Cuộc sống, như
chúng ta thấy ngày nay, đang biểu lộ tất cả những gì gọi là đẹp đẽ nhất, văn
minh nhất của lịch sử loài người. Nhưng chính trong cuộc sống được xem là đẹp
đẽ và văn minh ấy chúng ta cũng chứng kiến không ít các thảm cảnh đau lòng và
những biểu hiện đáng lo ngại.
Nhân ngày đầu xuân Ất
Dậu, chúng tôi xin dẫn đại ý ba câu kinh Pháp cú sau đây, vừa như lời cầu chúc
đầu năm chúng tôi gởi đến quý Phật tử, vừa hy vọng mọi người chúng ta sẽ nhận
ra những lời dạy hết sức giản dị nhưng vô cùng thâm thúy của bậc Đạo sư nói về
một nếp sống hạnh phúc an lạc thật sự giữa cuộc đời:
“ Vui thay chúng ta sống,
không tham giữa cuộc đời đầy tham;
Vui thay chúng ta sống, không sân giữa cuộc đời đầy sân;
Vui thay chúng ta sống, không mê lầm giữa cuộc đời mê lầm.”
Vui thay chúng ta sống, không sân giữa cuộc đời đầy sân;
Vui thay chúng ta sống, không mê lầm giữa cuộc đời mê lầm.”
Ba câu Pháp cú trên đây
là lời khuyên của đức Phật dành cho tất cả chúng ta, một lời khuyên, đúng hơn,
một lời cổ vũ động viên mọi người từ bỏ tham sân si để được hạnh phúc an lạc.
Lời khuyên này cũng xác chứng rất rõ quan điểm của đức Phật về hạnh phúc ở đời,
nghĩa là một nếp sống xa lìa tham sân si.
Đức Phật đến với cuộc đời
không gì khác ngòai việc chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc.
Những lời dạy của Ngài thật giản dị nhưng lại hết sức thiết thực và sâu sắc đối
với cuộc sống con người, bởi Ngài không dạy gì ngoài sự khổ và phương pháp diệt
khổ. Chúng ta có thể nói rằng bao lâu con người còn lo lắng, còn ưu tư phiền
muộn khổ đau bởi “đã mang lấy nghiệp vào thân”, như Nguyễn Du đã nói, thì lời
dạy của đức Phật sẽ là phương thuốc hiệu nghiệm giúp con người thoát khỏi
nghiệp chướng khổ đau ấy.
Cuộc sống, như chúng ta
thấy ngày nay, đang biểu lộ tất cả những gì gọi là đẹp đẽ nhất, văn minh nhất
của lịch sử loài người. Nhưng chính trong cuộc sống được xem là đẹp đẽ và văn
minh ấy chúng ta cũng chứng kiến không ít các thảm cảnh đau lòng và những biểu
hiện đáng lo ngại. Tình trạng suy giảm đạo đức và bạo động gia tăng đáng kể
trong các xã hội hiện đại, chiến tranh khủng bố diễn tiến không dứt giữa các
quốc gia và các khối chủ nghĩa, thiên tai lũ lụt động đất xảy ra hầu như khắp
nơi trên thế giới. Có quá nhiều sự kiện bất ổn xảy ra trên thế giới khiến con
người cảm thấy hình như bất lực trước số phận đau thương của chính mình. Ngày
nay con người được bảo hộ và trang bị mọi thứ, kiến thức cũng như nhiều phương
tiện kỹ thuật hiện đại, nhưng cảm giác bất an vẫn canh cánh trong lòng. Đời
sống vật chất của con người ngày càng sung mãn nhưng tâm lý thì đầy lo âu sầu
muộn. Thật là một nghịch lý.
Đứng trước hiện trạng vừa
mừng vừa lo ấy, đạo Phật có chia sẻ được gì cho con người và cuộc đời? Nói khác
đi, những lời dạy của đức Phật có giúp cho con người thoát khỏi thực trạng đầy
lo lắng khổ đau đang diễn ra mọi lúc mọi nơi trên cuộc đời mà con người là tác
nhân và chịu trách nhiệm lớn về mọi thứ? Tìm ra câu trả lời cho vấn đề này tức
là hiểu được đạo Phật, hiểu được mục đích của đạo Phật, hiểu được giá trị thiết
thực của đạo Phật đối với cuộc sống. Bởi đức Phật ra đời vì hạnh phúc an lạc
cho chúng sinh và Ngài thuyết pháp là nhằm giải thoát khổ đau cho cuộc đời.
Chúng ta sẽ lần lượt tìm
xem câu trả lời của đức Phật cho vấn đề này.
Trước hết, đức Phật xác
nhận rất rõ về con người và vai trò của con người ở trên đời. Ngài dạy: “Người
là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự của nghiệp”.
Nghiệp ở đây là hành động
có chủ ý. Con người là chủ nhân của nghiệp, nghĩa là con người làm chủ các hành
vi của mình; là kẻ thừa tự của nghiệp, tức con người phải chịu trách nhiệm về
mọi hành vi của mình. Như vậy, đức Phật quan niệm con người là sinh vật hành
động và Ngài đánh giá cao hành động của con người, xem hành động là yếu tố
quyết định vận mệnh của con người. Nói khác đi, con người phải chịu trách nhiệm
về số phận của chính mình; số phận ấy tốt hay xấu đều tùy thuộc vào nghiệp hay
hành động của con người.
Bước tiếp theo, đức Phật
xác định rõ về ba loại nghiệp hay hành động gồm thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý
nghiệp, trong đó ý nghiệp đóng vai trò quan trọng, và về hai phương diện thiện
ác của nghiệp nhằm chỉ rõ thiện nghiệp đưa đến hạnh phúc an lạc, trong khi ác
nghiệp mang bất hạnh khổ đau đến cho con người. Ngài dạy:
“Ý dẫn đầu các pháp, ý
làm chủ, ý tạo tác. Nếu người ta nói năng hay hành động với tâm ý ô nhiễm thì
đau khổ sẽ kéo theo sau, giống như chiếc xe lăn theo vết chân con bò kéo. Nếu
với ý trong sạch mà nói năng hay hành động thì an lạc sẽ bước theo sau, giống
như bóng không rời hình.”[1]
Ý ô nhiễm ở đây tức là
một tâm tư đổ đầy tham sân si, và lời nói hay hành động xuất phát từ một tâm
đầy tham sân si như vậy tức sẽ dẫn đến bất hạnh đau khổ. Ý trong sạch tức một
tâm tư không có tham sân si, và lời nói hay việc làm bắt nguồn từ một tâm không
tham sân si thì sẽ đưa đến hạnh phúc an lạc.
Đến đây ta có thể nêu
thắc mắc: Vậy tham sân si là gì mà một ý nghĩ, lời nói hay hành động đổ đầy
tham sân si lại dẫn đến khổ đau, trong khi một ý nghĩ, lời nói hay hành động
không có tham sân si thì đưa đến an lạc?
Tham là một hiện tượng
tâm lý xuất hiện khi mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý gặp phải các đối tượng thích
hợp hấp dẫn mà biểu hiện là sự khao khát, thích chiếm hữu hay muốn ôm ấp nắm
giữ. Sân cũng là một hiện tượng tâm lý phát sinh khi con người không đạt được
điều mình mong muốn hay gặp phải các đối tượng không thích hợp, không bằng lòng
mà biểu hiện là sự giận dữ, bất mãn hay phản ứng gay gắt. Si cũng là một hiện
tượng thuộc tâm lý hiện diện bởi sự mê mờ, thiếu giác tỉnh, tâm dao động, thiếu
cân nhắc mà biểu hiện là sự u mê, không sáng suốt, cố chấp, không cởi mở. Như
vậy, từ những định nghĩa khái quát về tham sân si vừa nêu, chúng ta có thể hiểu
lý do vì sao khi ba độc tố này dính vào con người hay người nào thì những việc
làm hay hành động của người ấy sẽ dẫn đến khổ đau. Tiếp theo chúng ta sẽ tìm
hiểu thêm các biểu hiện bất thiện của tham sân si và những biểu hiện hiền thiện
của vô tham, vô sân, vô si để hiểu rõ hơn vì sao tham sân si dẫn đến khổ đau,
trong khi vô tham, vô sân, vô si đưa đến an lạc.
