Sau đó, Đức Phật đi hoằng hóa khắp nơi, người quy hướng về Ngài xin xuất gia ngày càng đông, và dần dần tăng đoàn lớn mạnh. Trong suốt mười hai năm đầu, đại chúng tỳ kheo hoàn toàn thanh tịnh, tất cả mọi sinh hoạt đều nằm trong khuôn khổ của thiền định và tỉnh giác, người đắc Thánh quả nhiều, chưa có những điều phi pháp xảy ra. Nhưng càng về sau, tăng đoàn lớn mạnh, xen lẫn trong đại chúng thanh tịnh có những người làm điều phi pháp, phá vỡ sự thanh tịnh và hòa hợp, làm cản trở sự tu tập giải thoát. Chính vì thế, để ổn định tăng đoàn, Đức Phật đã chế định ra giới luật theo nguyên tắc “tùy phạm tùy chế”, phạm tới đâu chế tới đó, tạo nên kỷ luật cho đời sống xuất gia. Những điều giới mà Đức Phật chế ra trong suốt một đời được các vị đệ tử của Ngài gìn giữ, truyền thừa và kết tập lại thành một hệ thống gọi là Luật Tạng. Năm giới của cư sĩ tại gia, mười giới của sa di và sa di ni, 250 giới của tỳ kheo, 348 giới của tỳ kheo ni… cũng được trích ra từ đó.
Trong một cơ
quan xí nghiệp, tập thể hay tổ chức nào cũng đều có luật lệ, nội quy, quy định
cho những thành viên trong đó thực hiện. Đây là một điều kiện tất yếu không thể
thiếu, nhằm ổn định trật tự, nề nếp của tổ chức đó và ngăn ngừa những hành vi
phạm pháp hay buông lung biếng nhác của các thành viên. Đạo Phật cũng phải có
giới luật để người xuất gia lấy đó làm cương lĩnh tu tập, chuyển hóa bản thân,
“phòng phi chỉ ác”. Như vậy, giới luật nhằm ổn định quy củ Thiền môn trong tăng
đoàn, tạo nên sức mạnh về kỷ luật trong đời sống tâm linh của người tu. Cho
nên, giới luật là thọ mạng của Phật Pháp. “Tỳ ny tạng giả Phật Pháp thọ mạng.
Tỳ ny tạng trụ Phật Pháp diệc trụ, Tỳ ny tạng diệt Phật Pháp diệc diệt”.
Một người
xuất gia chân chính, đi theo bước đường hành đạo, truyền thừa mạng mạch Phật
Pháp thì không thể không giữ giới. Chúng ta có thể kém tài, nhưng đối với giới
luật mà mình đã lãnh thọ thì phải “tịnh như băng tuyết”. Kinh Đại Thừa Bổn Sanh
Tâm Địa Quán, Phật dạy: “Vào biển Phật Pháp lấy đức tin làm căn bản, vượt dòng
sanh tử lấy giới luật làm thuyền bè. Nếu người xuất gia mà không giữ giới cấm,
lại tham đắm, vướng mắc những thú vui thế tục, hủy báng giới pháp của Chư Phật,
hạng tỷ kheo như thế không còn được gọi là người xuất gia nữa”. Chúng ta là
những trưởng tử Như Lai, giữ gìn mạng mạch Phật Pháp để lưu truyền nơi thế
gian, lãnh trách nhiệm “tác Như Lai sứ, hành Như Lai sự”, muốn cho chánh pháp
trường tồn thì phải lấy giới làm Thầy. Ba đời chư Phật đều nương vào giới luật
mà tu tập cho đến khi thành tựu đạo quả. Khi Đức Thế Tôn sắp nhập niết bàn,
Ngài cũng đã dạy: “Này các tỳ kheo, sau khi ta diệt độ, các vị cần phải tôn
trọng kính ngưỡng Ba-la-đề-mộc-xoa (giới luật), như kẻ mù tối được sáng mắt, kẻ
nghèo hèn được vàng ngoc. Phải biết giới luật là bậc Thầy cao cả của các vị. Dù
ta ở đời cũng không khác gì giới luật ấy” (Kinh Di Giáo). Như vậy, khi nào
không còn người giữ giới nữa thì Phật Pháp cũng từ đó mà hoại diệt, vì không
còn người đủ tư cách, đức hạnh để tuyên dương chánh pháp của Như Lai. Nên biết
rằng, Đạo Phật chủ trương “hạnh giải tương ưng”. Một người dù cho kiến thức
Phật Pháp uyên bác, thông suốt đến đâu nhưng đời sống lại buông lung phóng dật,
không đầy đủ giới luật, oai nghi tế hạnh thì đó cũng chỉ là lý thuyết suông, có
nói hay đến mấy cũng không đủ sức thuyết phục, cảm hóa người khác bằng thân
giáo của mình. Cho nên, muốn trở thành một bậc pháp khí trong hàng Tăng Bảo, là
bậc Chúng Trung Tôn thì trước tiên phải giữ gìn oai nghi giới luật, làm mô phạm
trong chốn già lam, gây niềm tin cho những người mình muốn giáo hóa. Nhờ đó mà
Phật Pháp được trường tồn, chúng sanh lợi lạc. Như vậy, giới luật không chỉ là
thọ mạng của Phật Pháp mà cũng là thọ mạng của người xuất gia.
Nhờ có giới
mà chúng ta thúc liễm được thân tâm mình, không để ý nghĩ điều ác, miệng nói
điều ác, thân làm việc ác. Từ đó phát sinh các thiện pháp và thể hiện ra bên
ngoài bằng sự nghi biểu của thân. Trong tam vô lậu học, giới là nền tảng căn
bản cho định và tuệ. “Nhân giới sanh định, nhân định phát tuệ”. Ví như một ngọn
đèn dầu, nhờ có bóng đèn (giới) chụp lại bên ngoài mà ngọn đèn mới đứng yên,
không bị chao đảo trước gió (định), từ đó phát ra ánh sáng rõ ràng (huệ) chiếu
soi mọi vật xung quanh. Cũng thế, giới làm cho tâm chúng ta nhu nhuyến, an
định, bớt phan duyên theo trần cảnh bên ngoài để deã beà höôùng noäi, töï soi
roïi laïi baûn taâm baûn taùnh cuûa chính mình; töø ñoù phaùt sinh trí tueä,
phaù tan maøn voâ minh taêm toái, đạt đến giác ngộ giải thoát. Kinh Hoa Nghiêm,
Đức Phật dạy: “Giới là cội gốc của Bồ đề, là cửa ngõ của niết bàn, là chiếc
thuyeàn ñöa chuùng sanh qua bieån sanh töû, laø chuoãi anh laïc ñeå trang
nghieâm thaân”. Nhö vaäy, moät haønh giaû muoán böôùc tieán treân con đường
giải thoát thì không thể không giữ giới. Nhờ sự chế ngự của giới làm tường rào
vững chắc, chúng ta mới thật sự có được một đời sống thanh tịnh, tự do và an
lạc.
Phân tích về
giới gồm hai phương diện: tự lợi và lợi tha. Xu hướng tự lợi (nhiếp luật nghi
giới) là giữ gìn giới luật oai nghi để tự trang nghiêm thân. Xu hướng lợi tha
(nhiếp thiện pháp giới, nhiêu ích hữu tình giới) là làm tất cả những thiện sự
để cứu giúp chúng sanh (thực hành tứ nhiếp pháp) và đem chánh pháp giáo hóa tất
cả chúng sanh. Như vậy, một hành giả muốn bước đi trên con đường tự lợi và lợi
tha thì phaûi vöøa töï mình giöõ giôùi cho thanh tònh, sau ñoù ñem giaùo phaùp
hoằng hóa lợi sanh, đồng thời làm tất cả mọi thiện sự để cứu giúp muôn loài. Có
như vậy thì ngôn hành mới khế hợp.
Theo tinh
thần đại thừa, giới gồm có giới tướng và giới tánh. Giới tướng là những điều
giới do Đức Phật chế ra, có quy định thành điều tướng rõ ràng nhằm ngăn chặn,
phòng ngừa những hành vi ác. Vì vậy, giới tướng của hàng Thanh Văn chỉ có xu
hướng tự lợi chứ chưa thể lợi tha, nhập thế tích cực, vào đời độ sanh được. Còn
giới tánh (Ñaïi thöøa giôùi) chuù troïng veà nhieáp taâm, ngaên chaën nhöõng yù
nieäm baát thieän vöøa môùi khôûi leân, quaùn xeùt taâm yù moät caùch miên mật,
thấu triệt; từ đó mới có thể tùy duyên hóa đôï được. Vì vậy, Phật giáo đại thừa
chú trọng tâm giới hơn giới tướng, nhiếp phục tâm ý như chăn giữ con trâu cho
đến khi nào thật sự thuần thục, “con trâu trắng sờ sờ, đuổi hoài không đi” mới
có thể an tâm mà “thỏng tay vào chợ”. Nói cách khác, tư tưởng đại thừa truy
nguyên nguồn gốc từ động cơ tâm ý mà diệt trừ chứ không phí sức mà lo chặt bỏ
ngọn ngành bên ngoài. Lục Tổ nói: “Đức Phật chế tất cả pháp để độ tất cả tâm.
Ta không tất cả tâm, cần chi tất cả pháp” (Kinh Pháp Bảo Đàn). Tâm không thì
các pháp cũng không, tâm tònh thì quoác ñoâï tònh, taâm dieät thì toäi lieàn
tieâu. Ñaây laø giaùo lyù “vaïn phaùp duy taâm” raát uyeân aùo vaø vi dieäu.
Kinh Pháp Cú
1 và 2 ghi rằng:
“Ý dẫn đầu các pháp
Ý làm chủ tạo
tác
Nếu với ý nhiễm ô
Nói năng hay hành
động
Khổ não bước theo sau
Như xe chân vật kéo”.
“Ý dẫn đầu các pháp
Ý làm chủ tạo tác
Nếu với ý trong sạch
Nói năng hay hành
động
An lạc liền theo sau
Như bóng không rời hình”.
Đạo Phật chú
trọng đến động cơ luận hơn là kết quả luận. Nói theo cách thông thường là
“phòng bệnh hơn chữa bệnh”, “phòng cháy hơn chữa cháy”. Vì vậy mới nói: “Bồ tát
sợ nhơn, chúng sanh sợ quả”. Luật pháp thế gian chỉ xử phạt khi xác định được hành
vi phạm tội của một người, nhưng đối với tinh thần của Đạo Phật, họ đã có tội
ngay khi những ý niệm bất thiện vừa khởi lên trong tâm. Sở dĩ chúng ta luân hồi
trong ba cõi cũng chính do những ý niệm bất thiện này làm chủ, sai khiến thân
hành động ác, miệng nói lời thô ác.
“Tâm như họa sĩ khéo
Vẽ thế giới muôn màu
Đọa sa hay thành
Phật
Cũng tâm ấy mà ra”.
Nếu chúng ta luôn kiểm thúc được thân và tâm mình trong mọi
thời khắc của đời sống thì sẽ phát sinh năng lực để thanh tịnh hóa tâm
thức.
Chính vì chú trọng đến động cơ tâm ý nên giới không chỉ là
“chỉ trì tác phạm” (dừng là giữ, làm là phạm) mà còn là “chỉ trì tác trì” (dừng
là giữ, làm cũng là giữ). Ví dụ, giới luật quy định không được nói dối, nhưng
nếu vì phương tiện quyền xảo, thể hiện lòng từ bi để cứu người thì được. Vì vậy
mà có khai, giá, trì, phạm. Giới luật Đức Phật chế ra mục đích không phải chỉ
để chấp chặt trong khuôn khổ phép tắc mà chủ yếu là điều phục tâm, nên có thể
thực hiện theo tinh thần “tùy duyên nhi bất biến, bất biến nhi tùy duyên”.
Nhưng cũng có người lại tự cho mình chứng ngộ, cũng bắt chước “hồn nhiên mặc áo
xiêm” như các Ngài, ăn thịt uống rượu, buông lung phóng túng, không giữ gìn oai
nghi phép tắc, thật đáng chê trách lắm thay! Đó chính là họ đang tạo nhơn vào địa
ngục mà không hay. Chúng ta chưa phải là những bậc thượng căn thượng trí, không
thể tu tập theo con đường đốn giáo thì không được lìa bỏ giới tướng mà vượt
bậc. Phải biết nương vào giới luật làm phương tiện qua bờ bên kia, như dây sắn
quấn theo cây tùng mà vươn lên cao. Ngoài ra phải thường hành hạnh khiêm cung
nhu hòa, học tập theo gương sáng, đức hạnh của các bậc thượng lưu, làm kim chỉ
nam cho mình tiến tu.
Trong suốt cuộc đời tu của người xuất gia, hai dấu ấn có thể
nói là quan trọng và sâu đậm nhất là ngày thế phát xuất gia và khi đăng đàn
lãnh thọ giới pháp. Đối trước Phật đài trang nghiêm, đàn tràng thanh tịnh,
hương trầm nghi ngút, với đầy đủ tam sư thất chứng, tứ vị dẫn thỉnh, đông đảo
giới tử một lòng chí thành cầu thọ giới pháp…; đó là thời khắc thiêng liêng
nhất, là một dấu ấn đẹp trong suốt cuộc đời tu, cũng là điểm khởi đầu cho chúng
ta nhận lãnh pháp mầu, cầu thọ tịnh giới của Như Lai để trì giữ. Thiết nghĩ,
mỗi vị giới tử nên nhứt tâm chánh niệm, một lòng chí thành hướng về ngôi Tam
Bảo, lắng động mọi vọng tưởng để lóng lòng nghe kỹ những lời khai đạo của chư
vị giới sư, ngõ hầu làm phương châm cho chính mình mà tiến đạo nghiêm thân. Và
cũng nên khắc ghi mãi hình ảnh này để nuôi dưỡng tâm bồ đề ngày càng lớn mạnh,
chí xuất trần thượng sĩ thật kiên cố, hầu mong “thượng báo tứ trọng ân, hạ tế
tam đồ khổ” để không cô phụ công ơn Thầy Tổ, cha mẹ và lí tưởng xuất gia của
chính mình.Từ vô thỉ kiếp đến nay, do vô minh mê lầm mà chúng ta maõi laên loùc
luaân hoài trieàn mieân trong ba coõi. Nay böôùc chaân vaøo đạo, nhận ra được
con đường chân chánh, nhờ ánh sáng Phật Pháp soi rọi, nhờ giới pháp thanh tịnh
trang nghiêm mà chúng ta dần dần đoạn trừ bớt những tập khí phiền não sâu dày
để trở veà vôùi chôn taâm, phaät taùnh baát sanh baát dieät haèng höõu. Chính
nhôø giới luật đã làm nền tảng cho sự tiến bước đó. Đời sống của giới là đời
sống của sự hòa hợp và thanh tịnh; đó cũng chính là ý nghĩa của Tăng (Sangha).
Như vậy, một đoàn thể tăng thanh tịnh và hòa hợp đúng nghĩa là một đoàn thể
tăng có giữ giới. Cơ sở tự viện nào có nề nếp thanh quy nghiêm ngặt, đó là môi
trường tốt để đào tạo tăng tài cho Đạo Pháp và dân tộc. Đạo Phật có tồn tại và
phát triển hay không chính là nhờ những thế hệ tăng đủ tài đủ đức này. Tài năng
nhờ hiểu sâu Phật Pháp, đức hạnh nhờ giữ giới tinh chuyên. Có tài mà không có
đức thì chưa phải là người xuất gia đệ tử Phật chân chính. Cho nên, có thể
khẳng định lại: Giới luật chính là thọ mạng của Phật Pháp vậy.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét