
Chánh niệm là ngọn
đèn tâm giúp cho ta thấy biết sự sống trong ta và chung quanh ta một cách rõ
ràng. Chữ niệm gồm có bộ tâm ở dưới và chữ kim ở trên nghĩa là tâm ta trở về
xúc tiếp với sự sống trong giờ phút hiện tại. Tức là ta có mặt thật sự trong
giây phút ấy. Nói theo danh từ giản dị: Chánh niệm là có mặt; thất niệm là vắng
mặt. Có mặt là có sự sống. Lúc ấy, ăn thì ta biết ta đang ăn, uống thì ta biết
ta đang uống, đi thì ta biết ta đang đi, ngồi thì ta biết ta đang ngồi, thở thì
ta biết ta đang thở... Làm gì trong chánh niệm thì ta đều biết rõ ràng ta đang
làm việc đó.
Chánh niệm làm cho sự sống có mặt thật sự, bởi vì có mặt cho nên ta tiếp xúc
được với sự sống như hoa anh đào đang nở rộ, nắng chiều vàng tươi, ánh trăng
vằng vặc, hoàng hôn chiều tím, gương mặt hiền lành của mẹ… Nếu ta không có mặt
thì tất cả những mầu nhiệm ấy có cũng như không. Cũng vậy, nếu đánh mất ta
trong sự lo âu, suy tư, tính toán thì hoa anh đào đang nở rộ xinh đẹp có đó
cũng như không, vì tâm ta không tiếp xúc được với nó, không thấy được màu hồng
tươi sáng của hoa anh đào. Mẹ đang ngồi trước mặt, thế mà ta cứ mãi suy tính,
lo âu nên ta có cảm giác như không có mặt của mẹ. Trong thi ca tình yêu có câu
thơ:
“…Tình
có cũng như không,
Cho
thật nhiều mà nhận chẳng bao nhiêu…”
Sự sống luôn nuôi dưỡng, thương yêu, thế mà ta không có khả năng tiếp nhận được
tình thương ấy. Không khí núi rừng thật trong lành, mát mẻ, vậy mà ta không
thưởng thức được. Nắng chiều ấm áp làm sao! Vậy mà, ta cứ mãi trôi lăn trong
nỗi buồn nhớ thương… Sự sống, cha mẹ, gia đình, tăng thân, quê hương cho thật
nhiều tình thương mà ta chẳng nhận được bao nhiêu hết. Thật là oan uổng!
Chánh niệm là trở về. Về đâu? Ta trở về với ta. Tâm ta thường quen thói lang
thang nơi này chốn nọ. Ta suy nghĩ nhiều chuyện trên trời, dưới đất nên ta đánh
mất ý thức về sự hiện hữu của ta. Ta biết nhiều chuyện lắm nhưng ta không biết
gì về ta cả. Ta cảm thấy xa lạ với mình, do đó ta hãy làm một cuộc trở về làm
quen với chính mình. Hơi thở đưa tâm rong ruổi trở về cho thân tâm đoàn tụ.
Thở
vào con trở về với hơi thở
Thở
ra con cảm thấy khỏe nhẹ cả tâm hồn
Thở
vào con về với chính con
Thở
ra con sung sướng.
Trở về
là công việc quan trọng nhất của đời người. Về được, ta mới thật sự cảm thấy ấm
áp, đầy đủ và hết mặc cảm bơ vơ, lạc loài. Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn có làm bài
hát rất hay như sau:
“…Tiến
thoái lưỡng nan đi về lận đận
Ngày
nay lận đận không biết về đâu
Về
đâu cuối ngõ về đâu cuối trời
Xa
xăm tôi ngồi tôi tìm giấc mơ
Xa
xăm tôi ngồi tôi tìm lại tôi..”
“Tôi
tìm lại tôi” là chánh niệm, là ý nghĩa cao cả của đời ta.
Muốn thắp lên ngọn đèn tâm, ta phải cần tới nhiên liệu như bao nhiêu ngọn đèn
khác. Ngọn đèn tâm đã có sẵn trong lòng như một hạt giống thuộc về “tâm sở biệt
cảnh” gọi là ‘niệm’, nhưng đã nhiều kiếp xa xưa ta sống trong quên lãng, trôi
lăng trong biển vọng, chạy theo bản năng tập khí cho nên ngọn đèn ấy mờ tối đi
hoặc đã tắt ngấm từ lâu rồi. Bây giờ, ta nương vào hơi thở để trở về với ta.
Thở vào biết ta đang thở vào
Thở ra biết ta đang thở ra.
Thở mà
biết ta đang thở, có sự chú ý, có ý thức tới hơi thở thì ngọn đèn tâm bừng sáng
liền. Như vậy, hơi thở ý thức là một nhiên liệu mầu nhiệm cho ngọn đèn tâm. Ta
còn có biết bao nhiêu nguồn nhiên liệu khác nữa như bước chân tỉnh thức, tĩnh
tọa, lạy Bụt, tụng kinh, ăn cơm, uống nước… Nhiên liệu nào có khả năng thắp lên
cái biết, cái sáng suốt về thân thể, cảm thọ, tâm hành và sự sống đều là nhiên
liệu hữu dụng cho ngọn đèn tỉnh thức. Tóm lại, biết là ánh sáng và không biết
là bóng đêm.
Ngày xưa cha mẹ ông bà thường nhắc nhở các cô gái vừa mới lớn: “con gái phải có
ý tứ.” Ý tứ chính là sự cẩn thận trong cử chỉ và lời nói. Nhờ có ý tứ nên cô
gái mới biểu lộ được dáng dấp đoan trang và thùy mị. Nhìn vào cử chỉ của cô, ai
cũng yêu thích, nghe lời nói của cô, ai cũng đẹp lòng. Cho nên ta có thể định
nghĩa chánh niệm là có ý, có tứ. Ta biết rõ về cách đi đứng, nói cười và hành
động của ta. Bởi thế, một người mới vào chùa phải thực tập oai nghi và tế hạnh.
Ta học đi cho đẹp, đứng cho đoan trang, ngồi cho ngay thẳng, nói cho rõ ràng,
dễ thương… Còn nữa, ta còn chú ý cẩn thận tới hành động đóng cửa, mở cửa, đặt
dép, rửa tay, lạy Bụt... Đóng cửa, mở cửa phải nhẹ nhàng, chớ nên tạo ra tiếng
động. Bên cạnh ấy, ta còn phải nhớ tới thi kệ để đưa ta trở về với tỉnh thức.
“Mở
cửa nhìn pháp thân
đời
mầu nhiệm không cùng
lòng
dặn lòng tỉnh thức
dòng
nước tâm trong ngần.”[1]
Nếu
đưa tay xô cánh cửa tức là không thực tập oai nghi, không thở ý thức, không nhớ
tới thi kệ. Hành động ấy không có ý có tứ. Mở cửa như thế, có lúc cánh cửa sẽ
đập vào mặt người bạn tu đang đi ngoài hành lang. Người có ý tứ thường có khả
năng bảo vệ, che chở cho mình và những người chung quanh.
‘Ý tứ’ cũng có nghĩa biết được ý tưởng, suy tư và tình cảm. Chánh niệm là ánh
sáng giúp cho ta thấy được đường đi nẻo về của ý tưởng, suy tư và tình cảm.
Đang suy nghĩ thì ta biết rõ về nó. Nếu đó là suy nghĩ tiêu cực thì ta nhận
diện để đưa nó về với đường lành, nẻo đẹp. Còn nếu đó là suy nghĩ đẹp đẽ thì ta
hãy hân hoan và tiếp tục thắp sáng cho nó. Chánh tư duy cũng tùy thuộc vào
chánh niệm. Chánh niệm như ngọn đèn tụ điểm (spotlight) chiếu vào sân khấu của
tâm hành, suy tư và cảm thọ. Hễ tâm hành, suy tư, cảm thọ xuất hiện để trình
diễn trên sân khấu ý thức đều được chánh niệm soi sáng.
Tóm lại, chánh niệm là con voi chúa dẫn đầu cho chánh kiến, chánh tư duy, chánh
ngữ… Không có ngọn đèn tâm thì làm sao ta có được cái thấy trong sáng, suy tư
lành mạnh, lời nói xây dựng tin yêu.
Ngọn
lửa đốt cháy - Chánh
định
Chánh định là thắp lên ánh sáng của ngọn đèn chánh niệm, là sự tập trung tâm ý
vào một đối tượng, là ngọn lửa đốt cháy phiền muộn, là năng lượng của sức mạnh
tâm linh. Duy trì chánh niệm càng lâu thì chánh định càng mạnh. Ánh sáng này
soi chiếu vào tự tâm và sự sống. Nhờ thế, ta sẽ hiểu được bản chất của các pháp
một cách rõ ràng mà không còn bị lệch lạc và sai lầm nữa.
Một hơi thở chánh niệm làm ra một hơi thở chánh định, mười hơi thở ý thức sáng
suốt làm thành mười hơi thở chánh định... Thở vào biết ta đang thở vào, thở ra
biết ta đang thở ra thì chánh định được thắp lên liền. “Biết rõ ràng ‘ta đang thở” tức là tâm an định trở lại. Uống một
ly trà nóng mà biết rõ ràng ta đang uống ly trà và nếm được hương vị thơm ngon
của nó thì ánh sáng chánh định bừng sáng lên. Do đó, ánh sáng chánh định là
chiều dài của chánh niệm. Chánh niệm tắt thì chánh định cũng tan biến luôn,
nghĩa là tâm ta trở về với trạng thái bất định hoặc tán loạn. Chính tâm trạng
này đưa tới biết bao nhiêu là vấn đề hiểu lầm, phiền muộn và khổ đau. Cho nên
ta có thể nói rằng chánh định có công năng tạo ra an ổn, hiểu biết, thương yêu,
và ngược lại tán loạn đưa tới sự bất an, hiểu lầm và thù hận.
Chánh định cũng có nghĩa là sự chuyên chú, sự tập trung tâm ý vào một đối tượng
nào đó. Có hai loại chuyên chú. Chuyên chú đầu tiên là “có mặt” bây giờ và ở đây. Ta tiếp xúc được với
sự sống đang xảy ra trước mặt trong giây phút hiện tại. Tâm ta chú ý vào cái
đang xảy ra hoặc việc đang làm như bước chân, hơi thở, ăn cơm, uống nước, rửa
chén, lau nhà… Loại chuyên chú này không cần phải ngồi trong tư thế hoa sen mới
có được. Đi, đứng, nằm, ngồi, lau chùi, dọn dẹp trong chánh niệm là đã có chánh
định rồi. Sự tập trung này là sự tỉnh thức trong đời sống hàng ngày. Do đó, ta
có thể áp dụng chánh định trong bất cứ trường hợp nào. Đánh răng cũng có chánh
định, uống nước cũng tập trung được, quét nhà cũng an trú được… Nhờ vậy, ta có
cơ hội tiếp xúc với sự sống trong mọi hành động, nếm được niềm vui, hạnh phúc
và cảm nhận được sự mầu nhiệm, tươi mát và lành mạnh của trời đất bao la.
Chuyên chú thứ hai là tâm ta duy trì trên một đối tượng duy nhất mà trong kinh
gọi là ‘tâm nhất cảnh’.
Ngồi thiền ta chú ý thường xuyên tới hơi thở thì hơi thở là đối tượng của định.
Cho dù, có bao nhiêu suy tư, cảm thọ và tâm hành xuất hiện, ta cũng chú ý tới
hơi thở. Nhờ thế, ta không bị những suy tư, cảm thọ và tâm hành lôi cuốn theo.
Cảm thọ đau nhức có đó nhưng hơi thở ý thức cũng có mặt để ôm ấp và nhận diện
cảm thọ đau nhức. Lúc đó, ta vẫn còn duy trì được chánh định như thường. Đi
thiền hành ngoài trời, ta chú ý hoàn toàn vào bước chân. Ta cảm nhận được sự
xúc tiếp giữa bàn chân với mặt đất. Ta biết ta đang dẫm trên mặt đất thân yêu
này từng bước chân an lạc và thảnh thơi. Tâm ta có mặt thật sự trên mỗi bước
chân thì lúc ấy chánh định vẫn còn bừng sáng.
Chánh định là lửa tam muội có công năng đốt cháy phiền não. Mấy mươi năm về
trước khoa học đã sáng chế ra được tia điện ‘lazer’ có công năng chiếu xuyên
qua hoặc cắt đứt bất cứ vật thể cứng ngắt nào. Tia lazer là gì? Nó là ánh sáng
được tập trung trở lại thành một khối năng lượng. Nhà khoa học, đốt nóng ánh sáng
lên một mức độ rất cao hoặc làm lạnh lại dưới âm 273.15 độ C. Những quang tử
(photon) bị kích thích mạnh mẻ tới độ tất cả chúng nó đều hoạt động như nhau và
cùng một tốc độ (one phase). Vì ánh sáng bị kính thích mạnh nên vận tốc của
những hạt quang tử trở nên cực kỳ nhanh chóng. Từ đó, nhà khoa học cho ánh sáng
này xuyên qua vùng ánh sáng bình thường khác bằng một kẻ hở rất nhỏ bé. Do hai
sức ép và nhiệp độ của hai vùng ánh sáng khác nhau, cho nên các quang tử bị
kích thích do làm lạnh hoặc đốt nóng ào ạt dồn qua kẻ hở tạo thành một tia ánh
sáng cực kỳ mãnh liệt. Gọi là tia lazer. Chánh định chính là sức mạnh tâm linh
có thể ví như sức mạnh của ‘tia lazer’. Đang buồn khổ, chánh định chiếu vào thì
nỗi buồn mất hết hiệu lực và tan biến liền. Đang ham muốn, chánh định thắp lên
thì nó có khả năng đốt cháy năng lượng ham muốn liền.
Có định là có tuệ giác, tức là cái thấy sâu
sắc. Taa thấy về thân thể, tâm ý, cảm thọ, suy tư, nỗi buồn, niềm vui và sự
sống chung quanh. Ta tiếp xúc được với trời xanh, mây trắng, bông hoa nhỏ bé
đứng lặng yên bên hàng dậu thật mầu nhiệm. Uống ly nước mát, ta nếm được vị
ngọt lịm của nó. Đồng thời, ta tiếp xúc được với đám mây thong dong trên bầu
trời xanh, con suối hát ca trên đỉnh núi cao, nguồn mạch thì thầm trong lòng đất
sâu. Cái nhìn của ta vượt thoát ngoài không gian và thời gian. Cho nên các pháp
hiển bày nguyên vẹn bản chất uyên nguyên của nó. Đó là cái nhìn của chánh định,
con mắt trí tuệ.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét