Từ lâu, người ta
nhìn vào Đạo Phật như là một đạo xuất thế và những người tu sĩ của Đạo Phật như
là những người xa lánh cõi trần tục, sống trong am tự ở những nơi yên tịnh vắng
vẻ để lo hành việc đạo, sống một đời đạo hạnh, không vương vấn cuộc đời. Đôi khi
người ta coi am tự như là những nơi để những người buồn chán, thất thời lỡ vận
từ bỏ đời sống bình thường nương tựa như thế gian có câu: “Tu là cỗi phúc, tình
là dây oan”! Chính vì thế mà người ta nhìn Đạo Phật như là tiêu cực đối với xã
hội trong những thời gian dài, mặc dù trong lịch sử nước ta Đạo Phật có những
thời kỳ nhập thế và những triều đại ấy thật là huy hoàng. Điều ấy được chứng
minh qua hai triều đại Lý, Trần. Nhưng sự thực thì Đạo Phật là đạo Xuất Thế hay
Nhập Thế?
Đạo
Phật chính ra là một đạo nhập thế. Vì nếu không nhập thế thì làm sao nó làm
nhiệm vụ giáo hóa chúng sinh cho được. Ngay cả Đức Phật cũng phải nhập thế hơn
45 năm ròng rả để thuyết giảng, Ngài chỉ bỏ hơn 6 năm xuất thế để tu tập tìm
con đường đạo, và khi đã “ngộ đạo” tìm được con đường cứu khổ và giải thoát
khỏi luân hồi cho chúng sinh, Ngài đã hoàn toàn nhập thế, lặn lội từ nơi này
đến nơi khác để truyền bá con đường ấy cho chúng sinh, mà chỉ mong chúng sinh
“Ngộ, Nhập tri kiến Phật” và chỉ cho chúng sinh biết rằng mình có Phật tánh là
hạt nhân để mình có thể trở thành Bậc Giác Ngộ và thoát hỏi Luân Hồi. Nhưng
điều quan trọng vẫn là do chính người đó muốn được giải thoát, tự tu tập theo
con đường mà Đức Phật hướng dẫn theo chính kinh nghiệm của Ngài hay không?
Theo
như vậy, chúng ta không thể nói rằng Đạo Phật là Đạo Xuất Thế. Sở dĩ, người ta
hiểu lầm hay hiểu không đúng tại vì họ và chúng ta chưa quán triệt được trong
tư tưởng của chúng ta mà thôi! Chúng tôi không phải nói ngoa! Mà đó chính là
một sự thật! Mà sự thật đó người ta không thể ngờ tới!
Có lần
chúng tôi đã phân tích và nói về vấn đề con người trên con đường giải thoát
(Bài: “Con Người Trong Đạo Phật” đăng trong trang nhà Đạo Phật Ngày Nay vào
tháng 11/2008 ở Phiên bản cũ). Con người là chúng sinh đang ở cuối điểm con đường
giải thoát, và được làm con người rất là quan trọng. Tuy nhiên vì con người
không nhận thức được vai trò, vị trí của mình nên thường lo lắng, e ngại, hay
thiếu lòng tin, mà không có hay chẳng vững lòng tin để tu. Vì vậy mà người ta
sống theo sự ham muốn đầy đủ tham, sân, si của mình để gây nghiệp tiếp tục và
rồi lại trôi theo dòng nghiệp, và vay trả trả vay!
Theo
như Kinh điển đã đề cập đến trong Lục đạo Luân Hồi thì được làm con người ở cõi
Nam Diêm Phù Đề này rất là quan trọng (nhân thân nan đắc). Tại sao như thế? Vì
các chúng sinh cõi khác như địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, A-tu-la, và các cõi
trời đều tu không thể thành Phật, bởi vì các cõi ấy không có Phật pháp. Phật
pháp chỉ có ở cõi Nam Diêm Phù Đề, do đó mà các chúng sinh khác muốn tu thành
Phật phải “tái sinh” làm người trong cõi của chúng ta mà thôi! Cho nên, làm con
người trong cõi đầy đau khổ này không phải là dễ, cũng là có nhiều phước đức
mới đi đến đoạn cuối của vòng Luân hồi, và giống như chúng ta đang đứng tại cửa
ra mà chúng ta không biết! Chúng ta chỉ cần mở cánh cửa ra là chúng ta sẽ thoát
được ra ngoài, ra ngoài cõi sinh tử!
Ở Kinh
Duy Ma, phẩm Phương Tiện, Thiên Thai sớ có ghi:
“Nói
Tám nạn thì Thứ nhất là Địa ngục, Thứ hai là Ngã quỉ; Thứ ba là Súc sinh; Thứ
tư là Bắc Uất Đan Việt tức là người ở châu Bắc Câu Lư sống sung sướng nên không
ham tu học. Thứ năm là Trường Thọ Thiên; người ở đây không có tâm tưởng nên
không tu học được. Thứ sáu là đui điếc câm ngọng. Thứ bảy là thế trí biện
thông, cậy mình thông biện, theo đòi thế sự nên không tu học. Thứ tám là sinh
vào thời trước Phật, sau Phật” (Trích “Bát
nạn” từ “Từ Điển Phật Học Hán Việt” của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam, do Nhà
Xuất Bản Khoa Học Xã Hội xuất bản)
Chúng
ta được sinh ra trong thế giới này, mà chúng ta không phải bị “câm, ngọng, đui,
điếc” tức là chúng ta thoát được sáu nạn; và mặc dù chúng ta sinh sau Phật
nhưng chúng ta được tiếp cận với Phật pháp thì với “tám nạn” ấy chúng ta cũng
được coi như là thoát nạn. Thế thì chúng ta chỉ còn biết cách tu để đạt được
đạo mà thôi!
Thông
thường, người ta cứ nghĩ người được phước báo, giàu sang, sung sướng là những
người tu nhân, tích đức bây giờ mới hưởng phước. Nhưng trong con đường để giải
thoát, thì những người giàu sang, sung sướng, hạnh phúc.. họ lại hay quên lãng
tìm cho mình con đường giải thoát; mà những con người thường xuyên đau khổ,
thiếu thốn dằn vặt, ưu tư về nội tâm.. lại là những người dễ có cơ duyên “thành
đạo” hơn vì với những “Phiền
Não”họ dễ dàng “không vướng mắt” về ngoại cảnh, và họ có trạng thái giống
như một người “đang hành thiền”, và họ lại quyết tâm hơn, vì thế họ dễ chứng
nghiệm “Thị Bồ Đề”!
Theo
như vậy, làm con người mới có nhiều cơ duyên để tu và tìm được cho mình con
đường giải thoát. Nhưng tại sao người tu thì ít, người không tu thì nhiều? Nếu
nói về cơ duyên và nhân quả thì duyên của họ chưa đến; vả lại, thế giới này
cũng có nhiều ma như trong Kinh Lăng Nghiêm Đức Phật đã cảnh báo:
“Bởi
các loài ma kia thấy người tu hành, sanh tâm lo sợ cho bà con quyến thuộc của
chúng sẽ tiêu diệt, nên chúng dùng đủ thần lực đến nhiễu hại người tu. Chúng
cũng đủ năm phép thần thông biến hóa chỉ chưa được Lậu Tận Thông” (Phật Học Phổ Thông, H.T Thích Thiện Hoa, khóa VI-VII,
trang 270).
Chính
vì thế mà trong cuộc sống nhiều lẫn lộn này, thế giới ma đã bày ra nhiều ma
chướng, thú vui, để lôi cuốn con người vào những thú vui, sắc dục, vật chất..
khích động lòng tham, xúi giục nỗi sân để rồi con người trở nên si mê mà vương
vào các tội thuộc sát, đạo, dâm, vọng để từ đó con người phải vướng vào nghiệp
mà không thể thoát ra được ngoài vòng luân hồi và chịu loài ma lôi cuốn mãi
trong cuộc chơi của chúng. Chúng cũng không những quấy rối, lôi cuốn trong thế
giới con người, mà ngay cả những người tu hành nữa: Đó là những người tưởng
chừng như “ngộ đạo” nhưng thực ra đã bị loài ma hướng dẫn vào những ma đạo,
tiếp sức cho ma để quyến rũ con người không thể thoát ra được vòng luân hồi và
sự kiềm tỏa của chúng ma. Điều đó ta có thể thấy nhiều người tu tự xưng mình là
chứng ngộ, là bạn, là con, là tiên tri, là sứ giả của Đấng Tối Cao nào đó,
nhưng trên thực tế tôn giáo của họ là những tôn giáo đưa đến sự chém giết khủng
khiếp cho nhân loại, hoặc dùng sự hào nhoáng bề ngoài để dễ dàng thu hút, dụ
dỗ, lôi cuốn nhằm khống chế con người trong vòng ảnh hưởng của chúng! Con
người, chúng sinh trong thế giới này, trong điểm đích cuối cùng của vòng luân
hồi phải chịu nhiều thử thách cam go mới có thể vượt ra được giống như cái cảnh
cá vượt “Vũ Môn” để hóa thành rồng; nhưng không mấy con cá Lý Ngư sẽ hóa thành
rồng!
Lại có
điều khác quan trọng trong quan niệm, ý tưởng hay suy nghĩ: Người ta thường suy
tưởng tu rất khó và nhất là được nghe kể cần rất nhiều kiếp tu mới thành Phật,
cho nên đa số họ đã không nghĩ đến tu và không nghĩ là mình đang ở vị trí “sắp
thành”, nên họ đã buông trôi dòng đời, mặc ra sao thì ra. Chỉ cần những sai lầm
hay những phút giây tạo nghiệp, họ phải luân hồi trở lại bao nhiêu kiếp và
không biết đến bao giờ họ lại trở lại làm con người ở cõi Nam Diêm Phù Đề để
được tu hành mà giải thoát! Không những thế người ta cứ nghĩ tu là phải xuất
gia, sống trong giới luật mới là tu hay ít ra cũng là cư sĩ. Nhưng tu trong đạo
Phật, đâu phải là chỉ có thế: Tu là để không gây nhân xấu nữa, tích chứa những
nhân thiện đến khi nào trong túi A-Lại-Da-Thức không còn nhân để gây nên quả
xấu nữa thì sự Luân Hồi cũng chấm dứt vì đâu còn nhân xấu mà phải trả quả ở các
kiếp sau! Không cần đến kiếp sau nữa thì làm gì để có Luân Hồi. Chỉ trừ một
việc là trong lúc sống chúng ta tha thiết với một việc hay điều gì “quá luyến
lưu” mà ta ước nguyện quay trở lại thì lúc đó thay vì rời được dòng nước chúng
ta lại “tự nguyện” quay trở lại với dòng nước!
Cũng
vì quan niệm tu rất khó để thành Phật ấy, cho nên người ta trở nên ít tu và
trong lối tu của họ không tìm thấy sự sáng sủa “gần kề”, mà chỉ thấy một sự “xa
vời” nào đó. Từ đó, người ta cứ bắt chước con đường đi tìm đạo như Đức Phật,
sống theo cách của Đức Phật lúc mới đi tìm đạo để mong rằng trong một lúc nào
đó họ được ngộ đạo để thành Phật: Làm một vị Bích Chi hay Độc Giác Phật. Nhưng
Đức Phật đã tìm được Chân Lý và tuyên xưng Chân lý ấy từ lâu rồi kia mà! Sống
và tu hành như cung cách của Đức Phật ngày xưa cũng tốt vì cái Ngã của mình
được lắng xuống: Mình cảm thấy mình sống còn nhờ vào bá tánh, có thể mình còn
bị phỉ báng thì sự nhẫn nhục của mình trở nên cần thiết để mình tu tập được tốt
hơn. Tu theo Tiểu thừa thì được thanh tịnh, nhưng khi tiếp xúc với đại chúng
thì có thể có những khó khăn xảy ra vì có thể bị dòng đời lôi cuốn, hoặc cái
Tâm phân biệt: Ngã, Nhân, Chúng sinh và Thọ giả hãy còn tồn tại vì không phân
biệt, “biết” một cách rõ ràng nên còn vướng mắc vào “Cái Tâm phân biệt” đó! Còn
có thể do thời tiết, hoàn cảnh, quan niệm hay tập tục mà sản sinh ra phái Đại
Thừa, các tu sĩ ở trong các am tự, không còn đi khất thực nữa, mà bá tánh đến
chùa để lễ hội hay tu tập. Từ sự được bá tánh cung phụng, đôi khi được cúng
dường nữa nên cái quan niệm về “Ngã”, quan niệm về “Nhẫn”, và về “Cái Chùa của
Ta” đã giới hạn ở “Lý Tưởng” của người tu sĩ, tất nhiên sẽ lôi cuốn theo cách
hành đạo cũng có khác đi!
Đức
Phật đã thuyết nhiều “Bộ Kinh” khác nhau tùy theo căn duyên của chúng sinh, và
tùy theo căn duyên mà chúng sinh ấy chọn con đường tu tập; dù Đại Thừa hay Tiểu
Thừa cũng đều hướng tới lý tưởng “Thành Đạo”, trở thành người Giác Ngộ thì
không nhất thiết đường lối tu của ta hay hay đường lối tu của người là dở.
Nhưng, điều quan trọng là người tu tu có đi đúng hướng hay không, tu trong căn
bản nào: “Dứt trừ vọng tưởng và tâm phân biệt” hay lấy căn bản “Sinh tử, vọng
tưởng, tâm phân biệt” để làm mục đích?
Do vì
không tìm thấy căn bản mà người tu không quyết tâm để tu, mà còn khen chê đường
lối này đường lối kia. Và vì không thấy “vị trí của con người” trong thế giới
này quan trọng như thế nào nên người thế gian lại chẳng màng đến việc “tu sửa”.
Lại thêm cứ ngỡ tu để thành Phật rất khó và không biết bao nhiêu kiếp và đến
bao giờ, mà người ta lại thờ ơ với việc “giải thoát khỏi vòng Luân Hồi” để rồi
người ta gia nhập vào những phương tiện thấy như là dễ dàng, con đường hào
nhoáng, dáng vẻ bên ngoài do “ma” đã lập thành để lôi cuốn con người đi vòng
vòng mãi trong Luân Hồi mà chúng sinh không thể ngờ tới!
Lại
nữa, thế gian cứ ngỡ “Tu để thành Phật rất khó và lâu dài” mà không hề nghĩ
rằng “Được làm con người sinh ở thế giới Nam Diêm Phù Đề này đã phải tốn biết
bao nhiêu là kiếp, hay là vô lượng kiếp cũng không chừng!”; Và “mình không bị
câm, ngọng, đui, điếc mà còn có tiếp xúc với Phật pháp” là mình đã thoát được
“Tám nạn” rồi!. Vậy thì: Bồ Tát, A La hán đối với mình đâu có xa. Thế mà tại
sao chúng ta lại thờ ơ?
Người
tu sĩ Phật giáo thì cứ nghĩ mình tu cho mình, mình cố gắng hoàn thiện để mình
được giải thoát. Họ lại nghĩ “mình còn lâu lắm mới thành Phật”, nhưng họ lại
không bao giờ nghĩ rằng họ đang lột xác để trở thành A La Hán, hay Bồ Tát; và
họ cũng cứ nghĩ họ vẫn mãi là chúng sinh, để rồi họ đôi khi thối chí để trở ra
vương vấn cuộc đời. Được có thân người là khó, được làm người lành lặn là khó,
được tiếp thu Phật pháp cũng là khó; được thâm nhập vào giáo pháp lại càng khó
hơn! Thế tại sao chúng ta chỉ cần bước thêm một bước chân nữa để thoát vòng
Luân Hồi mà chúng ta không bước để rồi lại còn e dè mà quay trở lại? Điều này
những tu sĩ nào chưa đủ tín tâm cần nên suy nghĩ! Đi đúng trên con đường Chân Lý
mà hãy còn lưỡng lự, e dè, chắc đợi ma quỷ đưa đường dẫn lối để đi vào đường
“Ma” thì mới cam ư? Cứ đi vòng vòng trong cõi Luân Hồi mà không biết đến bao
giờ thoát ra được, họ mới chịu đấy sao?!
Đức
Phật sau sáu năm đi tìm đạo không thành, với lời nguyện sau cùng và 49 ngày sau
Ngài đã tìm thấy “Đạo”. Và với hành trình nhập thế trong hơn 45 năm, Ngài để
lại giáo pháp cho đời sau làm “Kim Chỉ Nam” để chúng sinh vượt thoát vòng khổ
đau. Thế mà chúng sinh vẫn còn chưa tự tin mình sẽ thoát được vòng đau khổ mà
cứ đợi chờ “ma đưa lối, quỷ dẫn đường” để rồi họ cứ mãi là người khổ đau!
Thuở
xưa một A Nan “thệ tiên nhập” để giáo hóa chúng sinh; một Ngài Địa Tạng thệ
nguyện “Chưa độ hết chúng sinh trong địa ngục, thệ không thành Phật”; một Ngài
Quán Thế Âm Bồ Tát “tầm thinh cứu khổ, cứu nạn” với bất cứ hóa thân nào; và còn
biết bao nhiêu Đại Nguyện khác của các vị Bồ Tát và Phật, chẳng có Đại Nguyện
nào để xa lìa chúng sinh cả. Vậy thì, Đạo Phật sao gọi là Xuất Thế?
Chúng
ta cũng cần quán triệt được quan niệm và vấn đề để chọn cho mình con đường tu
đúng và thích hợp trong từng thời kỳ. Nhưng hội nhập để giáo hóa chúng sinh, để
truyền bá Phật pháp nối tiếp con đường của Đấng Như Lai trước kia, và cứu khổ
cứu nạn, đem lại sự vững lòng tin cho chúng sinh trên con đường giải thoát; làm
cho cõi Ta Bà này trở nên Thiện, Mỹ hơn chứ không như các tôn giáo của Ma, quỷ
đem chém giết hận thù để lôi cuốn chúng sinh quay trở lại vòng Luân Hồi! Chúng
ta hãy cùng nhau suy nghĩ và tiến lên phía trước với đầy lòng tin của những người
con Phật, nhưng “hòa nhập, chứ đừng để hòa tan”. Chúng ta hãy cũng như những
tượng Phật ngồi trầm lặng nhưng thừa Bi, Trí, Dũng ẩn hiện trong dáng dấp trầm
ngâm đó; ngồi trầm ngâm mà hiểu rõ mọi vấn đề qua Lục Thần Thông, nhất là với
Lậu Tận Thông! Nhập Thế để giáo hóa cuộc đời và chúng sinh! Nhiệm vụ vĩ đại ấy
không bao giờ ngừng nghỉ! Cứ tiến lên và thẳng tiến về phía trước!
Nguyên
Thảo,
30/01/2011,
cuối năm Canh Dần.


01:57
ĐẠO PHẬT CHÂN CHÍNH
Posted in:

0 nhận xét:
Đăng nhận xét