Trong ý nghĩa thông tục , cầu nguyện là một biểu hiện lòng
nhớ ơn , đền ơn đáp nghĩa đối với tổ tiên , ông bà , cha mẹ , người thân … một
biểu hiện của tình thương yêu , quan tâm , lo lắng đến nhau như các cầu nguyện
: cầu siêu , cầu an , sám hối …


Cầu nguyện là một nhu cầu tinh thần của con người , một nhu
cầu chính đáng . Trước hết là giải toả các ức chế tâm lý do ápp lực của hoàn
cảnh , của thất vọng trong tình cảm , những bức xúc trong các mối quan hệ xã
hội . Thứ đến cầu nguyện là thể hiện các ước mơ , niềm hy vọng của con người về
đời sống hiện thực hay lý tưởng , dù sao cầu nguyện vẫn là một biểu hiện của
thiện tâm , nghĩa là khi một người chấp tay , cúi đầu trước bàn thờ Phật ,
Thánh , lòng họ trở nên khiêm hạ , cái " Ta" trở nên nhỏ bé , lương
tâm thổi dậy và tâm hồn họ được bình hoà .
Sự cầu nguyện trong đạo Phật còn là một pháp môn tu tập của
người phật tử , nhờ cầu nguyện mà nhuyện lực của họ mạnh mẽ , niềm tin tăng
trưởng , thiện nghiệp được phát huy, ác nghiệp được tiêu trừ , tâm xu hướng lộ
trình giải thoát .
Trong ý nghĩa thông tục , cầu nguyện là một biểu hiện lòng
nhớ ơn , đền ơn đáp nghĩa đối với tổ tiên , ông bà , cha mẹ , người thân … một
biểu hiện của tình thương yêu , quan tâm , lo lắng đến nhau như các cầu nguyện
: cầu siêu , cầu an , sám hối …
Sự cầu nguyện ban đầu như là biểu hiện của sự lo lắng vị kỷ
, nhưng dần dần do bản chất của sự cầu nguyện sẽ nâng cao tinh thần vị tha .
Những lời khấn nguyện , niệm hương , bạch Phật , phục nguyện , hồi hướng ,
trong đạo Phật đều mang tính 2 mặt cho mình và cho chúng sinh . YÙ nghĩa của sự
cầu nguyện là nâng cao đời sống tinh thần và củng cố niềm tin cho chính mình và
tha nhân .
II. CÁC HÌNH THỨC CẦU NGUYỆN
Hình thức cầu nguyện , khái quát gồm 4 loại : cầu siêu , cầu
an , cầu sám hối , cầu tiến bộ tâm linh :
1. Cầu siêu : là cầu nguyện cho ông bà , cha mẹ , thân quyến
đã qua đời được siêu thoát , được an lành thế giới bên kia . Như vậy cầu siêu
là biểu lộ sự quan tâm , lo lắng , sự thương yêu giúp đỡ cho người thân của
mình . Sự quan tâm đối với người đã chết không thể làm gì khác hơnlà cầu nguyện
. Nhu cầu và thực hành cầu siêu nói lên nhân sinh quan và vũ trụ quan của Phật
giáo vừa nhân bản vừa rộng rãi ; chấp nhận goài thế giới hiện thực này còn có
thế giới khác mà ta gọi là vô hình .
2. Cầu an : là cầu nguyện cho người thân của mình hoặc chính
bản thân mình đượcan lành , vượt qua các tai ương hoạn nạn . Vậy cầu an cũng
thể hiện ối quan tâm lo lắng và thương yêu giúp đỡ cho tha nhân , nhất là trong
lúc mình không làm được gì khác hơn là cầu nguyện . Nhu cầu cầu an cũng nói lên
tinh thần đạo đức của người phật tử khi đứng trước nổi bất hạnh của kẻ khác .
3. Cầu sám hối : Là cầu nguyện cho những lỗi lầm vụng dại
của mình đã làm không còn tái diễn nữa , bày tỏ sự hối hận ăn năn , mong sự
chứng giám và tha thứ của các đấng thiêng liêng hay cả của những người màmình
đã gây khổ cho họ . Có khi người ta cũng cầu sám hối giúp cho người thân của
mình . Nhu cầu sám hối nói lên tiếng nói của lương tâm , của đạo đức và của trí
tuệ .
4. Cầu tiến bộ tâm linh : Là cầu nguyện cho tâm hồn của mình
được phát khởi thiện tâm , phát huy được trí tuệ vượt qua nghiệp chướng , ma
chướng để sớm thành tựu được mục tiêu giải thoát của mình . Nhu cầu cầu nguyện
tâm linh tiến bộ nói lên tinh thần quyết tâm cầu tiến , nói lên ước vọng tìm
kiếm chân lý của ngườu phật tử .
Tóm lại , mục đích cầu nguyện là mang đến lợi ích cho kẻ
chết , người sống , đem đến thiện pháp tăng trưởng ,ác pháp tổn giảm , tâm lực
củng cố , nềm tin vững chãi hơn .
III. ĐỐI TƯƠ.NG CẦU NGUYỆN
Tùy theo niềm tin tôn giáo , tín ngưỡng mà có các đối tượng
cầu
nguyện khác nhau . Đối với người phật tử , đối tượng cầu
nguyện căn bản là Tam bảo ( Phật , Pháp , Tăng ) cụ thể thì các Đức Phật Bổn Sư
, Phật Di Đà , Phật Dược Sư , Phật Di Lặc , các vị Bồ tát , thánh hiền … Đối
tượng cầu nguyện dân gian thì có tổ tiên , thần thánh ( thánh mẫu , quan công…
) ông bà cha mẹ đã qua đời , các linh hồn vất vưởng cho đến các gốc cây , cụa
đá hay các sinh vật như cọp beo … Tóm lại tất cả mọi thứ nếu được coi là thiêng
liêng .
Người phật tử chân chính chỉ cầu nguyện đối với Tam bảo ,
các Đức Phật , các vị Bồ tát , Thánh Tăng . Những Phật tử chưa thuần thục đạo
pháp họ vừa cầu Phật , vừa cầu thần , nếu cần họ có thể cầu luôn cỏ cây , đá núi
… Những Phật tử như thế Đức Phật , Bồ tát đối với họ không khác các vị thần bao
nhiêu .
Vì lý do là đối tượng của cầu nguyện nên Đức Phật Bồ tát
mang sắc thái thần thánh đầy quyền năng , không ai coi Phật , Bồ tát là người
bình thường , nên đối tượng của cầu nguyện là mang tính thiêng liêng . Đã là
đối tượng linh thiêng thì ranh giới giữa đối tượng này với đối tượng kia về bản
chất tâm lý hầu như không có , tất cả đều bình đẳng . Đối tượng được coi là
linh thiêng thường là không hiện thực , nhưng đầy quyền năng siêu việt . Nếu
một đối tượng linh thiêng mà hiện thực thì sớm muộn gì cũng bị bỏ quên và bị
bôi bác bởi chính con người thờ họ . Một người khi cha mẹ còn sống họ đối xử
bình thường đôi khi coi thường nữa , nhưng khi cha mẹ mất đi họ trở nên tôn trọng
cung kính rất đặt biệt , họ thể hiện niềm tôn trọng ấy băng nhiều cách để gọi
là có hiếu , họ than thở , tiếc nuối ân hận… Nếu cha mẹ họ nghe lời khấn nguyện
của họ mà xúc động , sống lại thì họ v64n đối xử như xưa .
Đối tượng của cầu nguyện , tuỳ theo trình độ văn hoá , phong
tục , tập quán , tôn giáo , tín ngưỡng mà khác nhau , đó là một thế giới muôn
màu muôn vẻ . Dù sao đã là đối tượng của cầu nguyện thì phải linh thiêng , phải
hoàn hảo , quyền năng vô tận và có tác dụng ảnh hưởng đến tâm thức của người
cầu nguyện .
IV. TÁC DỤNG CỦA CẦU NGUYỆN
Có người cho rằng cầu nguyện là vô ích , không có tác dụng
gì , làm sao có tác dụng được khi lạy lục cầu xin trước một pho tượng bằng đất
, đá , xi măng , gỗ …? Nghĩ như vậy quá duy lý . Tượng Phật , Tượng thánh chắc
chắn không phải ông Phật thực mà đó chỉ là tượng trưng hay biểu tượng (
symbolizes ). Điều quan trọng là yếu tố tinh thần đằng sau pho tượng và trong
tâm thức của người cầu nguyện . Không ai lạl khờ khạo lạy lục cục đá hay gốc
cây cả , chẳng qua là cục đá hay gốc cây ấy có giá trị biểu tượng thiêng liêng
ở đằng sau . Khi ta nghiêng mình cúi đầu một cách cung kính tôn trọng lá cờ tổ
quốc không phải là ta tôn trọng miếng vải mà chính là ý nghĩa tinh thần mà tấm
vải đeo mang . Khi một vật thể là vật chất nhưng trở thành đối tượng thiêng
liêng thì nó không còn thuần tuý vật chất nữa mà thành đối tượng có sức sống ,
có tác dụng đối với con người và hoàn cảnh xung quanh .
1. Tác dụng của cầu siêu : Cầu siêu là cầu nguyện Tam bảo
phù hộ cho linh hồn đã mất được nhẹ nhàng siêu thoát ở thế giới bên kia cầu
được sinh về cõi cực lạc của Đức Phật A Di Đà cầu như vậy có siêu không ?
Ở trong kinh Địa Tạng có đề cập đến tác dụng kinh cầu nguyện
cho người chết rằng : Khi tụng kinh Địa Tạng cầu nguyện thì công đức có được 7
phần , người tụng được sáu , người chết đươọc một phần . Tại sao người được cầu
nguyện chỉ được một phần ? điều dễ hiểu là khi tụng kinh Tam nghiệp thanh tịnh
, công đức phát sinh năng lực công đức có trước hết là người tụng , rồi xử dụng
năng lượng công đức ấy hướng đến người đã chết tất nhiên người chết sẽ nhận
được một, phần năng lượng ấy , trong khi người tụng là người suất sinh công đức
.
Trong kinh Vu Lan đề cập đến sức mạnh chú nguyện của chư
Tăng , nhờ sức mạnh của Tăng lực mà bà Thanh Đề thoát khổ , năng lượng của Tăng
là năng lượng tập thể nên có tác dụng lớn , nó tạo một ảnh hưởng mạnh mẽ vào
tâm thể của bà Thanh Đề làm cho bà thay đổi tận gốc rễ nghiệp bất thiện của
mình mà thoát khổ . Trong kinh Địa Tạng cũng đề nghị phương pháp giúp cho người
chết thoát khổ bằng cách xử dụng tài sản của họ vào việc công ích bố thí , cúng
dường hồi hướng công đức cho họ sẽ được lợi ích lớn . Tất cả những điều diễn tả
trong kinh muốn nói lên một sự thực rằng nếu xử dụng năng lượng tâm linh đúng
chánh pháp sẽ tạo khả năng biến chuyển hay thay đổi tâm thức và đời sống của
một chúng sinh đau khổ , trường hợp bà Thanh Đề là một ví dụ.
Cầu siêu cho ông bà cha mẹ còn có ý nghĩa bày tỏ lòng tri ân
và báo ân đối với các bậc Tiền nhân đã sinh ra và nuôi dưỡng mình nên người .
Sự biết ân và báo ân là một đức tính tốt , hiền thiện , là đạo đức xã hội , là
một nét văn hoá văn minh của loài người . Con người nếu không biết cội nguồn
của mình , không biết ơn , nghĩa thì người ấy sẽ chết mất gốc ; quá khứ không rõ
ràng thì tương lai sẽ mờ mịt . Cầu nguyện cúng bái ông bà cha mẹ mong cho họ
được siêu thoát là bài học về giáo dục đạo đức quan trọng : sự hiếu thảo của
con cái , sự kính trọng người già cả , sự khiêm tốn thương yêu nhau đều tuy
thuộc vào các sinh hoạt tinh thần mang tính truyền thống cao đẹp này .
2. Tác dụng của cầu an : Cầu nguyện cho mình hay người thân
của mình được bình an là một cách thển hiện sự thương yêu , là một nhu cầu khẩn
thiết . Nhưng cầu như vậy có hiệu quả không ? Người xưa nói :" Linh tại
ngã , bất linh tại ngã". Khi ta có niềm tin ta sẽ có sức mạnh . Sức mạnh
tinh thần ấy gọi là năng lượng tâm linh , nếu ta cố ý chuyển năng lượng tâm
linh ấy đến một người nào đó thì có tác dụng ảnh hưởng vào người ấy , đó là
điều khó tin nhưng có thực . Mối quan hệ giữa tinh thần và thể xác , giữa tâm
linh và thế giới khách quan là mối quan hệ duyên sinh tương tác lẫn nhau .
Người ta có thể dùng sức mạnh tâm linh để tác động hay cảm hoá đến vật chất hay
sinh vật , các vị thiền sư có thể cảm hoá hổ báo hung dữ , ngay cả loài thảo
mộc nếu được thương yêu chúng cũng tươi tốt hơn , đã có nhiều cuộc thí nghiệm
của các nhà khoa học để chứng minh chosức mạnh tinh thần này . Theo phong tục
dân gian , khi người gia chủ qua đời thì người ta" để tang" cho cây
cối xung quanh nhà bằng cách cột một mảnh vải trắng lên cành cây với hy vọng
rằng cây sẽ bớt đau dớn mà khô héo . Điều đó có vẻ huyền hoặc nhưng được đúc
kết từ kinh nghiệm dân gian rằng đaã từng có cây cối khô héo và chết khi chủ
nhân của nó qua đời , khi người chủ còn sống thương yêu săn sóc cây cối , hằng
ngày ông ta phóng ra từ trường nhân diện hay năng lượng tâm linh vào cây cối ,
chúng quen sống với luồn điện từ như vậy , nay đột ngột mất đi chổ dựa ấy như
con người mất đi chổ dựa tình cảm , sẽ cảm thất hụt hẫng lạnh lùng … Cần phải
có một sự quan tâm , một thay thế dòng sóng từ trường mới , đó chính là hành
động của người chủ nhân kế thừa , nên có vấn đề để tang cho cây cối .
Khi một người phóng ra một năng lượng tâm linh qua sự tập
trung cầu nguyện , luồng năng lượng ấy sẽ tạo ảnh hưởng lên thể chất và tinh
thần của người bị bệnh , bị tai nạn hay đối tượng được cầu nguyện . Người phát
ra một năng lượng tâm linh mà năng lượng ấy thuộc xu hướng nào nó sẽ tạo một
hấp lực thu hút luồng năng lượng tương ứng trong không gian ( có thể gọi là
năng lượng của các Đức Phật hay Bồ tát ) mà ta gọi là tha lực . Tuy theo sự
tương tác ở mức độ nào mà khả năng , hiệu quả lớn hay nhỏ . Trong đời sống hằng
ngày ta thường gặp nhau và chúc lẫn nhau " mạnh khoẻ" " bình
an" " hạnh phúc" … nếu những lời chúc ấy có chú tâm , có thành
tâm , có nhất tâm nó sẽ tạo ra năng lượng lành mạnh giúp ích cho người đươọc
chúc .
Cầu nguyện cho người khác được bình an thể hiện tính tích
cực của từ bi , vị tha , do đó tạo nên " đức độ". Tâm ta càng xu
hướng về vô ngã vị tha thì mối tương tác ( cảm ứng ) giữa tâm ta và tâm Phật ,
Bồ tát ( tha lực ) sẽ chặt chẽ , do đó tác động mạnh đến người hay hoàn cảnh mình
cần nguyện . Đó là sức mạnh vô hình nhưng có thực . Dĩ nhiên không phải ai cầu
cũng ứng , cũng được an . Mọi tác dụng cảm ứng đều có điều kiện , nhân duyên có
đủ hay không ; một ngọn lửa bùng cháy phải đủ các điều kiện cho sự cháy , vậy
không nên coi cầu an là phương pháp tối thượng mà chỉ là một "trợ
duyên" Điều quan trọng vẫn là "nội lực" hay "nghiệp
lực". Cầu an đúng nghĩa là chuyển hoá nghiệp lực bằng cầu nguyện đó là mặt
tiêu cực , còn mặt tích cực thì phải xây dựng một tâm đức bằng bố thí , phóng
sanh , cúng dường Tam bảo , giúp đỡ tha nhân … như vậy là tích cực chuyển hoá
nghiệp lực , cần cả hai mặt như vậy kết quả mới tốt đẹp .
V. ĐẶC ĐIỂM CỦA CẦU NGUYỆN TRONG ĐẠO PHẬT
Trong kinh Trung A Hàm I , Kinh Ca Di Ni , Đức Phật nói về
sự vô ích trong cầu nguyện đối với một số trường hợp như sau :" Có những
người phạm chí tự cho mình có khả năng cầu nguyện , giúp cho người khác được
sinh lên cõi trời . Đức Phật bác bỏ lời tuyên bố ấy , Ngài đưa ra một số trường
hợp như :một người hung dữ , độc ác , luôn làm 10 điều ác . Người này sai khi
chết được nhiều người tập trung lại cầu nguyện , van xin thì cũng không thể lên
cõi trời được . Giống như một người ôm một tảng đá lớn ném xuống sông rồi nhiều
người khác tập trung cầu nguyện van xin " mong tảng đá nổi lên", điều
đó không thể được . Ngược lại một người làm 10 điều thiện sau khi người ấy chết
, nhiều người tập trung cầu nguyện van xin " mong anh ta vào địa
ngục" điều đó không thể xảy ra . Giống như một người ôm một thùng dầu đổ
xuống sông , nhiềi người tập trung cầu nguyện " mong cho dầu chìm xuống
đáy sông" điều đó không thể có được .
Như vậy giới hạn của sự cầu nguyện rất rõ : cầu nguyện không
phải muốn gì được nấy , không phải là xin ơn trên thoả mãn các yêu cầu bất
thiện của mình hay các niềm hy vọng của mình . Cầu nguyện về ma75t tâm lý giải
toả các ức chế nội tại , một tình trạng bức xúc cao độ , sự tuyệt vọng rất là
nguy hiểm , cầu nguyện sẽ làm giảm áp lực ấy . Mặt khác cầu nguyện là bày tỏ
những ước mơ , những hy cọng tạo nên khích lệ tinh thần tăng thêm sinh lực cho
con người vốn gặp nhiều đau khổ .
Điều chính của sự cầu nguyện trong đạo Phật đó là sự chuyển
hoá nghiệp lực . Nếu mình tạo tác ác nghiệp thì cầu nguyện là vô ích , cầu
nguyện theo hướng chuyển ác thành thiện thì sự cầu nguyện ấy được đạo Phật khuyến
khích chấp nhận .
Thông thường khi nói đến cầu nguyện ta thường nghĩ là nhờ
đến tha lực của Phật , Thánh … nhưng cầu nguyện trong Phật giáo không phải
thuần tuý nhờ vào tha lực mà nhờ vào tự lực là chính , cho nên câu nói :"
Linh tại ngã bất linh tại ngã" diễn tả đúng ý nghĩa này .
Tại sao có người cầu nguyện linh ứng , người khác lại không
? Điều đó tuỳ thuộc vào tự lực hơn là tha lực . Không phải Phật không thiêng mà
chính là "tự lực" chưa đủ , nói cách khác lòng thành kính , sự thành
tâm , nhất tâm và nghiệp lực chưa đủ . Khi một người niệm Phật cầu nguyện vãng
sanh cực lạc thế giới , nhưng niệm lực không đủ thì Phật không tiếp dẫn được .
Trong kinh A Di Đà nói rõ :" Nếu có chúng sinh trước khi lâm chung mà niệm
từ một cho đến mười niệm trong trạng thái " nhất tâm bất loạn" thì
liền vãng sanh cực lạc . Chứng tỏ cầu nguyện vẫn dựa vào "tự lực" là
chính.
VI. KẾT LUẬN
Cầu nguyện là một nhu cầu làm lắng dịu nổi lo âu , sợ hãi
phiền muộn , thất vọng . Cầu nguyện cũng là một cách thể hiện những ước mơ thầm
kín , niềm hy vọng , niềm tin vào cuộc sống . Qua các phương cách và đối tượng
cầu nguyện , con người có thể bày tỏ được niềm thương , nổi nhớ sự biết ơn và
báo ơn đối với ông bà cha mẹ , những người thân thuộc … Như vậy cầu nguyện là
một loại hình văn hoá đem lại niềm tin , củng cố đạo đức , thuần hoá tánh hung
dữ của con người .
Hơn nữa , cầu nguyện làm tăng thêm nghị lực , củng cố niềm
tin để hướng dẫn đời mình đi theo chân lý , lý tưởng cao thượng .
Khi con người chưa làm chủ hoàn toàn thân tâm chưa vượt qua
được những nổi lo âu , sợ hãi , chưa đạt được trình độ tu chứng , tự tại vô
ngại thì cầu nguyện có tác dụng hổ trợ cho mình vững tiến trên đường đạo . Chỉ
cần có sự thành thật , thành tâm và mục đích hướng thượng , hướng thiện thì sự
cảm ứng của Phật lực … chắc chắn xảy ra . Điều cần thận trọng là đừng rơi vào
cuồng tín , cực đoan , ỷ lại . Nếu cầu nguyện không đúng chánh pháp hay lạm
dụng cầu nguyện để thực hiện tham vọng riêng tư thì không những không linh ứng
mà còn phản tác dụng , tạo thêm ác nghiệp
0 nhận xét:
Đăng nhận xét