
Trong kinh Tứ thập nhị chương, do hai ngài Ma Đằng Ca Diếp
và Trúc Pháp Lan đời hậu Hán (Trung Quốc) dịch, phần Tổng khởi có ghi: “Thế Tôn
thành đạo dĩ, tác thị tư duy, ly dục tịch tĩnh thị tối vi thắng, trụ đại thiền
định, giáng chư ma đạo. Ư Lộc Uyển trung, chuyển Tứ đế pháp luân, độ Kiều Trần
Như đẳng ngũ nhân nhi chứng Đạo quả...”. Đoạn này có thể hiểu cách đơn giản là:
Sau khi thành đạo, Đức Thích Ca khởi niệm suy nghĩ, xa lìa ái dục được tĩnh tại
đệ nhất và đạt quả vị Chính đẳng Chính giác. Rồi Ngài an trụ trong thiền định
hàng phục và chế ngự mọi ma lực. Sau đó, tại vườn Lộc Uyển, Thế Tôn đã lấy giáo
lý Tứ đế để truyền giảng và độ nhóm ông Kiều Trần Như cùng năm người khác chứng
Đạo quả.
Điều này cho thấy tầm quan trọng của Tứ Diệu đế trong kinh điển
Phật giáo. Trong tư tưởng Phật giáo, Tứ đế hay Tứ Diệu đế là giáo lý cơ bản,
lấy con người làm trung tâm và vì con người mà thực hiện. Đức Phật đã nhận thấy
ở chúng sinh cái nhân thiện lành, đó là Phật tính, nếu biết tu tập đúng chính
pháp đều có thể thành Phật (Nhất thiết chúng sinh giai hữu Phật tính). Phật vì
lòng đại từ bi muốn lợi lạc cho chúng sinh mà thuyết giảng giáo pháp của mình.
Đây là giáo lý Đức Phật thuyết giảng trong thời kỳ đầu nên cũng gọi là giáo lý
Nguyên thủy.
Tứ đế hay Tứ Diệu đế là cách dịch của người Hán từ nguyên gốc Phạn
ngữ là Catuariyasacca, cũng có cách gọi khác là Tứ Chân đế, Tứ Thánh đế. Tứ là số từ bốn; Diệu là tuyệt vời, khéo, hay, diệu dụng,
mầu nhiệm; Đế là lời nói vững chãi, chắc thật, là
chân ngôn, lời nói luôn đúng với chân lý. Tứ Diệu đế là bố điều chắc thật, diệu
dụng không ai chối cãi được. Bốn đế lý ấy là:
Khổ đế (Dukkha Ariyasacca) nói về sự khổ ở đời. Khổ
không chỉ có nghĩa là cảm giác đau đớn, khổ nhọc thân, tâm mà còn chỉ trạng
thái cảm thấy không yên ổn, không thỏa mãn những mong muốn trong lòng. Tư tưởng
Phật giáo cho rằng, con người sinh ra ở đời là khổ: “Đời là bể khổ”. Từ khi
sinh ra đến lúc nhắm mắt xuôi tay không có lúc nào hết khổ. Vũ trụ tự nhiên thì
luôn trong quá trình biến đổi Thành - Trụ - Hoại - Không. Về thân xác con người
thì trải qua Sinh - Lão – Bệnh - Tử. Mà cả bốn quá trình ấy không khi nào xa
lìa nỗi khổ:Sinh khổ (sinh
ra là khổ), Lão khổ (quá trình già nua của thân thể là
khổ), Bệnh khổ (có bệnh tật đau ốm là khổ), Tử khổ (chấm dứt sự sống là khổ). Rồi sống
trong cuộc sống xã hội cũng luôn có nỗi khổ: Sở
cầu bất đắc khổ (mong muốn
mà không đạt được là khổ), Ái
biệt ly khổ (yêu thương nhau
mà phải xa lìa là khổ), Oán
tăng hội khổ (ghét thù nhau
mà phải sống gần nhau là khổ), Ngũ
thụ uẩn khổ (năm giác quan
tương tác với thế giới bên ngoài, thọ nhận tướng sắc của vật chất, bị hình
tướng của vật chất che mất bản chất và mãi bị mê muội theo nó là khổ). Đó là
tám nỗi khổ của con người mà Phật giáo gọi là Bát
khổ.
Theo quan niệm của Phật giáo thì những thứ khổ con người phải chịu
là cái khổ trong tam giới và đều là nhânđể
đời sau phải chịu quả trầm luân vào địa ngục, ngạ
quỷ, súc sinh. Vì sinh tử thật là khổ, không ai không gặp, không ai chối bỏ
được, nó như là cái hiển nhiên đối với con người, nên gọi là Khổ đế.
Tập đế (Samudayat Ariyasacca) nói về nguyên nhân
sự khổ. Tập có nghĩa là nhóm họp, gộp lại. Nếu quá khứ hay hiện tại con người
không biết được đời là khổ, không biết vạn vật hữu hình hay vô hình chỉ là giả
tạm, luôn biến đổi; không biết những ý nghĩ, lời nói và hành động của mình sẽ
gây ra nghiệp nên lần hồi cứ làm theo mãi, vì suy nghĩ và hành động xấu mà ngày
càng huân tập, nhóm góp điều xấu, bị xô đẩy trôi lăn mãi trong sinh tử luân
hồi, nên gọi là Tập.
Đức Phật dạy rằng, vì vô mình che lấp nên con người không nhận ra
thực tướng của vạn vật, rồi cứ tham đắm chạy theo cái hư ảo không vĩnh viễn đó
nên tạo ra nghiệp. Đó là nguyên nhân của nỗi khổ. Trong đó, có ba thứ độc (tam
độc): Tham (tham lam), Sân (giận, bực, nóng nảy), Si (ngu mờ, mê muội) là
nguyên nhân chính nhất của nỗi khổ. Xét cho kỹ thì mọi việc làm thiện, ác (sẽ
tạo ra các nghiệp) gắn liền với sinh tử trong tam giới mà con người không ai
không vướng mắc, nên gọi là Tập đế.
Diệt đế (Nirodha Ariyasacca) nói về sự khổ bị tiêu
diệt, được giải thoát. Diệt tức là tịch diệt hay Niết bàn. Nghĩa là nghiệp đã
hết không còn khổ lụy sinh tử luân hồi nữa. Khổ là mầm gốc của phiền não. Mà
phiền não được diệt nên những nghiệp quả trong tam giới cũng diệt. Nếu các
nghiệp phiền não trong tam giới đã diệt thì liền chứng đắc được cảnh giới Niết
bàn (Hữu dư Niết bàn). Khi xả báo huyễn thân (nghĩa là chết), thân tứ đại không
còn (nhà Phật dùng từ tịch hoặc tịch
diệt hay nhập Niết bàn) cái khổ của
đời sau không còn tương tục nữa, khi ấy gọi là Vô dư Niết bàn. Cảnh giới Niết
bàn thật vắng lặng, tĩnh tịch và an lạc, đoạn diệt hết thảy hoặc nghiệp luân
hồi nên gọi là Diệt đế.
Đạo đế (Magga Ariyasacca) nói về phương pháp diệt
trừ nguyên nhân sự khổ. Đạo là luân lý, là con đường đúng đắn, đạo còn có nghĩa
là năng thông năng đạt, nó chính là những phương pháp, là con đường để cho
chúng sinh theo đó mà tu tập để mong cầu vượt thoát khỏi trầm luân, khổ ải
trong tam giới. Trong đó, Đức Phật chỉ ra tám con đường chính, bao gồm: thấy
biết chân chính (chính kiến); suy nghĩ chân chính (chính tư duy); lời nói chân
chính (chính ngữ); nghề nghiệp chân chính (chính nghiệp); đời sống chân chính
(chính mệnh); siêng năng chân chính (chính tinh tiến); tưởng nhớ chân chính
(chính niệm); định tâm chân chính (chính định). Tám con đường chân chính ấy,
Phật giáo gọi là Bát Chính đạo.
Đạo đế có Ba mươi bẩy Phẩm trợ đạo và Bát Chính đạo nương trợ,
tương hỗ với nhau chắc chắn có thể đưa chúng sinh vượt qua khổ ải, chứng nhập
cảnh giới Niết bàn không hư dối, nên gọi là Đạo đế.
Phật giáo chủ trương vừa lấy trí tuệ diệt trừ vô minh, phá vòng
luân hồi sinh tử, vừa thực hành tu tập diệt trừ tham dục để chuyển nghiệp đạt
đến sự giải thoát. Tu hành để mong cầu giải thoát trong nhà Phật cũng có nhiều
phương cách. Phật nói có tám vạn bốn ngàn pháp môn, bất kỳ ai thấy khế hợp và
phát nguyện tu tập theo một pháp môn nào thì đều có thể trở thành bậc giác ngộ
giải thoát, vì Phật tính trong mọi chúng sinh là không khác nhau và mọi pháp
môn đều đưa đến giác ngộ. Tuy nhiên, cho dù là pháp môn nào đi nữa thì cũng lấy Tam vô lậu học (Giới - Định - Tuệ) làm căn bản và
cương yếu.
Kinh sách Phật giáo thường ghi, vì lòng bi mẫn với chúng sinh, vì
lòng thương tưởng với đời mà Đức Phật thị hiện ra ở cõi đời này. Ngài có mặt ở
đời vì một đại nhân duyên là cứu khổ độ sinh. Như vậy, với Tứ Diệu đế, Phật giáo đã giải
quyết vấn đề con người một cách rốt ráo, và Tứ Diệu đế cũng là giáo lý căn bản
mà bất kỳ một người xuất gia học Phật dù thuộc hệ phái nào đều phải biết tới và
tu tập theo để mong cầu giải thoát, chứng ngộ Niết bàn./.
Nguồn: Ban Tôn giáo chính phủ
0 nhận xét:
Đăng nhận xét