Là một Tín Đồ của
Phật Giáo, việc đầu tiên trong cách Hành Trì là Phục Vụ, đây là con đường hết
sức thực tiễn. Tuân thủ theo việc làm này cũng là hướng đến Niết Bàn Giải
Thoát. Mà cái gọi là Đạo, một nữa nói là Tứ Thánh Đế bao gồm cả Bát Chánh Đạo.
Nhưng sự thật Đạo, cũng bao gồm cả 37 Phẩm Trợ Đạo. Tứ Niệm Xứ là phần đầu tiên
của 7 phần trong 37 Phẩm Trợ Đạo.
Giáo
lý Duyên Khởi mà Đức Phật Chứng Ngộ tại dưới gốc Bồ Đề, cũng chính là giáo lý
căn bản của Phật Giáo. Pháp Duyên Khởi không phải là do Đức Phật sáng tạo hoặc
chế định, mà là do Ngài Chứng Ngộ. Chân Lý của Vũ Trụ Thế Gian là「Pháp Nhĩ Như
Thị」. Đức Phật lấy Pháp làm Thân, bởi vậy trong Kinh「Liễu Bổn Sanh Tử」Ngài có
dạy: 若比丘見緣起 即是見法 若正見於法 則是見我 nếu Tỳ Kheo thấy Duyên Khởi, tức là thấy Pháp, nếu
chân chánh thấy Pháp, tức là thấy Ta(Phật)
Nhưng
sau khi Đức Phật Chứng Ngộ, Ngài Sơ Chuyển Pháp Luân tại Vườn Lộc Uyển độ năm
anh em Kiều Trần Như, Ngài không nói Pháp Duyên Khởi mà lại nói Tứ Thánh Đế. Vậy
tại sao Đức Phật đối truớc năm anh em Kiều Trần Như không nói Duyên Khởi mà nói
Tứ Thánh Đế ? Đức Phật nói:『Pháp Duyên Khởi rất là Thậm Thâm』. Duyên Khởi
Pháp là diệu lý của「Tối ư của sự sâu xa, tối ư của sự vi diệu, rất khó thông
đạt đến」. Phần đông chúng ta chưa hiểu rõ một cách triệt để. Đức Phật Ngài quán
căn cơ mà thuyết giáo, lấy Duyên Khởi Pháp tổ chức một cách thứ tự, lấy Khổ Tập
Diệt Đạo của Tứ Thánh Đế để biểu đạt. Bởi vậy, Đức Phật khi Sơ Chuyển Pháp Luân
Ngài không nói Duyên Khởi mà nói Tứ Thánh Đế. Tức cái gọi là「Khổ này nên Biết,
Tập này nên Đoạn, Diệt này nên Chứng, Đạo này nên Tu」lúc Đức Phật còn trụ thế,
Ngài khuyên các đệ tử siêng năng học tập Tứ Thánh Đế. Nếu như chân chánh lý
giải về Tứ Thánh Đế, do thực tiễn Bát Chánh Đạo thì có thể kiến lập Giải Thoát
Tri Kiến của quả vị A La Hán.
Sự
thật, Tứ Thánh Đế vẫn là Duyên Khởi. Khổ Tập là Lưu Chuyển Duyên Khởi, Diệt Đạo
là Hoàn Diệt Duyên Khởi. Mà thực tiễn của Bát Chánh Đạo là con đường thông đến
Niết Bàn. Đức Phật dạy các đệ tử, không chỉ là Tri mà quan trọng là Hành, đó
mới là thực tiễn của Bát Chánh Đạo. Bởi vậy, thời đại Nguyên Thỉ Phật Giáo, các
vị Tỳ Kheo trong Tăng Đoàn chỉ có Tam Y Nhất Bát, ăn một ngày một buổi, ngủ
dưới gốc cây chỉ một đêm. Đây là không để cho vật chất làm hệ lị mà chuyên tâm
tu đạo. Trong Thánh Điển của Phật Giáo Nguyên Thỉ, lấy chổ bất đồng trong
Phương Thức ra thảo luận thực tế, tức Phương Pháp trong Tu Tập, đến thời đại
của Bộ Phái Phật Giáo sau này, việc Tu Tập của Tỳ Kheo vẫn theo nếp cũ của một
vài phương pháp, gộp lại hoàn chỉnh rồi tổ chức thành 37 Phẩm Trợ Đạo.
37
Phẩm Trợ Đạo.phân thành 7 phần: một là Tứ Niệm Xứ, hai Là Tứ Chánh Cần, ba là
Tứ Như Ý Túc , bốn là Ngũ Căn, năm là Ngũ Lực, sáu là Thất Bồ Đề Phần, bảy là
Bát Chánh Đạo Phần. Trong 7 phần trên đây tổng hợp lại thành 37 Phẩm Trợ Đạo.
Nhưng trong bảy phần này, mỗi phần đều có những Pháp Môn Tu Tập không đồng
nhau. Đức Phật, Ngài dựa vào Căn Cơ bất đồng của các đệ tử mà khai thị bất đồng
về Pháp Môn. Cho nên, trong lúc Tu Tập, quyết không phải là thực tiễn toàn bộ
của 37 Phẩm Trợ Đạo, mà chỉ là mỗi phân hệ khác nhau. Tứ Niệm Xứ, tức một phần
trong bảy phần của 37 Phẩm Trợ Đạo.
Trong
Kinh Tạp A Hàm Đức Phật nói về Tứ Niệm Xứ như sau :「Tôi nghe như vậy: Một thuở
nọ Đức Phật ở tại rừng Kỳ Thọ của Trưởng Giả Cấp Cô Độc, nước Xá Vệ. Bấy giờ
Thế Tôn nói với các vị Tỳ Kheo rằng: có Tứ Niệm Xứ, sao gọi là bốn: Vị Thân
Thân Quán Niệm Xứ, Thọ Tâm Pháp Pháp Quán Niệm Xứ. Này các Tỳ Kheo, đây gọi là
Tứ Niệm Xứ. Tu Tập đầy đủ, Tinh Tấn nổ lực, Chánh Niệm, Chánh Tri phải nên học.
Phật nói Kinh này xong, các vị Tỳ Kheo lắng nghe và hoan hỷ phụng hành」cũng
trong Kinh Tạp A Hàm, Đức Phật Ngài xưng Tứ Niệm Xứ là: Nhất Thừa Đạo. Tôi nghe
như vầy, một thuở nọ Đức Phật ở tại rừng Kỳ Thọ của Trưởng Giả Cấp Cô Độc, nước
Xá Vệ. Bấy giờ Thế Tôn nói với các vị Tỳ Kheo rằng: Có một con đường(Nhất Thừa
Đạo)nhiếp tất cả Chúng Sanh, diệt trừ ưu bi khổ não, chứng như thật pháp. Cái
gọi là Tứ Niệm Xứ đó, sao gọi là bốn: Thân Thân Quán Niệm Xứ, Thọ Tâm Pháp Pháp
Quán Niệm Xứ . Phật nói Kinh này xong, các vị Tỳ Kheo lắng nghe và hoan hỷ
phụng hành. Cái gọi là Nhất Thừa, tức là chỉ nương vào pháp tu hành mới có thể
Chứng Đạo. Trong Kinh Tứ Niệm Xứ, Đức Phật nói tu Tứ Niệm Xứ có thể đoạn trừ
Phiền Não Kiết Sử. Lời dịch của một đoạn Kinh dưới đây có nói: Này các vị tỳ
kheo: Ví như Người Tu Hành muốn tịnh hóa Chúng Sanh, diệt trừ Ưu Bi Khổ Não,
thực hành Chánh Đạo mà chứng Niết Bàn, đây là Con Đường Duy Nhất, cũng gọi là
Tứ Niệm Xứ. Nội dung của Tứ Niệm Xứ được thuyết minh như sau:
1.
Thân Niệm Xứ: còn gọi là Thân Niệm Trụ, tức là quán tự tướng của Thân là bất
tịnh, đồng thời quán các tướng của Thân là Vô Thường, Khổ, Không, Vô Ngã. lấy
Tịnh đối trị điên đảo.
2. Thọ
Niệm Xứ: còn gọi là Thọ Niệm Trụ, tức là quán nguyên nhân của Sanh Khổ là do
truy cầu Dục Lạc và quán các tướng Khổ, Không.v.v...lấy Lạc đối trị điên đảo.
3. Tâm
Niệm Xứ: còn gọi là Tâm Niệm Trụ, tức là quán Tâm năng cầu của Vô Thường Sanh
Diệt và quán các tướng khác. lấy Thường đối trị điên đảo.
4.
Pháp Niệm Xứ: còn gọi là Pháp Niệm Trụ, tức là quán tất cả pháp đều nương vào
Nhân Duyên mà Sanh Khởi, không có Tự Tánh và quán các tướng khác. lấy Ngã đối
trị điên đảo.
Căn
bản của Phàm Phu gồm có 4 loại điên đảo tri kiến: Thường điên đảo, Lạc điên đảo,
Ngã điên đảo, Tịnh điên đảo. Tức Phàm Phu không nhận rõ cái tướng Chân Thật của
cảnh giới mê muội. Lấy cái Vô Thường của Thế Gian chấp là Thường, lấy cái Khổ
chấp là Lạc, lấy cái Vô Ngã chấp là có Ngã, lấy cái Bất Tịnh chấp là Tịnh. Mà
tu quán về Tứ Niệm Xứ, tức là đang đối trị với bốn món điên đảo nói trên. Tu
quán về Tứ Niệm Xứ, tức là tập trung Tâm Ý lại một điểm, lấy sự phòng ngừa để
đối trị Vọng Tưởng Tạp Niệm sanh khởi làm phương pháp quán.
Người
tu Tứ Niệm Xứ, trước tiên là phải tùy lúc tự hiểu rõ trạng thái của tâm lý. Tức
là : 1. Tâm lý của chúng ta tập trung chuyên nhất, hay là tán loạn làm phiền
toái? 2. Tinh thần phải thoải mái, hay là hôn trầm mê ám? 3. tinh thần
thoải mái, hay là ở trong trạng thái căn thẳng? 4. Tâm của chúng ta xung mãn
rồi thì các thứ tham dục có khởi niệm không? 5. Tâm của chúng ta có khởi niệm
sân hận không? 6. tâm của chúng ta có Từ Bi, có quan tâm đến người khác
hay không? Chúng ta phải tùy thời quán chiếu nội tâm của chúng ta, đây gọi là
bước đầu của Tu Tập.
Trong
Kinh Niệm Xứ, Đức Phật có Khai Thị rằng: Này các Tỳ Kheo: một vị Tỳ Kheo nên
như thế nào để quán sát Tâm mình? Một vị Tỳ Kheo nên biết và hiểu rõ trong Tâm
của mình là có Dục hay là không có Dục, là có Sân hay là không có Sân, là có Si
hay là không có Si, là có Thúc Liễm hay là không có Thúc Liễm, là có Nhiệt
Huyết Tu Hành hay là không có Nhiệt Huyết Tu Hành, là có Tiến Bộ hay là không
có Tiến Bộ, là có Tập Trung hay là không có Tập Trung, là có Giải Thoát hay là
không có Giải Thoát? Các điều này các Ông nên quán xác cho rõ.
Tu
quán về Tứ Niệm Xứ, vẫn là lấy Giới Định Tuệ -Tam Học làm căn bản. Nếu như
không tu Tam Học, mà muốn làm một người quán thành tựu về Tứ Niệm Xứ, thì đó
cũng giống như dùng mòi gỗ mà câu Cá. Chúng ta là người Phàm Tục Học Phật, tuy
nhiên không thể giống như các bậc Thánh Xuất Gia y luật mà hành. Nhưng trên cơ
bản quy luật của cuộc sống, vẫn là cơ bản của việc tu hành. Như giữ gìn 5 Giới,
không thể chìm đắm trong Dục Lạc của Sắc Thinh Hương Vị Xúc. Tiến thêm một bước
nữa là hành Thập Thiện, tịnh hóa Thân Khẩu Ý của chúng ta. Nếu Tâm huân tập
những điều ham muốn, lợi mình tổn hại đến người khác, Tâm chứa đầy sân hận, kết
oán báo thù, ngu muội vô tri, làm việc điên đảo, tâm hồn luôn phiền não vô
an.v.v... Như thế, có thế gọi là tiến một bước trong Định sao?
Định
còn gọi là Tam Ma Đề, tuy nhiên để huấn luyện cho Hành Giả có tố chất Tu Tập, ở
bất kỳ tình huống nào cũng có thể dùng ý chí tập trung vào cảnh Định. Nhưng
người mới học Phật, chắc chắn phải có sự hướng dẫn của bậc Thiện Tri Thức, tuần
tự thâm nhập, nhất nhất không được quên tu luyện. Trong quá trình tu Định, cảnh
giới của nội chứng, không thể lấy Ngôn Ngữ Văn Tự của Thế Tục để thấu đạt, mà
là phải tu quán Tứ Niệm Xứ. Cũng có nghĩa là lấy cái Trí của Năng Quán, quán
cái Cảnh của Sở Quán, để đoạn trừ tri kiến điên đảo của Nhân Ngã.
Như
trên đã nói, chủ yếu là thuyết minh về lý luận của Tứ Niệm Xứ, đối với phương
pháp tu trì thì không thể thâm nhập. Thực tiễn của việc học Phật, cần phải tự
trang bị đầy đủ tư cách của một Hành Giả, không được có Tâm đố kỵ, ích kỷ. Chỉ
có Tâm mong cầu cho mọi người có thể thành Phật. Không được có Tâm hoài nghi,
sân hận, chỉ có Tâm mong cầu cho chúng sanh trong cõi Trời Người mau thành Phật
. nếu quý vị làm được như vây, thì thâm và tâm luôn an lạc. Đây không phải là
thực tiễn trong tu tập Tứ Niệm Xứ hay sao?
0 nhận xét:
Đăng nhận xét