Theo Phật giáo,
tất cả chúng sinh chỉ là những diễn trình ngũ uẩn danh sắc, trong đó, có sự
phối hợp của Sắc mạng quyền, Nam mạng quyền hay Nữ mạng quyền, chỉ là diễn
trình Nhân-Quả-Báo của nghiệp quá khứ mà thôi . Xét về mặt Tâm quán, thân Nữ
hay Nam, cũng là một ý niệm hay khái niệm hoặc chỉ là một phạm trù tồn tại
trong tâm thức . Khái niệm nam hay nữ gợi lên một vọng tưởng (tướng, biệt
tướng, cộng tướng) về hình sắc khác biệt, nó gợi lên căn bản Ái dục, mà đường
tâm lộ đã khoét sâu rãnh vào nội tâm, nên dục vọng sinh khởi…., hãy biết tất cả
là vọng niệm, vọng tâm, vô ngã … .
Theo
Abhidamma, nội tâm hay tâm thức con người bị chi phối bởi hai khuynh hướng cơ
bản : Ái (tanha) và Kiến (ditthi).
Ái ở
đây dịch từ chữ Tanha (Paly), là sự yêu thích bám giữ đối tượng, do vì đối
tượng mang lại thoả mãn giác quan, Ái cũng xuất phát từ trạng thái tinh thần
căn bản Tham muốn , nhưng ái vừa là nguyên nhân của nội tâm, vừa là mục đích
của hành vi .
Trong
tận thâm sâu nội tâm, ái là cái cách mà mọi hành vi xuất phát nghiêng về sự
dính mắc với cái “tôi” và “cái của tôi” , từ tôi mà ra, do tôi mà có, vì tôi mà
hành động, giống như bản năng sinh vật . Phạm trù này gần gũi với “ái kỷ”, là
Ngã ái. Khi Ngã ái bành trướng, phóng chiếu ra ngoài, con người yêu mến và dính
mắc cái hình bóng tương hợp với hình bóng trong tâm trí , điều này gần gũi với
“bản năng sinh tồn” của sinh học, nhưng bao quát hơn, vì con người có tư duy,
có văn hoá .
Từ
khuynh hướng chung nhất này, con người sẽ có hành vi thiên hướng về ba mục
đích. Kinh Chuyển Pháp Luân
nói : “Này các Tỳ Kheo, đây là Thánh Đế về nguồn gốc của Khổ : chính Khái Ái
này đã đưa đến tái sinh, kết hợp với dục tham, tìm thấy lạc thú khi thì chỗ
này, khi thì chỗ kia, đó là Dục ái, Hữu ái và Phi hữu ái”.
- Dục ái : là những yêu thích thuộc
về dục lạc giác quan, dục vọng trong nội tâm . Dục được dịch từ Karma
(Sanskrit), là bản năng dục vọng, đây là bản năng thuộc về tính sinh vật
nhiều .
- b. Hữu ái : là những yêu thích thuộc
về cái “tôi” , đây là sự yêu thích hình ảnh bản thân trong tâm trí, cái
tôi hàng ngày hiện hữu trong cảm nhận, đời này, đời nữa, là khát vọng tái
sinh . Phật giáo cũng gọi là Ngã ái.
- c. Phi-hữu ái : là khát vọng phi hữu, khát
vọng tiêu diệt “tự ngã” , không tái sinh của hàng sa môn . Đây cũng là
hình thức khát ái (của các sa môn), trói buộc họ vào vòng luân hồi .
Khi ái
dục dẫn dắt, thì hữu ái và phi hữu ái cùng tồn tại như là 3 tính chất của một
dòng sông Ái .
Trong
sinh giới, tiến hoá tự nhiên phải đi đến sự phân ly giới tính để bảo toàn ,
phát triển vốn gen và thúc đẩy sự tiến hoá của các chủng loài . Đây là một tiến trình của tự
nhiên và hoàn toàn vô ngã .
Hãy
xem xét con ngựa trời, khi đến tuổi phát dục, con cái tiết ra một pheromone dẫn
dụ, và con đực tự động lần theo dấu vết. Khi giao hợp, con cái đã ăn thịt hết
con đực, chỉ chừa lại bộ phận gieo tinh cho trứng mà thôi. Thiên nhiên đã cấu
tạo, bộ phận ấy vẫn sống độc lập cho đến khi hết tác dụng, và con cái tiếp tục
ăn phần còn lại cuối cùng này . Và việc giữ gìn vốn gen này vẫn lập lại suốt
hàng tỷ năm qua, không con bọ đực nào thoát được .
Hãy
xem xét con heo, khi con cái động dục, nó tiết ra hormone làm heo đực biết mà
giao hợp. Trong bầy dê, con dê đực tự động giao hợp với con cái nào có hormone
. Loài linh trưởng vẫn thế . Như vậy, Dục
tính loài vật là một năng lực có tính điều khiển tự động, con vật không thể nào
vùng vẫy thoát ra được .
Bản năng dục vọng ấy, đến thời gian nào đó, sẽ được khơi dậy, có thể theo chu
kỳ hoặc không, để con vật đi đến mục đích, bằng một hệ thống sinh hoá trong nội
dịch cơ thể do một trật tự thiết lập sẵn trong hệ di truyền, để bảo toàn vốn
gen .
Con
người cũng không thoát khỏi qui luật thiên nhiên này, nhưng do con người đã
tiến hoá cao, nên có thêm phần tư duy cho bản năng này . Tư duy ấy lệ thuộc vào
nền văn minh, phong hoá nơi con người sống :
Bản năng dục vọng |
Ái dục nơi loài người |
Nền văn minh, phong hoá |
Theo thời gian sinh trưởng |
Theo hệ thống chuẩn mực xã hội, theo hệ thống tổ chức thân tộc học . 5 |
Dục
tính thực sự là công việc trao truyền vốn gen (genofund) , là một khuynh hướng
của tự nhiên, ngay đến loài cây cỏ cũng có phấn hoa và nhuỵ cái , đó là một
thực tại như nó là, nhưng đối với loài người có tư duy, thì tư duy về nó lại là
việc khác .
Nếu bản
năng ái dục + Tư duy về ái dục (Phi Như lý Tác ý) và
Tà tư duy (Tư tâm sở), thì con người sẽ xuôi theo khuynh hướng ái dục .
Nếu sử
dụng Chánh tư duy (Như lý Tác ý) + Chánh Tri Kiến, thì hành giả sẽ đi
từng bước cheo leo bên bờ vực khát ái cho đến khi Thắng trí và Tuệ giác phát
sinh, thì sẽ đạt đến bến bờ Vô Ái Dục . Dưới bờ vực ấy, đã có biết bao
nhiêu người đã ngã xuống, bị cuốn trôi theo dòng sông của bản năng ái dục, sông nào bằng sông ái – PC .
Ngày
xưa, Đức Phật nói rõ : “Này
Bà-tất-tra, những điều trước kia người ta cho là quấy, thì bây giờ người ta cho
là phải. Rồi
chúng sanh kia tập quen với phi pháp, mặc tình buông thả theo tình dục, không
kể gì thời tiết. Rồi vì sự hổ thẹn mới tạo lập phòng xá và từ đó thế gian khởi
đầu có phòng xá. Đùa quen với điều quấy, dâm dục ngày càng tăng lên, mới có bào
thai sanh ra từ bất tịnh, và thế gian mới bắt đầu có bào thai vậy.”
A
Hàm - Kinh Tiểu Duyên .
Những
khảo sát gần đây cho thấy sự thức tỉnh tình dục ở loài người đã sớm hơn ngày
xưa rất nhiều, những nhà khoa học đã cho rằng, vì khoa học dinh dưỡng đã tiến
bộ nhiều, sự phát triển kinh tế đã cho con người đầy đủ thực phẩm , và nền
truyền thông đại chúng đã làm cho trẻ con tiếp cận đến vấn đề tình dục quá sớm,
cộng với hệ thần kinh đáp ứng đã làm cho tình dục thức tỉnh sớm tại trẻ vị
thành niên .
Mặt
khác, thiên nhiên đã ban cho cấu trúc thân thể của phụ nữ cũng phải tương hợp
với động lực bí ẩn trong vô thức người nam, để cho, khi hai bên nam nữ đến tuổi
trưởng thành gặp nhau, chỉ nhìn dáng vẻ bề ngoài, thì sự thúc đẩy ái dục của tự
nhiên sẽ tự hành hoạt :
Vậy
đó bỗng nhiên mà họ lớn,
Tuổi
hai mươi đến có ai ngờ.
Một
hôm trận gió tình yêu lại,
Đứng
ngẩn trông vời áo tiểu thư
Nhà
thơ Huy Cận đã nói lên rất đúng trạng thái tâm-sinh-lý của đứa con trai tuổi
mới lớn
Mây
vẫn từng không, chim bay đi,
Khi
trời u uất hận chia ly.
Ít
nhiều thiếu nữ buồn không nói,
Tựa
cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì .
Và Cụ
Xuân Diệu cũng nhìn về thiếu nữ cũng vậy . Vì vậy, khi Kim Dung hư cấu nhà sư
vị thành niên Hư Trúc với cô gái mới lớn Mộng Cô trong kho nước đá, trong tiểu
thuyết Lục Mạch Thần Kiếm, cũng không sai về tính logic .
Vào
2600 trước, lúc sắp nhập diệt, Đức Phật vẫn còn cực kỳ sáng suốt để trả lời cho
Ananda :
“Ananda
bạch Phật : “Sau khi Phật diệt độ, các hạng nữ nhân đến thọ giáo huấn, cần được
đối xử như thế nào ? . - Phật dạy : Đừng gặp họ .
Ananda
: Giả sử phải gặp, thì làm sao ? – Phật dạy : Chớ cùng nói chuyện
Ananda
: Giả sử phải cùng nói chuyện, phải làm sao ? – Phật dạy : Hãy tự thu nhiếp
tâm
ý” – Kinh Du hành .
Đức
Phật biết rất rõ, lúc ấy Ananda là đàn ông trung niên đồng chân, mới khoảng 45
tuổi, người lại đẹp và quyến rũ, tấm lòng tràn đầy từ tâm và lòng bi mẫn,
nên Ngài đã dạy riêng cho Ananda về cách phòng hộ thân tâm khi Ngài sắp nhập
diệt . Có lẽ Ngài thông cảm mối lo sợ tận trong thâm sâu của Ananda do sự cố mỹ
nhân Ma Đăng Già và tai tiếng chia bánh ngày xưa, chứ không phải Ngài dạy phân
biệt hay trọng nam khinh nữ (10
Đại Đệ Tử Phật). Bởi vì, Kinh Pháp Hoa đã dạy :
“Nếu
vì người nữ nói pháp, thì chẳng hở răng cười, chẳng bày hông ngực. Dù vì pháp,
mà chẳng còn thân sau này, huống lại là việc khác” .
Tính
theo tuổi đời, con người hiện đại bình quân sống 100 năm, sự thức tỉnh tình dục
xuất hiện khoảng 12-13 tuổi ở bé gái và 13-14 tuổi ở bé trai . Khả năng tình
dục sẽ kéo dài đến bình quân khoảng 50-60 tuổi ở phụ nữ (do có những liệu pháp
hormone) và 75 – 80 tuổi ở đàn ông (cũng do có những dược phẩm phấn dương) .
Như vậy, tổng chiều dài lịch sử con người bị Ái dục thúc đẩy sẽ là gần 60 năm,
nghĩa là hơn 60% chiều dài cuộc sống. Nếu so với độ tuổi nhận thức được về nhân
cách, thì có sự lệch pha rất rõ nét , so với độ tuổi ý thức được bản thân và
nhân cách thường từ 18 tuổi đến về già chưa lú lẫn, tổng cộng khoảng 70 năm,
thì thời gian ái dục chiếm đến ….87% . Như vậy, có thể kết luận, ái dục chi phối con người trong hầu hết quãng đời hoạt động,
nhưng cường độ tắt dần, mặt dầu có những đợt bùng phát như ngọn đèn sắp tắt
(giai đoạn hồi xuân) .
Có
những nghiên cứu về sức mạnh tình dục ở người, đại khái, như có những người
tình dục rất mạnh mẽ do hệ nội tiết hoạt động quá mạnh, và ngược lại, có những
người hoạt động tình dục yếu do hệ nội tiết hoạt động yếu. Đó là do di truyền
và đó cũng là Nghiệp Ái
mang sang của mỗi người, kẻ
nặng nghiệp ái, người nhẹ nghiệp ái, ai
cũng có, thầy tu và cư sĩ đều có, nên phải hết sức giữ gìn giới luật,
để không bị nghiệp ái cuốn trôi .
Sức
cám dỗ mạnh đến như thế, nên Đức Phật dạy các Tỳ Kheo rằng :
1-
Ta không thấy một sắc nào khác, này các Tỷ-kheo, xâm chiếm và ngự trị tâm người
đàn ông như sắc người đàn bà. Này các Tỷ-kheo sắc người đàn bà xâm chiếm và ngự
trị tâm người đàn ông.
2.
Ta không thấy một tiếng nào khác, này các Tỷ-kheo, xâm chiếm và ngự trị tâm
người đàn ông, như tiếng người đàn bà. Này các Tỷ-kheo, tiếng người đàn bà xâm
chiếm và ngự trị tâm người đàn ông.
3-5.Ta
không thấy một hương...một vị...một xúc nào khác, này các Tỷ-kheo, xâm chiếm và
ngự trị tâm người đàn ông, như hương...vị.. xúc người đàn bà. Này các Tỷ-kheo,
xúc
người
đàn bà xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn ông.
6.
Ta không thấy một sắc nào khác, này các Tỷ-kheo, xâm chiếm và ngự trị tâm người
đàn bà như sắc người đàn ông. Này các Tỷ-kheo, sắc người đàn ông chiếm và ngự
trị tâm người đàn bà.
7-10.
Ta không thấy một tiếng... một hương...một vị...một xúc nào khác. Này các
Tỷ-kheo, xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn bà, như tiếng... hương... vị... xúc
người đàn ông. Này các Tỷ-kheo, xúc người đàn ông xâm chiếm và ngự trị tâm
người đàn bà. (Tăng Chi - Chương 1 Pháp – 1-10 Nữ sắc)
Nhận
thức được như thế, để chúng ta là Phật tử, luôn luôn giữ chánh niệm trong đời
thường, để phòng tránh những lỗi lầm phạm trọng giới . Và cũng nhận thức sâu
sắc rằng, khuynh hướng ái dục tự nhiên như-nó-là, nên ta có thể cảm thông, với
tâm buông xả, khi thấy những nhà sư chợt lỡ bước sa cơ trong tình trường, và hãy chúc cho họ xây dựng được hạnh
phúc, đừng mang lại khổ luỵ cho người bạn đời của họ . Thứ hai, cũng phải thấy
rằng, những nhà sư xả giới này cũng đã từng hy sinh một phần đời của họ để phấn
đấu hết sức trên con đường đi theo chân Phật . Không phải ai đi xuất gia, cũng
sẽ là những bậc cao nhân đắc quả . Phật giáo đầy từ bi không bắt buộc chúng hữu
tình đi theo suốt đoạn đường, mà vì nghiệp lực trọng khinh, nên nhiều khi chỉ
cần gieo trồng chủng tử mà thôi, nên kinh khuyến khích :
“Xá
Lợi Phất, Nếu có Thiện nam tử, Thiện nữ nhân, nghe thuyết A Di Đà Phật, chấp
trì danh hiệu, dù một ngày, dù hai ngày, dù ba ngày, dù bốn ngày, dù năm ngày,
dù sáu ngày, dù bảy ngày, nhất tâm bất loạn. Khi nạn lâm chung, Phật A Di Đà
cùng Thánh chúng sẽ hiện đến trước mặt …” – Kinh A Di Đà .
Cho
nên ta mong rằng những nhà sư xuất giới này, thà là trở về, để làm một bậc
thiện tri thức áo trắng trong đời, còn hơn là ở lại, làm ô danh Tăng đoàn .
Giáo
lý chỉ răn dạy con đường tránh xa dâm dục , đó là con đường bất thiện , con
đường đầy khổ đau phiền muộn : “Thế
nào gọi là Tỳ-kheo được an ổn khoái lạc? Ở đây, Tỳ-kheo đoạn trừ dâm dục, xả bỏ
pháp bất thiện, có giác có quán, có hỷ lạc phát sanh do viễn ly, chứng đệ nhất
thiền…..” Thanh Tịnh Đạo
Theo
Phật giáo, tất cả chúng sinh chỉ là những diễn trình ngũ uẩn danh sắc, trong
đó, có sự phối hợp của Sắc mạng quyền, Nam mạng quyền hay Nữ mạng quyền, chỉ là
diễn trình Nhân-Quả-Báo của nghiệp quá khứ mà thôi . Xét về mặt Tâm quán, thân
Nữ hay Nam, cũng là một ý niệm hay khái niệm hoặc chỉ là một phạm trù tồn tại
trong tâm thức . Khái niệm nam hay nữ gợi lên một vọng tưởng (tướng, biệt
tướng, cộng tướng) về hình sắc khác biệt, nó gợi lên căn bản Ái dục, mà đường
tâm lộ đã khoét sâu rãnh vào nội tâm,
nên
dục vọng sinh khởi…., hãy biết tất cả là vọng niệm, vọng tâm, vô ngã … .
Chính
vì Ái Dục là một năng lực ghê gớm, nên Phật giáo đã dạy cho Phật tử phương pháp
Thiền Tứ Vô Lượng Tâm để dẫn dắt và chuyển hoá Ái dục thăng hoa thành một năng
lượng cao thượng vô biên vô lượng, và Kim Cang Thừa cũng đã sử dụng Ái Dục như
phương pháp tu tập đầy hiểm nguy, như đi trên vạc dầu sôi, như đi trên mũi gươm
nhọn vậy, mà ai vượt qua được, là một thành tựu vĩ đại chói lọi . Ngược lại,
xem như một kẻ phàm phu đã chết trong vạc dầu sôi của vòng ái dục luân hồi .
Ta hãy
nhớ lại, vào một đêm của 2600 năm về trước, có một chàng sa môn Cồ Đàm với cơ
thể suy kiệt vì khổ hạnh, đơn độc bên bờ sông Ni Liên Thuyền, đã chiến đấu
quyết liệt để chiến thắng Ái Dục, lúc chàng mới 35 tuổi . (Đức Phật và Phật Pháp – đoạn
chiến thắng Ma Vương – Nãrada Mahã Thera). Ngài đã nói lúc ấy : "Ðối với ta, chết trong cuộc
chiến đấu chống dục vọng còn thập phần danh dự hơn là sống thất bại." –
Thanh Tịnh Đạo .
Hãy nhớ, để thấy cái năng lượng Khát Ái trong mỗi con người là lớn lao như thế
nào !
Vào
thời đại ngày nay, với mạng internet, với kỹ thuật truyền thông đại chúng hiện
đại, cùng sự va chạm giữa các nền văn hoá, trong đó nền văn hoá Tây phương với
ái dục tự do, là một thách thức lớn hơn rất nhiều lần xưa kia . Xưa kia đã khó
thế, thì nay lại còn khó hơn trăm bề…. nhưng không phải là không được, nếu
nhiệt tâm theo lời Phật dạy.
Đức
Phật hỏi Ananda 3 lần: Thầy
nói tinh tấn giác ý ư ? “ và
Ananda đáp 3 lần: “ Con nói
tinh tấn giác ý “ .
Phật
bảo A-nan: “Thầy ưa
thích tu hành tinh tấn, thì không việc gì không được, được đến Phật đạo,
trọn đời không hư dối”. - Thanh Tịnh Đạo .
Tâm
Nhẫn
0 nhận xét:
Đăng nhận xét