“Người có tham, thưa Hiền
giả, bị tham chinh phục, tâm mất tự chủ, nghĩ đến hại mình, nghĩ đến hại người,
nghĩ đến hại cả hai, cảm giác khổ ưu thuộc về tâm. Khi tham được đoạn tận,
không nghĩ đến hại mình, không nghĩ đến hại người, không nghĩ đến hại cả hai,
không cảm giác khổ ưu thuộc về tâm.
Người có tham, thưa Hiền
giả, bị tham chinh phục, tâm bị mất tự chủ, thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ
ác. Khi tham được đoạn tận, thân không làm ác, miệng không nói ác, ý không nghĩ
ác.
Người có tham, thưa Hiền
giả, bị tham chinh phục, tâm mất tự chủ, không như thật rõ biết lợi mình, không
như thật rõ biết lợi người, không như thật rõ biết lợi cả hai. Khi tham được
đoạn tận, như thật rõ biết lợi mình, như thật rõ biết lợi người, như thật rõ
biết lợi cả hai.
Tham, thưa Hiền giả, làm
thành mù, làm thành không mắt, làm thành không trí, đoạn diệt trí tuệ, dự phần
vào tổn não, không đưa đến Niết-bàn.
“Người có sân, thưa Hiền
giả, bị sân chinh phục, tâm mất tự chủ, nghĩ đến hại mình, nghĩ đến hại người,
nghĩ đến hại cả hai, cảm giác khổ ưu thuộc về tâm. Khi sân được đoạn tận, không
nghĩ đến hại mình, không nghĩ đến hại người, không nghĩ đến hại cả hai, không
cảm giác khổ ưu thuộc về tâm.
Người có sân, thưa Hiền
giả, bị sân chinh phục, tâm bị mất tự chủ, thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ
ác. Khi sân được đoạn tận, thân không làm ác, miệng không nói ác, ý không nghĩ
ác.
Người có sân, thưa Hiền
giả, bị sân chinh phục, tâm mất tự chủ, không như thật rõ biết lợi mình, không
như thật rõ biết lợi người, không như thật rõ biết lợi cả hai. Khi sân được
đoạn tận, như thật rõ biết lợi mình, như thật rõ biết lợi người, như thật rõ
biết lợi cả hai.
Sân, thưa Hiền giả, làm
thành mù, làm thành không mắt, làm thành không trí, đoạn diệt trí tuệ, dự phần
vào tổn não, không đưa đến Niết-bàn.
“Người có si, thưa Hiền
giả, bị si chinh phục, tâm mất tự chủ, nghĩ đến hại mình, nghĩ đến hại người,
nghĩ đến hại cả hai, cảm giác khổ ưu thuộc về tâm. Khi si được đoạn tận, không
nghĩ đến hại mình, không nghĩ đến hại người, không nghĩ đến hại cả hại, không
cảm giác khổ ưu thuộc về tâm.
Người có si, thưa Hiền
giả, bị si chinh phục, tâm bị mất tự chủ, thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác.
Khi si được đoạn tận, thân không làm ác, miệng không nói ác, ý không nghĩ ác.
Người có si, thưa Hiền
giả, bị si chinh phục, tâm mất tự chủ, không như thật rõ biết lợi mình, không
như thật rõ biết lợi người, không như thật rõ biết lợi cả hai. Khi si được đoạn
tận, như thật rõ biết lợi mình, như thật rõ biết lợi người, như thật rõ biết
lợi cả hai.
Si, thưa Hiền giả, làm
thành mù, làm thành không mắt, làm thành không trí, đoạn diệt trí tuệ, dự phần
vào tổn não, không đưa đến Niết-bàn.
Thấy sự nguy hại này của
tham, thưa Hiền giả, chúng tôi tuyên thuyết đoạn tận tham. Thấy sự nguy hại này
của sân, thưa Hiền giả, chúng tôi tuyên thuyết đoạn tận sân. Thấy sự nguy hại
này của si, thưa Hiền giả, chúng tôi tuyên thuyết đoạn tận si.”[2]
Như vậy câu trả lời của đức Phật cho vấn đề khổ đau và hạnh phúc đã rõ ràng. Do tham sân si chi phối mà con người nghĩ đến hại mình, hại người, hại cả hai; thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác; không như thật rõ biết lợi mình, lợi người, lợi cả hai. Tham sân si khiến con người trở thành mù lòa, có mắt mà như mù, tâm tư rối loạn, không còn sáng suốt, dự phần vào phiền não khổ đau, không hướng đến an lạc Niết-bàn. Nói cách khác, tham sân si là căn bản của bất thiện, là gốc rễ của khổ đau; do tham sân si mà con người làm đủ mọi thứ xấu xa, gây khổ đau cho chính mình và tạo khổ đau cho cuộc đời.
Như vậy câu trả lời của đức Phật cho vấn đề khổ đau và hạnh phúc đã rõ ràng. Do tham sân si chi phối mà con người nghĩ đến hại mình, hại người, hại cả hai; thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác; không như thật rõ biết lợi mình, lợi người, lợi cả hai. Tham sân si khiến con người trở thành mù lòa, có mắt mà như mù, tâm tư rối loạn, không còn sáng suốt, dự phần vào phiền não khổ đau, không hướng đến an lạc Niết-bàn. Nói cách khác, tham sân si là căn bản của bất thiện, là gốc rễ của khổ đau; do tham sân si mà con người làm đủ mọi thứ xấu xa, gây khổ đau cho chính mình và tạo khổ đau cho cuộc đời.
Tham sân si là gốc của
khổ đau, thế nên khi tham sân si không còn, được diệt trừ, thì khổ đau sẽ chấm
dứt. Nói khác đi, hạnh phúc xuất hiện bao lâu tham sân si vắng mặt.
Nhưng làm thế nào dứt trừ
tham sân si? Câu hỏi thật căn bản nhưng hết sức tế nhị, bởi tham sân si là gốc
rễ của khổ đau nhưng việc đoạn trừ chúng thì không dễ. Gia chủ Mahànàma từng
nêu thắc mắc này với đức Phật.
“Bạch Thế Tôn, đã lâu
rồi, con đã hiểu như thế này lời dạy của Thế Tôn: Tham là cấu uế của tâm, sân
là cấu uế của tâm, si là cấu uế của tâm. Tuy vậy, đôi lúc các tham pháp chiếm
cứ tâm con và an trú, các sân pháp chiếm cứ tâm con và an trú, các si pháp
chiếm cứ tâm con và an trú. Bạch Thế Tôn, con tự suy nghĩ: “Pháp nào tự trong
ta không đoạn trừ được, do vậy các tham pháp xâm nhập tâm ta và an trú, các sân
pháp xâm nhập tâm ta và an trú, các si pháp xâm nhập tâm ta và an trú?”
Sau đây là câu trả lời
của đức Phật cho gia chủ Mahànàma:
“Này Mahànàma, có một
pháp trong Ông chưa được đoạn trừ, do vậy các tham pháp xâm nhập tâm Ông và an
trú, các sân pháp xâm nhập tâm Ông và an trú, các si pháp xâm nhập tâm Ông và
an trú. Và này Mahànàma, pháp ấy trong Ông có thể đoạn trừ được, nếu Ông không
sống trong gia đình, nếu Ông không thụ hưởng các dục vọng.”
Lời dạy của đức Phật cho
gia chủ Mahànàma ngụ ý rằng sở dĩ tham sân si khó đoạn trừ là do con người quá
thiên nặng thụ hưởng các dục, không thấy được vị ngọt, sự nguy hiểm và sự
xuất ly của các dục. Nói khác đi, càng ham muốn thỏa mãn các dục lạc, nghĩa là
sắc đẹp, tiếng hay, hương thơm, vị ngon, cảm xúc êm dịu và các danh vọng khác,
thì tham sân si càng tăng trưởng, rất khó trừ diệt. Vì vậy, để diệt trừ tham
sân si, gốc rễ của khổ đau, thì con người cần phải hạn chế lòng tham, cần phải
tìm ra cách thức loại trừ tham dục.
Theo đức Phật, có hai
cách để chế ngự và loại bỏ tham dục, cũng đồng nghĩa với việc loại bỏ tham sân
si, hướng đến chấm dứt khổ đau. Cách thứ nhất là nhận thức vị ngọt, sự nguy
hiểm và sự xuất ly của tham dục. Thứ hai là thực hành thiền định. Nói cách
khác, muốn chế ngự và loại bỏ tham dục, con người cần phải tu thiền định và
phát triển trí tuệ. Bởi thiền định Phật giáo bao hàm cả chỉ (samatha) và quán
(vipassanà), nghĩa là có cả định (samàdhi) và tuệ (panõnõà), do đó khi nói đến
hành thiền thì cũng có nghĩa là vừa tu thiền định vừa phát triển trí tuệ.
Thiền là phương pháp điều
tâm, giúp tâm được an trú, không tán loạn, được tịnh chỉ, nhất tâm, hướng đến
phát triển trí tuệ, thấy rõ pháp sanh diệt, dứt trừ phiền não tham sân si. Theo
Buddhaghosa, thiền có nghĩa là lựa chọn một đối tượng rồi thiền tư trên đối
tượng ấy, khiến cho có khả năng đốt cháy, thiêu hủy các pháp đối nghịch (tức
các triền cái và các kiết sử phiền não). Như vậy thiền có chức năng cột chặt
tâm vào một chỗ, khiến cho tâm tịnh chỉ, không chạy nhảy tán loạn. Cũng theo
định nghĩa trên thì thiền có khả năng đốt cháy, thiêu hủy các ác pháp (tham,
sân, hôn trầm thụy miên, trạo hối, nghi, thân kiến, nghi, giới cấm thủ, tham,
sân, sắc ái, vô sắc ái, mạn, trạo cử, vô minh) mà nói gọn là tham sân si. Như
vậy, thiền vừa có chức năng làm tịnh chỉ tâm trí,, vừa có công năng làm sạch
tâm trí, nghĩa là dọn sạch tham sân si ở trong tâm thức. Đây là pháp môn tu tập
vừa nâng cao tâm hồn con người, khiến cuộc sống được trong sáng thanh cao, vừa
giải thoát con người khỏi mọi đam mê dục vọng cùng với mọi ám ảnh và hành vi
bất thiện bởi tham sân si.
Chúng ta đã đề cập tham
sân si là gốc rễ của khổ đau, do tham sân si ám ảnh mà con người rơi vào những
ý nghĩ lời nói hay việc làm sai quấy, gây khổ đau cho tự thân và cuộc đời.
Chúng ta cũng đã nói đến tham dục là pháp chướng ngại, khiến tham sân si không
ngừng sinh khởi và tăng trưởng, rất khó diệt trừ. Sau cùng chúng ta đã xem xét
phương pháp giúp hạn chế và loại trừ tham dục, khiến tham sân si không có cơ
hội sinh khởi, được diệt trừ, hướng đến chấm dứt khổ đau. Tất cả điều này được
nêu đầy đủ và chi tiết trong giáo pháp của đức Phật và đang chờ chúng ta thực
hành. Bởi có thực hành lời Phật dạy, chúng ta mới chế ngự được tham dục, dứt
trừ được tham sân si, chấm dứt khổ đau. Có thực hành pháp môn của Ngài, chúng
ta mới đạt được hạnh phúc an lạc, mới thấy hết giá trị lời đức Phật dạy.
Cuộc sống hiện đại có
nhiều tiến bộ đáng mừng nhưng cũng báo hiệu những triệu chứng đầy lo ngại. Sự
giàu có vật chất đi đôi với tình trạng sụt giảm đạo đức và bạo động gia tăng.
Sự tiến bộ kỹ thuật hiện đại gắn liền với tình trạng chiến tranh và khủng bố
lan rộng. Sự hưởng thụ xa xỉ của con người đi đôi với tình trạng thế giới thiên
nhiên thay đổi nhanh chóng dẫn đến các hiểm họa hạn hán thiên tai động đất xảy
ra liên tục ở nhiều nơi. Tất cả là hậu quả của sự tăng trưởng các độc tố tham
sân si ở trong con người và mỗi người mà nền văn minh hiện đại chưa có giải
pháp khắc phục. Đã có nhiều cảnh báo về nguy cơ lòng tham không đáy của con
người đang dẫn thế giới loài người đến các hiểm họa khó lường. Tuy nhiên, người
ta vẫn chưa tìm thấy giải pháp nào khả dĩ để chế ngự và khắc phục. Giữa lúc con
người đang vui mừng về thành quả văn minh vượt trội của mình nhưng cũng đang
bối rối lo lắng về hậu quả không sáng sủa của nền văn minh ấy và cố tìm cách
khắc phục thì những lời dạy của đức Phật hiện rõ như kim chỉ nam cho con người
và cuộc đời để vượt qua mọi khổ đau khủng hoảng.
Ý thức rõ tham sân si là
gốc rễ của mọi khủng hoảng khổ đau, người Phật tử chúng ta sống nếp sống thoát
ly tham sân si tức vừa xây dựng hạnh phúc an lạc cho chính mình, vừa góp phần
tạo hạnh phúc an lạc cho cuộc đời. Chúng ta không cho rằng chỉ có con đường
chúng ta theo là tuyệt đối đúng đắn. Nhưng chúng ta có quyền tin tưởng và vui
mừng về nếp sống ly tham, ly sân, ly si của chính mình. Bởi đó chính là con
đường mà bậc Đạo sư đã chỉ cho chúng ta và bởi thông qua nếp sống ấy chúng ta
hưởng được hạnh phúc an lạc. Chúng ta không tự mãn về nếp sống ấy nhưng có thể
tin tưởng mà nói rằng: “Bớt tham một chút bớt khổ cho đời; bớt sân một chút bớt
khổ cho đời; bớt mê một chút bớt khổ cho đời.”
Nhân ngày đầu xuân, người
con Phật chúng ta hãy hoan hỷ với nếp sống nỗ lực ly tham, ly sân, ly si của
chính mình và cùng nhắc nhở nhau nỗ lực nhiều hơn nữa để sống trọn với lời
khuyên đầy từ tâm của bậc Đạo sư:
“Vui thay chúng ta sống,
không tham giữa cuộc đời đầy tham;
Vui thay chúng ta sống, không sân giữa cuộc đời đầy sân;
Vui thay chúng ta sống, không chấp giữa cuộc đời đầy tranh chấp.”
Vui thay chúng ta sống, không sân giữa cuộc đời đầy sân;
Vui thay chúng ta sống, không chấp giữa cuộc đời đầy tranh chấp.”
[1]Pháp cú, kệ số 1 – 2 .
[2]Kinh Channa, Tăng chi bộ.
[2]Kinh Channa, Tăng chi bộ.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét