Độ không thể hồi tưởng lại
những dấu vết của họ và đi đằng sau bước chân của những sự cải cách vĩ đại mà
đức Phật Cồ- đàm đã làm ảnh hưởng đến Ấn giáo. Bằng sự hy sinh lớn lao, bằng sự
xuất thế vĩ đại của Ngài, và sự thanh tịnh hoàn toàn của cuộc đời Ngài, Ngài đã
để lại một ấn tượng không thể nào tẩy xoá được cho Ấn giáo, và Ấn giáo suốt đời
nhớ ơn công lao vĩ đại của bậc thầy vĩ đại đó.
Thánh Mahatma Gandhi, Maha Bodhi.
Không có một tôn giáo nào tại Ấn Độ thời tiền Phật giáo có
thể được cho là tôn giáo thiết lập nên một hệ thống luân lý đạo đức và tôn giáo
mang giá trị phổ quát và bắt buộc cho toàn thể nhân loại.
Tiến sĩ S.N Dasgupta.
Đức Phật không chỉ nhận ra sự thực tối hậu mà Ngài còn
trình bày một cách rõ ràng tri thức thâm uyên của Ngài vượt khỏi những
phạm trù của lĩnh vực tri thức của nhân loại và các thần linh thoát khỏi những
sự nguỵ trang huyền thoại và lớp vỏ hoang đường. Ơû đây, tuy nhiên, tri
thức của Ngài được trình bày theo một hình thức thuyết phục và vững chắc để cho
con người có thể theo Ngài mà hành trì những lời dạy ấy một cách tích cực và tự
tin. Vì chính lý do này, đức Phật không yêu cầu bất kỳ một niềm tin nào, nhưng
hứa hẹn một tri thức.
George Grimm, The Doctrine of The Buddha.
Lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, đức Phật tuyên bố một
sự cứu rỗi mà mỗi người có thể tự mình đạt được và bằng chính bản thân mình
ngay trong kiếp sống hiện tại mà không cần đến sự giúp đỡ tối thiểu của một
Đấng Thiêng Liêng nào hay các vị thần linh. Ngài hoàn toàn nhấn mạnh về giáo lý
tự tin, tự thanh tịnh, thanh nhã, giác ngộ, an lạc, và tình thương phổ quát.
Ngài cũng nhấn mạnh sự cần thiết của tri thức, bởi vì không có trí tuệ thì trí
tuệ siêu việt không thể đạt được ngay trên cuộc đời này.
Giáo sư Elliot, Buddhism and Hinduism.
Không phải chính đức Phật đã giải thoát con người, nhưng
Ngài dạy họ tự giải thoát cho chính mình. Họ chấp nhận về giáo lý chân thật của
Ngài không phải chỉ vì giáo lý đó là của Ngài, nhưng vì sự thuyết phục các nhân
Ngài, được thức tỉnh bởi những lời dạy của Ngài, phát sinh từ ánh sáng trí tuệ
của chính họ.
Tiến sĩ Oldenburg, một học giả người Đức.
Khoa học không thể đưa ra lòng tự tin trong trường hợp này.
Nhưng Phật giáo có thể đương đầu với những thách thức của nguyên tử bởi vì tri
thức siêu thế của Phật giáo xuất phát từ điểm mà khoa học kết thúc. Và điều này
rõ ràng đối với những ai nghiên cứu đạo Phật. Bởi vì, thông qua thiền định Phật
giáo, những yếu tố cấu thành bổ khuyết cho vấn đề đã được chứng minh và cảm
nhận được, và sự khổ đau, buồn rầu hoặc "Dukkha" của sự hiện hữu và
diệt tận (Lý duyên khởi) đã tạo ra chính nó với những gì chúng ta gọi là một
"tự ngã" hay "linh hồn"- sự vô minh về Sakkhayaditthi như
đã được đề cập trong giáo lý của đức Phật.
Egerton C. Baptist, -Supreme Science of the
Buddha.
Phật giáo giúp cho con người tự đứng vững trên đôi bàn chân
của chính mình và đánh thức sự tự tin và tự nỗ lực trong mỗi người.
Hòa thượng Narada
Thera-Buddhism in a Nutshell.
Con người vĩ đại hơn những sức mạnh mù quáng của thiên
nhiên bởi vì ngay cả anh ta bị che phủ bởi chúng anh ta vẫn duy trì được sự
vượt trội hơn về đức hạnh của sự hiểu biết của anh ta về những hiện tượng ấy.
Lại nữa, Phật giáo còn chuyển tải chân lý đi xa hơn nữa: Phật giáo chỉ ra rằng
bằng những phương tiện của sự hiểu biết, con người cũng có thể điều khiển những
hoàn cảnh, kiểm soát những vấn đề. Con người có thể thoát ra khỏi sự che mờ của
những hiện tượng sức mạnh ấy, và vận dụng nghững quy luật của tự nhiên để tự
mình vươn lên.
Pascal
Luật theo ý nghĩa khoa học là một sản phẩm thiết yếu của
tâm trí con người và không có một ý nghĩa gì khi tách ra con người. Lại càng có
ý nghĩa hơn khi tuyên bố rằng con người tạo ra những quy luật của tự nhiên hơn
là lập luận ngược lại rằng tự nhiên tạo ra cho con người những quy luật.
Giáo sư Karl Pearson.
Con người ngày nay là kết quả của sự lặp lại hàng triệu lần
những tư duy và hành động của anh ta trong vô lượng kiếp. Con người không phải
là một thứ sản phẩm được làm sẵn; anh ta trở thành và đang trở thành. Nhân cách
anh ta do sự lựa chọn của chính anh ta đinh đoạt, những tư duy và hành động mà
anh ta chọn lấy cho riêng mình bằng thói quen hình thành nên con người thực tại
của anh ta.
Hoà thượng Piyadassi.
Phật giáo là một tôn giáo hoạt động vì tinh thần dân chủ,
đề cao tính dân chủ trong tôn giáo, tính dân chủ trong xã hội, và tính dân chủ
trong lĩnh vực chính trị.
Tiến sĩ Ambedkar, bộ trưởng Luật Pháp đầu tiên của Ấn Độ
sau khi độc lập khỏi Anh.
Trên thế giới này, đức Phật đã trình bày những chân lý về
những giá trị vĩnh cửu và sự tiến bộ về mặt luân lý đạo đức không chỉ cho riêng
một lãnh thổ Ấn Độ mà là cho toàn thể nhân loại. Đức Phật là một trong những
nhà đạo đức vĩ đại kỳ tài chưa từng được chứng kiến trên thế gian này.
Albert Schweitzer, triết gia phương Tây.
Phật giáo đã đóng góp nhiều cho sự tiến bộ của những nền
văn minh thế giới và nền văn hóa chính đáng hơn là những sự ảnh hưởng khác
trong những biên niên sử của nhân loại.
H.G. Wells.
Không một trang sử Phật giáo nào đã từng bị nhạt màu đi bởi
ánh sáng của những ngọn lửa của toà án dị giáo, hoặc là bị làm đen tối bởi làn
khói của những người ủng hộ dị giáo hoặc là các thành thị của những người dân
theo tà đạo nóng bỏng, hay bị nhuộm đỏ bởi máu của những tội nhân vô tội vì sự
hận thù tôn giáo. Đạo Phật chỉ nắm và sử dụng một thanh gươm duy nhất - thanh
gươm của trí tuệ, và chỉ nhận ra một kẻ thù duy nhất- đó là vô minh. Đó là một
bằng chứng trong lịch sử, và người ta không thể chối cãi được.
Giáo sư V.P. Bapat, 2500 years of Buddhism.
Đó là một sự huy hoàng của Phật giáo mà nó đã tạo ra sự
giác ngộ về mặt tâm linh như là một điều kiện cần thiết cho sự cứu rỗi, giải
thoát. Trong Phật giáo, sự giác ngộ về mặt luân lý đạo đức và tâm linh là hai
nhân tố không thể chia cách nhau được. Trong khi luân lý đạo đức hình thành nên
cơ sở cho một đời sống cao thượng hơn, tri thức và trí tuệ làm hoàn hảo đời
sống đó. Không có một sự hiểu biết hoàn toàn về quy luật duyên khởi và chuyển
hóa, thì không một ai có thể được cho là sống có đạo đức thực sự nếu anh ta
không có một trí tuệ nội quán và tri thức cần thiết. Xét về phương diện này,
Phật giáo khác so với tất cả những tôn giáo khác. Tất cả các tôn giáo thuộc
nhất Thần giáo khởi đầu với một vài giả định nào đó, và khi những giả định này
tương phản với sự phát triển của tri thức, thì sự buồn rầu, khổ đau càng tăng
trưởng. Nhưng Phật giáo không bắt đầu bằng những giả định. Phật giáo đứng trên
tảng đá vững chắc của những sự kiện, và cho nên không bao giờ lánh xa ánh sáng
của tri thức.
Giáo sư Lakhsmi Narasu, The Essence of Buddhism.
Đức Phật Cồ Đàm bác bỏ ngay cả cái bóng dáng của sự hiện
hữu thường hằng bằng một sức mạnh siêu hình hữu ích lớn lao cho những người
nghiên cứu triết học, vì xét thấy điều đó chỉ cung cấp một nửa nhu cầu cho các
lời tranh luận nổi tiếng thuộc chủ nghĩa lý tưởng của Giám Mục Berkeley.
Thật là một dấu hiệu đáng kể về sự suy đoán tế nhị của Người Ấn rằng đức Phật
phải được nhìn nhận sâu sắc hơn các nhà theo chủ nghĩa lý tưởng hiện đại. Ngày
nay trên khắp thế giới tất cả nhân loại đều có khuynh hướng tư duy giác ngộ
không thiên về tư duy thần học, mà thiên về tư duy triết học và tâm lý học. Học
thuyết nhị nguyên thần học đang bị trôi dạt vào sự hiểm nguy. Những nguyên lý
cơ bản của tiến hóa và nhất nguyên luận đang được các nhà tư tưởng thế giới
chấp nhận.
Giáo sư Huxley, Evolution and Ethics.
Tại Ấn Độ 25 thế ký trước đây, người ta đã chứng kiến một
cuộc cách mạng về tâm linh và tôn giáo cuối cùng đã lật đổ được chủ nghĩa độc
thần và giới tu sĩ ích kỷ, và thiết lập nên một tôn giáo tổng hợp, một hệ thống
trí tuệ và tư tưởng có thể được gọi là Dhamma (Giáo Pháp)- một Triết Học Tôn
Giáo.
Anagarika Dharmapala, nhà chấn hưng Phật giáo Ấn Độ cận
đại, The World's Debt to Buddha.
Phật giáo là một sự chuẩn bị cho cuộc sống theo một cách mà
có thể mang lại những lợi ích cao nhất cho cuộc đời. Phật giáo là một tôn giáo
của trí tuệ mà ở đó tri thức và khả năng lý trí hoàn toàn chiếm ưu thế. đức
Phật không thuyết giảng để mà giáo hóa nhân loại về tôn giáo của mình mà để làm
cho hàng thính giả nghe và giác ngộ giáo lý của Ngài.
Một nhà văn Tây phương.
Phật giáo luôn luôn là một vấn đề của thấy và biết, chứ
không phải là vấn đề của tin tưởng và cầu nguyện. Giáo Pháp của đức Phật được
đánh giá như là một hệ thống giáo lý mời bạn đến để mà thấy, chứ không phải đến
để mà tin.
Hoà thượng tiến sĩ W.Rahula, What the Buddha Taught.
Phật giáo sẽ trường tồn cho đến khi nào mặt trời và mặt
trăng không còn hiện hữu nữa, và cho đến khi nào nhân loại không còn tồn tại
trên thế gian này nữa, bởi vì Phật giáo là một tôn giáo của con người cũng như
của chung cho tất cả nhân loại.
Bandaranaike, cựu Thủ tướng Tích Lan.
Người Phật tử không phải là một kẻ nô lệ cho kinh sách hoặc
cho bất cứ người nào. Anh ta cũng không dâng hiến sự tự do tư tưởng của mình
bằng cách trở thành đệ tử của đức Phật. Anh ta có thể hành động theo ý chí chí
tự do của mình và phát triển tri thức của anh ta đến mức độ có thể tự mình
chứng thành quả vị Phật bởi vì tất cả mọi người đều có thể thành Phật.
Hoà thượng Narada Maha Thera, What is Buddhism.
Đạo Phật dạy một cách sống không phải là theo luật lệ mà là
theo nguyên lý, một lối sống cao đẹp; và kết quả là, Phật giáo là một tôn giáo
của từ bi khoan dung. Phật giáo là một hệ thống nhân từ nhất trên thế gian này.
Giáo sĩ Joseph Wain.
Đọc một ít kiến thức về Phật giáo giúp chúng ta nhận thức
rằng hơn 2500 năm trước đây, đạo Phật biết nhiều hơn về vấn đề tâm lý
hiện đại của chúng ta hơn là nhân loại đã biết đến. Những tín đồ đạo Phật đã
nghiên cứu những vấn đề này từ lâu và cũng đã tìm ra những giải Pháp cho vấn đề.
Tiến sĩ Graham Howe.
Hiện nay, chúng ta nghe thấy nhiều về sức mạnh của tư duy,
song Phật giáo là một hệ thống huấn luyện tâm hoàn hảo nhất và hiệu quả nhất đã
được trình bày trước thế giới.
Dudley Wright.
Đức Phật đã tạo ra một tân thế hệ nhân loại, một thế hệ của
những anh hùng luân lý đạo đức, một thế hệ giải phóng những người công nhân lao
động, một thế hệ của các vị Phật.
Manmatha Nath Sastri.
Phật giáo là một tôn giáo sứ mệnh đầu tiên trong lịch sử
nhân loại với một thông điệp toàn cầu về sự cứu rỗi, giải thoát cho tất cả nhân
loại. Sau khi giác ngộ vô thượng Chánh Giác, đức Phật đã phái 62 vị đệ tử đầu
tiên đi vào đời truyền bá giáo pháp của NGài theo nhiều hướng khác nhau, yêu
cầu các vị này hãy truyền bá chánh Pháp vì lợi ích và hạnh phúc cho quấn sanh.
Ở đây, điều cần thiết là lưu ý đến một đặc trưng độc nhất
của tôn giáo của đức Phật, chính là đó là một tôn giáo của bất kỳ một vị đạo sư
nào, mà kết quả là một nền triết học nhất quán cho chúng ta biết về những chân
lý tối hậu của sự hiện hữu và thực tại. Tôn giáo của đức Phật là một triết lý
sống do sự chấp nhận một quan điểm sống được cho là thực tại. Triết lý của đức
Phật không phải là không đề cập đến bản chất của tri thức.
Tiến sĩ K.N. Jayatilleke, Buddhism and Peace.
Chỉ nói về Phật giáo thôi, người ta có thể khẳng định đó là
một tôn giáo không có sự cuồng tín. Mục đích của Phật giáo là nhằm tạo ra một
sự chuyển hóa từ bên trong của mỗi cá nhân bằng cách tự chinh phục và chiến
thắng mình, cho dù những sức mạnh của tiền bạc vật chất hay sự thuyết phục để ảnh
hưởng đến sự chuyển hóa đi nữa. đức Phật chỉ chỉ ra con đường duy nhất đưa đến
sự giải thoát, và con đường đó được để lại cho mỗi cá nhân để tự mình quyết
định nếu mình muốn đi theo con đường đó.
Giáo sư Lakshmi Narasu, Essence of Buddhism.
Đạo Phật giống như một lòng bàn tay và các tôn giáo khác
giống như những ngón tay trong lòng bàn tay.
The Great Khan Mongka.
Một số người nghĩ rằng Phật giáo là một tôn giáo đen tối và
buồn chán. Đó là một sự nhận xét sai lầm; Phật giáo sẽ làm cho tín đồ của mình
sáng lạng và vui tươi. Khi chúng ta đọc những mẫu chuyện tiền sinh của các vị
Bồ tát, các vị Phật tương lai, chúng ta biết được hạnh nguyện tu tập về sự hoàn
hảo của các đức tính kiên nhẫn và khoan dung độ lượng như thế nào. Phật giáo sẽ
giúp cho chúng ta được vui tươi ngay cả trong những tình huống khó khăn lớn và
lấy làm vui mừng trong những lợi ích khác.
Thượng tọa Gnanatiloka, một học giả Phật học người Đức.
Hãy trở về với Phật giáo và bạn sẽ đọc được những gì mà vị
Hoàng đế A Dục không chỉ tuyên thuyết một nền luân lý đạo đức cao thượng mà còn
sử dụng quyền uy của một bậc đế vương theo một phương cách khiến cho các vị đế
vương hiện đại cuả các niềm tin khác phải hổ thẹn.
Geoffrey Mortiner, một nhà văn Tây Phương.
Thậm chí cho đến ngày nay không thể xem rằng Phật giáo đã
bị mai một, suy yếu bởi vì Phật giáo được bám chặt trên những nguyên lý cố định
không bao giờ được sửa đổi. Gertrude Garatt.
Tất cả những lời dạy của đức Phật có thể được tóm gọn lại
trong một thuật ngữ: " Dhamma" (Pháp- Chân Lý). Pháp này chân thật,
hiện hữu không chỉ ở nơi tâm trí của con người mà còn hiện hữu ở khắp nơi trên
vũ trụ này. Tất cả vũ trụ là một sự hiện thân tiết lộ của Pháp. Quy luật của tự
nhiên mà giới khoa học ngày nay đã khám phá là sự biểu hiện của Pháp- Chân lý.
Nếu mặt trăng lên và lặng xuống, thì đó là bởi vì
Pháp, bởi vì Pháp là quy luật trú ngụ trong vũ trụ khiến phát sinh ra những
hoạt động theo những phương cách được nghiên cứu trong vật lý học, hóa học,
động vật học, thực vật học và thiên văn học. Pháp hiện hữu trong vũ trụ chỉ vì
Pháp hiện hữu trong tâm trí của con người. Nếu con người sống theo đúng với
chánh Pháp, thì anh ta sẽ thoát khỏi khổ đau và chứng đắc Niết-bàn, an lạc.
Thượng tọa A. Mahinda.
Mặc dù ngay từ đầu người ta có thể bị thu hút bởi sự khóang
đạt của tôn giáo này, người ta có thể tán dương chân giá trị của Phật giáo chỉ
khi người ta phán xét Phật giáo thông qua kết quả mà nó đã phát sinh trong
chính cuộc sống hằng ngày của chính mình.
Tiến sĩ Edward Conze, học giả và dịch giả của các kinh điển
hệ Bát-nhã
Nếu không có những thú vui nhục dục, thì liệu cuộc sống có
thể nào chịu đựng được? Không có một niềm tin vào sự vĩnh hằng bất tử, thì liệu
con người có thể sóng có luân lý đạo đức? Không có sự sùng bái, cầu nguyện một
đấng Thần linh, Thượng đế thì liệu con người có thể tiến đến một cuộc sống
Thánh thiện, Chân chánh? Vâng, có thể, đức Phật trả lời. Những mục đích này có
thể đạt được bằng trí tuệ, tri kiến; chính tri thức, trí tuệ là chìa khóa đưa
đến đạo lộ cao thượng hơn, một đạo lộ đáng được theo đuổi trong cuộc sống; tri
kiến, trí tuệ mang lại cho chúng ta sự an lạc và hạnh phúc trong cuộc sống,
giúp chúng ta không dao động trước những cơn bão tố của thế giới hiện tượng.
Giáo sư Karl Pearson.
Những vị đệ tử khiêm nhường của đức Phật thật là may mắn
biết bao! Họ không có thừa hưởng lối nguỵ biện về tính không thể sai lầm của
bất cứ những sách khải huyền ngay từ lúc khởi đầu.
Thượng toạ tiến sĩ Ananda Kaushalyayana.
Do vậy, Phật giáo là một tôn giáo dành riêng cho cá nhân
của mỗi người, và không có lý do để hình thành nên hình thức lễ nghi cúng bái
trong tôn giáo này. Một hành động được thực thi với một ý tưởng phục vụ cho
điều kiện riêng của cá nhân thì không phải là một hình thức lễ nghi. Khi chúng
ta nhìn bề ngoài của hầu hết những hình thức dường như là lễ nghi của đạo Phật
ngày nay, thì không nên vội kết luận đạo Phật là đạo mang bản chất lễ nghi tôn
giáo, mà thực sự đó không phải là hình thức lễ nghi.
Tiến sĩ W.F. Jayasuriya, the Psychology and Philosophy of
Buddhism.
Nếu đức Phật phải được gọi là một "Bậc cứu thế"
thì đó chỉ là dựa trên ý nghĩa ngôn từ rằng Ngài đã khám phá và chỉ ra Con
Đường đưa đến sự giải thoát, Niết-bàn. Song chính chúng ta phải thực hành
con đường.
Hoà thượng tiến sĩ W.Rahula, What the Buddha taught.
Tạo áp lực cho chính mình tin vào và chấp nhận một điều gì
mà không có sự hiểu biết đúng đắn thì đó là một thái độ chính trị chứ không
phải là thái độ tâm linh hay tri thức.
Hoà thượng tiến sĩ W.Rahula, What the Buddha taught.
Chúng ta không nên chỉ tôn trọng tôn giáo của mình và chê
bai đã phá tôn giáo của những người khác, nhưng chúng ta nên tôn trọng ton giáo
của những người khác vì lý do này hay lý do khác. Làm như vậy, chúng ta giúp
cho tôn giáo của mình phát triển và cũng giúp ích cho các tôn giáo khác cũng
phát triển như tôn giáo mình. Khi hành động khác đi với tinh thần trên, thì
chúng ta tự mình đào mồ chôn tôn giáo của chính mình và còn làm hại các tôn
giáo khác. Bất cứ ai kính trọng tôn giáo của mình và chỉ trích chê bai tôn giáo
của người khác, tưởng rằng thực sự làm như vậy là tận tuỵ với tôn giáo của mình
và nghĩ rằng "Tôi sẽ làm rạng danh tôn giáo của mình." Song trên thực
tế lại ngược lại, khi làm như vậy là anh ta làm tổn thương tôn giáo của mình
ngày càng trầm trọng thêm. Do vậy, nên hài hòa là tốt hơn: Tất cả hãy cùng nhau
lắng nghe và sẵn sàng lắng nghe giáo lý của những người khác tôn giáo mình.
Đại Đế A Dục (Asoka)
Một tôn giáo của triết lý sống được đánh giá không chỉ bằng
chân lý mà tôn giáo này đã tuyên thuyết mà còn bằng những sự chuyển hóa, đổi
thay mà tôn giáo này đã mang lại trong cuộc sống của những tín đồ của tôn giáo
đó. Từ trước đến nay, sự kiểm nghiệm này liên quan đến Phật giáo, đã đạt được
một kỷ lục về những thành tựu mà chúng ta có thể lấy làm hãnh diện thực sự.
D. Valisinha, Tổng Thư ký Hội Maha Bodhi, Buddhist Way of
Life.
Người ta cũng có thể nói rằng Ấn Độ đã khám phá ra vô thức
sớm hơn các nhà tâm lý học Tây phương. Đối với họ, vô thức bao gồm tổng thể
những cảm giác tiềm tàng trong cá nhân như là sự thừa hưởng từ kiếp sống trước.
Kỹ thuật thiền định của đạo Phật, đề cập đến những nguồn năng lực tiềm ẩn bên
trong, là một người đi trước so với lối phân tích tâm lý hiện đại, cũng như sự
huấn luyện tinh thần mang tính tự sinh v.v…
Giáo sư Von Glasenapp, một học giả người Đức.
Phật giáo là một tôn giáo lớn duy nhất trên thế giới được
hình thành trên cơ sở ý thức và chân thực, căn cứ trên một hệ thống phân tích
hợp lý về những vấn đề trắc trở của cuộc sống và giải pháp để giải quyết những
khó khăn ấy.
Moni Baghee, Our Buddha.
Không có những gì mà chúng ta có thể gọi là tín điều trong
giáo lý của đức Phật. Với một quan điểm khóang đạt hiếm có trong thời đại của
Ngài và không mấy phổ biến trong thời đại của chúng ta, Ngài đã từ chối kiềm chế
đàn áp sự phê bình chỉ trích. Đối với Ngài, thiếu khoan dung độ lượng dường như
là kẻ thù vĩ đại nhất của tôn giáo.
Tiến sĩ K.Radhakrishnan, Gautama the Buddha.
Hầu hết những người mới vào đạo của các tôn giáo khác được
điều khiển bởi những vị trưởng giáo của họ và bị ngăn cấm không cho đọc những
kinh sách, giáo lý, học thuyết, tạp chí, sách bỏ túi hay những cuốn tiểu
luận của các tôn giáo khác. Thái độ này dường như không thấy xảy ra trong đạo
Phật.
Tỳ-kheo Khantipalo, Tolerance.
Năm giới này chỉ ra năm hướng chính quan trọng mà một người
Phật tử tự kiểm soát mình phải thực thi. Do vậy, giới thứ nhất khuyên răng
người Phật tử kiềm chế lòng tham dục của sự giận dữ; giới thứ hai giúp họ kiềm
chế những tham đắm về của cải vật chất; giới thứ ba kiềm chế về nhục dục; giớ
thứ tư giúp chế ngự sự khiếp nhược, hèn nhát và ác tâm muốn hại tha nhân
(nguyên nhân của tính không trung thực); và giới thứ năm giúp chế ngự lòng tham
ái đối với những thích thú tiêu cực, bất thiện.
Edmond Holmes, The Creed of Buddha.
Một trong những học giả đầu tiên bắt đầu công việc chuyển
dịch hệ văn học Pàli sang Anh ngữ, là con trai của một Mục Sư nổi tiếng.
Mục đích của vị ấy khi thực thi công việc này là để chứng minh sự vượt trội của
Cơ đốc giáo so với Phật giáo. Tuy ông ta thất bại trong nhiệm vụ lớn lao này,
song đạt được một sự chiến thắng vĩ đại hơn ông ta mong đợi. Kết quả là ông ta
trở thành một Phật tử. Chúng ta không bao giờ quên được cái cơ duyên may mắn
hạnh phúc đã thúc đẩy ông ta thực hiện công việc này và do đó mang lại giáo
Pháp quí giá này cho hàng nghìn người dân tại Tây phương. Danh xưng của vị học
giả vĩ đại này là Tiến sĩ Rhys Davids.
Thượng toạ A.Mahinda, Blue Print of Happiness.
Có thể rằng khuynh hướng hướng đến một chính quyền tự trị
được làm bằng chứng bởi những hình thức đa dạng của những hoạt động phối tác
được nhận lấy từ hình thức phôi thai đầu tiên của Phật giáo, từ bỏ thế lực
quyền hành của giai cấp, tầng lớp tu sĩ tăng lữ và đi xa hơn nữa là bằng học
thuyết về sự bình đẳng công bằng như đã được chứng minh qua sự xoá tan hệ thống
giai cấp đặc quyền. Quả nhiên, chính nhờ vào những kinh sách đạo Phật mà chúng
ta phải trở về để thừa nhận rằng sự kiện xã hội có tổ chức của những mô hình
gương mẫu đầu tiên của những đại diện thể chế tự trị được thực thi. Nhiều người
hơi ngạc nhiên khi biết rằng những cuộc kiết tập kinh điển của chư vị đệ tử đức
Phật tại Ấn Độ cách đây 2500 năm và về trước nữa lại được tìm thấy những
nguyên lý mà chúng ta đang thực thi ngày nay tại nghị trường.
Cấp bậc của hội chúng được bảo vệ bởi sự chỉ định của viên
chức đặc biệt-là phôi thai của "Mr Speaker" (ông Chủ tọa) trong Hạ
Nghị viện của chúng ta ngày nay. Một viên chức thứ hai được bổ nhiệm để kiểm
tra xem xét số đại biểu cần thiết theo quy định được đảm bảo- nguyên mẫu của
một Trưởng quan chức có quyền duy trì kỷ luật trong các thành viên của Đảng
chính trị đang cầm quyền trong Nghị viện trong hệ thống của chúng ta ngày nay.
Hầu tước của Zetland, nguyên phó vương của Ấn Độ.
Trong 25 thế kỷ qua, Phật giáo đã hội nhập với các niềm tin
cổ truyền và các tôn giáo của nhiều vùng đất, hài hòa chúng với bản chất thanh
khiết của nền triết học Phật giáo. Cùng một lúc, Phật giáo đã nẩy nở trên khắp
Á Châu. Cho đến nay, Phật giáo vẫn là tôn giáo chính của các dân tộc Thái Lan,
Tích Lan, Miến Điện, Tây Tạng, Lào, Campuchia, Đài Loan, Việt Nam, Đại Hàn,
Trung Quốc, Mông Cổ và một số nước Trung Á như Bhutan, Siberia v.v… Cũng còn
nhiều cộng đồng Phật tử lớn ở Mã Lai, Tân Gia Ba và Ấn Độ, cũng như ở các nước
Tây phương như Anh Quốc, Hoa Kỳ, Thụy Sĩ, Đức, Pháp, các nước Bắc Âu và Úc.
Ngày nay, ta thấy có sự chú ý nhiều đến Phật giáo hơn trước
ở Tây phương. Nhiều học giả đã tiên đoán rằng trong thế kỷ tới, Phật giáo có
thể trở thành một tôn giáo chính ở Tây phương.
Kalinga Senevirathne, A
Brief History Of Buddhism.
Phật giáo đã đạt được nền tảng to lớn ở Tây phương trong
vòng hai mươi năm qua. Mới đây, Phật giáo đã được đón nhận như là tôn giáo phát
triển nhanh nhất ở Anh quốc. Đã có trên 100 nghìn đoàn thể Phật giáo và các
trung tâm được thiết lập ở nước này hiện nay, ở Hoa Kỳ còn nhiều hơn, và con số
lại gia tăng ở âu Châu nữa. Đó là từng chỉ dấu cho thấy sự chú ý đến Phật giáo
sẽ còn tiếp tục lớn mạnh, vì Phật giáo rõ ràng cung ứn được một số nhu cầu sâu
xa về tinh thần cho con người của thế giới Tây phương mà các tôn giáo truyền
thống của họ đã thất bại hoàn toàn. Người ta có thể hỏi: "Phật giáo có gì
đặc biệt giá trị và hữu ích vậy?
John Snelling, The Buddhist Handbook.
Hiện tại càng rõ ràng là Phật giáo đang đóng một vai trò
sinh động trong việc quốc tế hóa thế giới của chúng ta.
Rich Fields, How The Swans Came to The Lake.
uchia, Đài Loan, Việt Nam, Đại Hàn,
Trung Quốc, Mông Cổ và một số nước Trung Á như Bhutan, Siberia v.v… Cũng còn
nhiều cộng đồng Phật tử lớn ở Mã Lai, Tân Gia Ba và Ấn Độ, cũng như ở các nước
Tây phương như Anh Quốc, Hoa Kỳ, Thụy Sĩ, Đức, Pháp, các nước Bắc Âu và Úc.
Ngày nay, ta thấy có sự chú ý nhiều đến Phật giáo hơn trước
ở Tây phương. Nhiều học giả đã tiên đoán rằng trong thế kỷ tới, Phật giáo có
thể trở thành một tôn giáo chính ở Tây phương.
Kalinga Senevirathne, A
Brief History Of Buddhism.
Phật giáo đã đạt được nền tảng to lớn ở Tây phương trong
vòng hai mươi năm qua. Mới đây, Phật giáo đã được đón nhận như là tôn giáo phát
triển nhanh nhất ở Anh quốc. Đã có trên 100 nghìn đoàn thể Phật giáo và các
trung tâm được thiết lập ở nước này hiện nay, ở Hoa Kỳ còn nhiều hơn, và con số
lại gia tăng ở âu Châu nữa. Đó là từng chỉ dấu cho thấy sự chú ý đến Phật giáo
sẽ còn tiếp tục lớn mạnh, vì Phật giáo rõ ràng cung ứn được một số nhu cầu sâu
xa về tinh thần cho con người của thế giới Tây phương mà các tôn giáo truyền
thống của họ đã thất bại hoàn toàn. Người ta có thể hỏi: "Phật giáo có gì
đặc biệt giá trị và hữu ích vậy?
John Snelling, The Buddhist Handbook.
Hiện tại càng rõ ràng là Phật giáo đang đóng một vai trò
sinh động trong việc quốc tế hóa thế giới của chúng ta.
Rich Fields, How The Swans Came to The Lake.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét