
Pháp lìa ngã của
Phật giáo không phải là một triết lý, mà hẳn là một hành động có liên hệ mật
thiết không thể thiếu giữa thân và tâm.
Phật pháp là pháp giải
thoát lìa thế gian. Pháp lìa thế gian là pháp không đi ngược lại với cái biết,
nhưng phải dựa trên cái biết và vượt trên mọi cái biết bằng một chánh pháp.
Vì lẽ, cái biết nằm trong
kiến thức, kiến thức là cái gì gom góp, vay mượn từ hoàn cảnh chung quanh, được
cho vào ký ức. (Dù gà con cần vỏ trứng để bao che và trưởng thành, nhưng cứ
ở mãi trong vỏ trứng, tuyệt đối sẽ không bao giờ trỡ thành con gà). Thế
rồi xào nấu ra sản phẩm mới, có nguồn gốc của vay mượn và được bổ sung có thứ
tự để không bị cho là đạo văn, đạo tư tưởng. Giải thoát ra khỏi biên kiến của
đối đãi, chứ không phải sao chép tư tưởng từ đấng giải thoát. (Thức là học
hành mới có, Trí là tu luyện mới có). Bức tường kiến thức là nhà tù giam
những kẻ không có khả năng vượt lên chính mình, và luôn ngoan ngoãn làm việc và
suy luận theo cái biết của mình. Cái biết này cũng phải trả cái giá rất đắt.
Nhà tù này luôn là chỗ sơn son phết vàng, để những ai có đầy đủ tham vọng sẽ
tiến mãi lên tới đỉnh của...dục vọng. Thế rồi tù nhân này ngũ một giấc thật
dài, đến khoảng chừng 36 ngàn ngày, rồi cái biết ấy sẽ vô nghĩa, khi hơi thở
sau cùng sẽ mang kiến thức kia và trở thành nghiệp lực cho kiếp kế tiếp. Đạo
Phật gọi là nghiệp quả luân hồi .
Cho dù vay mượn hay tự
khám phá ra hằng hà triết lý phi thường, thì triết lý đó cũng sẽ phải tàn lụi,
chỉ vì chúng có tính cách đối đãi, nằm trọn vẹn trong biên kiến của tốt xấu,
thiện ác, cao thấp. Chúng sẽ phải đào thải bởi vô thường, không ai tránh khỏi
luật chi phối này.
Khác với pháp lìa ngã,
khi tu hành và đạt tới cảnh giới lìa ngã rồi thì thức biến thành trí. Ví dụ
uống một ngụm trà nóng, chúng ta không cần phải có kiến thức sâu rộng để biết
được độ nóng như thế nào, sự cảm nhận tự nhiên đó đến với ta trước khi thức
thần phân tích loại trà này có nguồn gốc mà ký ức có cơ hội phân biệt ngon dở,
mắc rẻ....
Biên kiến này sở dĩ có,
từ bao nhiêu kinh nghiệm uống trà, khác với người chưa bao giờ dùng trà, trong
khi hương vị của trà vẫn cố hữu, ngon hay dở tại vì kinh nghiệm khác nhau của
từng cá nhân khi uống cùng một loại trà. Mỗi ngày qua rất nhiều người thấy ánh
mặt trời, dù chỉ có một mặt trời, nhưng thiên hạ có khá nhiều ý tưởng khác
nhau, vì kinh nghiệm khác nhau, nên sự hiểu biết có khác về chỉ một vấn đề.
Nhìn cái gì trước mắt, ký
ức liền chọn một tiền kiến nào đó, để ký ức để so sánh, trong thư viện ngổn
ngang này chất chứa từ vô lượng kiếp, nẩy ra một tiêu chuẩn đã có trước, thế
rồi thần thức phán quyết cho một cái nhìn y hệt như đã biết. (Lần đầu nhìn hoa
hồng, có ai biết được màu đỏ thẳm của hồng đẹp cở nào). Cái biết này không chạy
ra khỏi nhị biên của thế giới đối đải. Trong khi pháp lìa ngã vượt khỏi chính
mình, vượt lên khỏi tiền kiến hoà nhập với hư vô, nơi đó không có chỗ đứng của
thần thức.
Khi thiện ác là cây thước
đo đạo đức đời sống, thì cái thiện là cái nghịch đảo của cái ác. Dĩ nhiên từ
thuở nhỏ, chúng ta học bài học đạo đức, có ghi rõ thiện ác, người, ta, sống
chết. Đó là chuyện thế gian pháp.
Pháp lìa ngã vượt ra khỏi
Nhân, Ngã, Thiện, Ác, Sanh, Tử. (vô ngã vô nhân, phi thiện ác, liểu sanh tử).
Và dĩ nhiên dựa vào thế gian để chế ngự bằng pháp lìa ngã, sống với thế gian mà
không hoà nhập với thế gian.
Khi lìa ngã rồi, thì yếu
tố không gian và thời gian không còn tồn tại nữa. Đạo Phật nhìn nhận đau khổ và
hạnh phúc của thế gian, nếu thế gian không có hạnh phúc và đau khổ thì làm sao
con người phải điêu đứng như vậy. Chỉ vì không gian và thời gian là hai yếu tố
ảo, chỉ được xác định bởi tư lương, khi động thì thời gian và không gian có vị
trí hẳn hòi trong ta, khi tịnh thì chúng không có khả năng tồn tại, vì không có
tự tánh.
Trong đời sống hàng ngày,
chúng ta động trong động, khi ngủ, tịnh trong mê, khi tịnh là định trong tịnh.
Chính ngay lúc này là lúc còn gọi là Chơn Động. Lúc chơn động mọi sinh hoạt tùy
duyên theo yếu lý của mọi duyên nghiệp, (thiên
tai do cộng nghiệp mà có, chứ chẳng ai làm ra vì muốn như vậy).Nếu cần mọi
duyên nghiệp sẽ phải triệt tiêu một cách tự nhiên vì nghiệp không có tự tánh
không thể tồn tại.
Chúng ta không thể dùng
thế gian pháp để giải thoát. Đạo Phật không chỉ là sự hiểu biết để ngăn ngừa,
suy luận, đè nén, tránh né. Mà chính đạo Phật giúp lìa mọi sự dính mắc. Chỉ vì
Phật tánh vốn hoàn hảo, khi ta tu, tức là dọn dẹp cắt xén, tắm gội cho đến khi
nào không còn cái gì có thế lấy ra nữa. Cái còn lại sau cùng không thể tách ra
được nữa, chính là chân tánh, chân tánh có tự tánh, hay còn gọi là Phật tánh.
Tìm Phật, tuyệt đối không
cầu mong ở ngoài ta. Khi bảo rằng không ở ngoài, có nghĩa là phải tìm nơi chính
ta, chứ không phải vị Phật nào bên ngoài, khi tìm ở chính ta, bởi chính ta,
tuyệt đối văn tự không cần thiết trong tiến trình này.
Tìm Phật tánh của mình,
chứ không tìm vị Phật nào cả. Nếu niệm Phật để trừ vọng niệm, tạp niệm thì cũng
nên. Chứ niệm Phật để thành Phật, e rằng chúng ta chưa thực hiện đúng pháp
chánh niệm. Đức Phật xưa kia niệm ai mà thành?? Vì âm thinh, sắc tướng, hẳn không
phải là chánh pháp tuyệt đối để giải thoát (trong kinh Kim Cang có ghi như
vậy). Văn tự vốn chuyên chở triết lý, khi yếu tố văn tự mang bản chất
không tuyệt đối của thực thể, thì số phận của triết lý kia đi về đâu?? Đừng
hòng dùng văn tự để diễn tả hạnh phúc và đau khổ, chỉ có những người trong
cuộc, tự thân chứng lấy hoàn cảnh của họ mà thôi.
Chỉ vì chúng ta chưa thấy
Phật mà dám niệm Phật, e rằng đó là tà niệm??? Niệm bằng tâm tư nhất tâm bất
loạn, hay bất ổn?? (kinh Bát Nhã đã phủ nhận mọi giá trị của ngũ uẩn, vậy
ai có đủ khả năng niệm bằng chánh niệm??).
Ngặt nổi, vốn lục dục là
của nguồn gốc phiền não, chúng ta tại sao không vô hiệu hoá lục thức bằng cách
“Nhìn vô, nghe vô, thở vô, tưởng vô, nghĩ vô cùng một lúc....” Hướng
lục thức về một chỗ chung. Chỗ chung này là điểm chung của lục thức, ở vị trí
không phải bên ngoài có thể rờ ngắm được, dần dà lục thức sẽ phải thuần, chỗ ấy
còn gọi là vô sở trụ. (trong kinh Kim Cang có ghi chỗ này).
Tránh né lục thức bằng
cách đối đãi, thì chúng ta đã đi ngược lại với kinh Bát Nhã, vì hẳn mọi sự liên
hệ của lục căn hoàn toàn không có tự tánh, là huyễn, ngũ uẩn vốn giai không,
dùng chúng đặt để một điều gì, quả là ngoại vi, hư ảo, vốn không thật.
Pháp lìa ngã của Phật
giáo không phải là một triết lý, mà hẳn là một hành động có liên hệ mật thiết
không thể thiếu giữa thân và tâm. Nếu tu hành chỉ một trong thân và tâm, còn
cho là bị chứng cô thiên, có nghĩa là cô âm, độc dương, chứ đáng lẽ ra phải tu
hành theo lối âm dương. Hành giả còn phải được thân chứng, vì sống với nó, chứ
không phải chỉ nghe qua và biết như vậy mà cần phải tự thân mình ấn chứng. Có
con chim nào bay bằng một cánh bao giờ. Có sự trưởng thành nào mà thiếu sự
trưởng dưỡng của âm dương, nhìn vạn vật khi hạt nẩy mầm, chuyện đầu tiên là vỡ
làm đôi, chúng ta đã thấy biểu tượng âm dương từ vạn thể của thiên nhiên, cũng
chính hai yếu tố âm dương là ngưỡng cửa bắt đầu của tiến trình lìa ngã. Muốn
trở về với hư vô, mà không bắt nguồn từ bản thể thiên nhiên, khó mà hoà nhập
với hư vô.
Pháp Bất Lập Văn Tự mưu
tìm giải thoát có liên quan gì đến Tứ Diệu Đế, Thập Nhi Nhân Duyên, Bát Chánh
Đạo và hàng hà sa số có trong kinh, luật, luận của Phật giáo.
Phật đã bảo “Suốt
49 năm ta không nói một lời gì về đạo”. Vậy chúng ta đang theo pháp giải
thoát nào vậy?. Công
Truyền hay Mật Truyền?, pháp nào
là pháp Phật, pháp nào là pháp Thế Gian?. Chánh pháp nhãn tạng của đức
Phật hiện giờ ai đang gìn giữ?. Là Phật tử, chúng ta có nói ngoa không? Có vô
tình phỉ báng Ngài khi chúng ta gọi nhau là Phật tử, vì có quá nhiều tông phái,
duy chỉ có một chánh pháp mà thôi. Trong khi hằng hà con Phật đang lang thang
lê lết trên 84 vạn nẽo đường tu học... đâu là Pháp Phật, đâu là pháp Thế Gian???
Đức Phật không phải là
nhà đạo đức học, Ngài cũng không phải là nhà tư tưởng, không phải là vị thần
linh. Thậm chí nếu dâng tặng cho Ngài vài chục cái giải Nobel, thì cũng chỉ vất
sọt rác mà thôi. Hãy bỏ Ngài ra khỏi định kiến của thế gian, đừng dùng ngôn ngữ
thế gian để hòng ca tụng Ngài uổng công, một khi đã lìa ngã rồi, thế gian ảo
này, không còn là thực thể có đủ yếu tố để cần lý luận từ một đấng giải thoát.
Khi âm dương hiệp nhất,
thì thần thức, ký ức, sẽ không còn chỗ nương tựa nữa. Chính ngay lúc này, sự
dao động một cách tự nhiên trong thân, tâm mà không dùng đến mọi giá trị của
văn tự, âm thanh, sắc tướng, niệm, nguyện bất cứ ai, chính là cửa ngõ của giải
thoát hay còn gọi là lìa ngã, không dính mắc bất cứ trạng thái nhị nguyên nào
trước kia. Cảnh giới này không phải là ngoan không. (khi tâm sở đã bị vô
hiệu hoá, chính tâm vương là mầm của chơn chủng tử). Phật pháp khác với
thế gian pháp là ở chỗ này.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét