Đạo
Phật ra đời ở Ấn Độ từ thế kỷ thứ VI trước công nguyên, trong điều kiện xã hội
phân chia theo chế độ đẳng cấp bất bình đẳng. Đạo Phật ra đời là sự kế thừa,
tiếp nối các trào lưu tôn giáo, triết học nổi tiếng của Ấn Độ cổ đại và được
coi là một trong những học thuyết xã hội chống lại sự bất công trong xã hội
đương thời.
ĐÔI NÉT VỀ ĐẠO PHẬT
Người sáng lập ra đạo Phật là Thái tử Tất Đạt Đa (Shidartha) sinh
năm 624 trước công nguyên thuộc dòng họ Thích Ca (Sakyà), con vua Tịnh Phạn
Vương Đầu Đà Na (Sudhodana) trị vì nước Ca Tỳ La Vệ (Kapilavasu) xứ Trung Ấn Độ
lúc đó và hoàng hậu Ma Da (Maya). Dù sống trong cuộc đời vương giả nhưng Thái
tử vẫn nhận ra sự đau khổ của nhân sinh, vô thường của thế sự nên Thái tử đã
quyết tâm xuất gia tìm đạo nhằm tìm ra căn nguyên của đau khổ và phương pháp
diệt trừ đau khổ để giải thoát khỏi sinh tử luân hồi. Sau nhiều năm tìm thày
học đạo, Thái Tử nhận ra rằng phương pháp tu hành của các vị đó đều không thể
giải thoát cho con người hết khổ được. Cuối cùng, Thái tử đến ngồi nhập định
dưới gốc cây Bồ đề và thề rằng “Nếu Ta không thành đạo thì dù thịt nát
xương tan, ta cũng quyết không đứng dậy khỏi chỗ này”. Sau 49 ngày đêm
thiền định, Thái tử đã đạt được Đạo vô thượng, thành bậc “Chánh đẳng chánh
giác”, hiệu là Phật Thích Ca Mâu Ni. Đó là ngày 08 tháng 12 năm Đức Phật
31 tuổi.
Tư tưởng chủ đạo của đạo Phật là dạy con người hướng thiện, có tri
thức để xây dựng cuộc sống tốt đẹp yên vui trong hiện tại. Đạo Phật không công
nhận có một đấng tối cao chi phối đời sống của con người, không ban phúc hay
giáng hoạ cho ai mà trong cuộc sống mỗi người đều phải tuân theo luật Nhân - Quả,
làm việc thiện thì được hưởng phúc và làm việc ác thì phải chịu báo ứng. Đạo
Phật còn thể hiện là một tôn giáo tiến bộ khi không có thái độ phân biệt đẳng
cấp. Đức Phật đã từng nói: “Không có đẳng cấp trong dòng máu cùng đỏ như
nhau, không có đẳng cấp trong giọt nước mắt cùng mặn”. Ngoài ra, đạo Phật
cũng thể hiện tinh thần đoàn kết và không phân biệt giữa người tu hành và tín
đồ, quan điểm của đạo Phật là “Tứ chúng đồng tu”, đó là Tăng, Ni, Phật
tử nam và Phật tử nữ đều cùng được tu và nếu ai có quyết tâm đều có thể thành
tựu như Đức Phật.
Khác với một số tôn giáo lớn trên thế giới, đạo Phật chủ trương
không có hệ thống tổ chức thế giới và hệ thống giáo quyền. Điều này xuất phát
từ lý do Đức Phật hiểu rõ sự ham muốn quyền lực của con người, do đó Đức Phật chủ
trương không giao giáo quyền quản lý cho ai mà chỉ hướng dẫn đệ tử nương vào
giáo lý, giáo luật để duy trì và tồn tại theo hệ thống sơn môn (như dòng họ thế
tục ngoài đời).
Một đặc điểm nổi bật của đạo Phật là một tôn giáo hoà bình, hữu
nghị, hợp tác. Trải qua hơn 25 thế kỷ tồn tại và phát triển, đạo Phật du nhập
vào trên 100 nước trên thế giới, ở hầu khắp các châu lục nhưng luôn với trạng
thái ôn hoà, chưa bao giờ đi liền với chiến tranh xâm lược hay xảy ra các cuộc
thánh chiến. Tính đến năm 2008, đạo Phật có khoảng 350 triệu tín đồ và hàng
trăm triệu người có tình cảm, tín ngưỡng và có ảnh hưởng bởi văn hoá, đạo đức
Phật giáo.
Về giáo lý, giáo luật, lễ nghi của đạo
Phật:
Kinh sách của Phật giáo được chia làm 3 tạng (Tam tạng kinh
điển):
- Kinh tạng: là
những sách ghi chép lời Phật giảng dạy về giáo lý, còn gọi là Khế kinh, có
nghĩa như là một chân lý.
- Luật
tạng: là sách ghi chép những giới luật của Phật chế định dành cho 2 chúng xuất
gia và 2 chúng tại gia phải tuân theo trong quá trình sinh hoạt và tu học, đặc
biệt là các quy định đối với hàng đệ tử xuất gia.
- Luận
tạng: là sách giảng giải ý nghĩa về kinh, luật.
Về số
lượng, kinh sách của Phật giáo được coi là một kho tàng vĩ đại. Riêng Đại tạng
kinh có gần 10.000 pho sách, ngoài ra còn rất nhiều những trước tác, bình luận,
giải thích giáo lý và rất nhiều các lĩnh vực khác, như: Văn học, triết học,
nghệ thuật, luân lý học được truyền bá khắp thế giới và được dịch ra nhiều thứ
tiếng. Nguyên bản thì chép bằng chữ Pali và chữ Phạn.
* Giáo lý:
Giáo lý của đạo Phật có rất nhiều nhưng đều xuất phát từ thực tế
cuộc sống, không trừu tượng, siêu hình, giáo điều hay khiên cưỡng, không ép
buộc mà hoàn toàn chỉ mang tính định hướng để cho mọi người tuỳ điều kiện, hoàn
cảnh, nhận thức áp dụng linh hoạt để dù tu theo cách nào trong 84.000 pháp môn
tu Đức Phật đã chỉ ra thì cuối cùng cũng đạt đến mục đích sống yên vui, ấm no
và hạnh phúc cho mỗi người, cho gia đình và xã hội.
Giáo
lý cơ bản của đạo Phật có 2 vấn đề quan trọng, đó là Lý Nhân duyên và Tứ Diệu
đế (4 chân lý).
Lý Nhân duyên
Phật giáo
quan niệm các sự vật, hiện tượng trong vũ trụ luôn luôn vận động và biến đổi
không ngừng theo quy luật Thành - Trụ - Hoại - Không (mỗi sự vật đều có quá
trình hình thành, phát triển và tồn tại một thời gian, rồi biến chuyển đi đến
huỷ hoại và cuối cùng là tan biến, ví như một làn sóng, khi mới nhô lên gọi là
“thành”, khi nhô lên cao nhất gọi là “trụ”, khi hạ dần xuống gọi là “hoại”, đến
khi tan rã lại trở về “không”) và đều bị chi phối bởi quy luật nhân - duyên,
trong đó nhân là năng lực phát sinh, là mầm để tạo nên quả và duyên là sự hỗ
trợ, là phương tiện cho nhân phát sinh, nảy nở. Tuỳ vào sự kết hợp giữa nhân và
duyên mà tạo thành các sự vật, hiện tượng khác nhau. Có hay không một hiện
tượng, sự vật là do sự kết hợp hay tan rã của nhiều nhân, nhiều duyên.
Nhân và duyên cũng không phải tự nhiên có mà nó được tạo ra bởi sự
vận động của các sự vật, hiện tượng và quá trình hợp - tan của các nhân - duyên
có trước để tạo ra nhân - duyên mới, Phật giáo gọi đó là tính “trùng trùng
duyên khởi”.
Về con người, Phật giáo cho rằng cũng không nằm ngoài quy luật:
Thành - Trụ - Hoại - Không, hay nói cách khác bất cứ ai cũng phải tuân theo quy
luật: Sinh - Trụ - Dị - Diệt (đó là chu trình con người được sinh ra, lớn lên,
tồn tại, thay đổi theo thời gian và cuối cùng là diệt vong). Khi con người mất
đi thì tinh thần cũng theo đó mà tan biến. Phật giáo không công nhận một linh
hồn vĩnh cửu, tách rời thân thể để chuyển từ kiếp này sang kiếp khác.
Phật giáo
quan niệm con người được sinh ra không phải là sản phẩm của một đấng tối cao
nào đó, càng không phải tự nhiên mà có. Sự xuất hiện của một người là do nhiều
nhân, nhiều duyên hội hợp và người đó không còn tồn tại khi nhân duyên tan rã.
Nhân - duyên ở đây được Phật giáo khái quát thành một chuỗi 12 nhân duyên (thập
nhị nhân duyên), là sợi dây liên tục nối tiếp con người trong vòng sinh tử luân
hồi: 1) Vô minh; 2) Hành; 3)Thức; 4) Danh sắc; 5) Lục nhập; 6) Xúc; 7) Thụ; 8)
Ái; 9) Thủ; 10) Hữu; 11) Sinh; 12) Lão tử. Trong đó, Vô minh là duyên của
"Hành", Hành là duyên của "Thức", Thức là duyên của
"Danh sắc", Danh sắc là duyên của "Lục nhập", Lục nhập là
duyên của "Xúc", Xúc là duyên của "Thụ", Thụ là duyên của
"Ái", Ái là duyên của "Thủ", Thủ là duyên của
"Hữu", Hữu là duyên của "Sinh", Sinh là duyên của "Lão
tử". Phật giáo cho rằng 12 nhân duyên có quan hệ gắn bó mật thiết với
nhau, cái này là quả của cái trước nhưng lại là nhân, là duyên cho cái sau.
Trong chuỗi nhân duyên, Phật giáo chú trọng nhấn mạnh tới yếu tố “vô minh”,
hiểu theo nghĩa đen là một màn đêm u tối, không có ánh sáng dẫn đường, không
biết lối mà đi; hiểu theo nghĩa bóng đó là sự thiếu hiểu biết của con người về
thế giới khách quan, về bản chất chân thực của sự vật hiện tượng dẫn tới nhìn
nhận thiên kiến, thiển cận, phiến diện, chấp ngã, đề cao cái “Ta”, từ đó dẫn
dắt đến hành động sai trái, tạo nên nghiệp xấu, gây nên “nhân” xấu, sinh ra
“quả” xấu, làm cho con người phải chịu đau khổ, mãi quẩn quanh trong vòng sinh
tử luân hồi. Do đó, để có thể thụ hưởng yên vui, an lạc trong cuộc đời con
người phải học tập, lấy trí tuệ làm sự nghiệp (duy tuệ thị nghiệp) để xoá bỏ
“vô minh”, tạo ra những nhân, duyên tốt để gieo trồng nên quả ngọt.
Phật giáo
quan niệm mọi sự vật luôn luôn biến chuyển, đổi thay, mọi thứ ta có, ta nhìn
thấy đều chỉ là vô thường. Vô thường là không thường xuyên, mãi mãi ở trong một
trạng thái nhất định mà nó sẽ luôn biến đổi, tồn tại hay không tồn tại, có hay
không có đó chỉ là vấn đề thời gian. Khi đầy đủ nhân duyên hội hợp thì sự vật
hiện hữu, gọi là "có"; khi nhân duyên tan rã thì sự vật biến diệt,
lại trở về là "không". Muôn vật từ nhân duyên mà sinh và cũng do nhân
duyên mà diệt. Lý nhân duyên làm cho ta thấy con người là một đấng tạo hoá tự
tạo ra đời sống của mình, con người làm chủ đời mình, làm chủ vận mệnh của
mình. Cuộc đời con người vui sướng hay phiền não đều do nhân và duyên mà con
người tự tạo ra chi phối. Từ cách nhìn nhận đó, Đức Phật khuyên con người sống
hướng thiện, thực hiện tâm từ bi, biết yêu thương và chia sẻ, vì hạnh phúc của
mọi người và hạnh phúc của mình, sống tự tại an lạc, không cố chấp bám víu vào
sự vật, hiện tượng, không bị ảnh hưởng, chi phối bởi sự vô thường của cuộc sống.
Tứ
diệu đế
Khi còn là Thái Tử, Đức Phật đã nhận ra cuộc đời đầy rẫy sự đau
khổ, do đó Ngài đã quyết chí ra đi tu hành để lý giải vì sao con người ta lại
đau khổ và làm sao để thoát khổ. Sau khi đắc đạo, Đức Phật đã nhận rõ căn
nguyên nguồn cội của sự khổ đau và phương pháp để diệt trừ nó, Đức Phật đã đem
kiến thức của mình truyền bá và hướng dẫn cho người xung quanh thực hành.
Song giai
đoạn đầu truyền bá không thành công vì lý lẽ Đức Phật nói ra quá cao siêu mà
trình độ của những người nghe đa số còn hạn hẹp nên họ không hiểu, dần dần rời
bỏ khỏi những buổi thuyết pháp của Phật. Từ đó Phật đã chuyển đổi phương pháp
giảng đạo từ tư duy lý luận sang hướng dẫn thực hành, đó là pháp môn Tứ diệu đế.
Tứ diệu đế đã trở thành giáo lý căn bản, xuyên suốt trong toàn bộ
kinh điển Phật giáo. Tứ diệu đế bao gồm: Khổ đế, Tập đế, Diệt đế và Đạo đế.
- Khổ đế: Đức Phật chỉ ra rằng, con người
ta sống ở trên đời ai cũng phải gặp những điều đau khổ. Ngài đã khái quát cái
khổ của con người thành 8 loại khổ (bát khổ):
+ Sinh (sinh ra đời và tồn tại cũng phải trải qua những đau khổ);
+ Lão (tuổi già sức yếu là khổ);
+ Bệnh (đau ốm là khổ);
+ Tử (chết là khổ);
+ Ái biệt ly khổ (những người thân yêu phải xa nhau là khổ);
+ Oán tăng hội khổ (những người có oán thù mà phải gặp gỡ cũng
khổ);
+ Cầu bất đắc khổ (điều mong cầu không toại nguyện là khổ);
+ "Ngũ ấm xí thịnh khổ" (thân ngũ đại của con người được
gọi là thân ngũ ấm, đó là: sắc ấm, thọ ấm, tưởng ấm, hành ấm và thức ấm. Thân
ngũ đại của con người luôn bị chi phối, khổ sở bởi luật vô thường, bởi thất
tình, lục dục lôi cuốn… làm cho khổ sở).
Đức Phật nói Khổ đế không phải để làm cho con người buồn chán, bi
quan mà trái lại, làm cho mọi người nhìn rõ về quy luật và thực tế của cuộc
sống để trân trọng những gì mình có, khi gặp cảnh khổ cũng không hoảng loạn mà
điềm tĩnh đón nhận, không bị hoàn cảnh chi phối, tìm phương án giải quyết cho
tốt đẹp.
- Tập đế: nguyên nhân tạo thành những nỗi
khổ hiện hữu ở đời, Đức Phật gọi là Tập đế. Đức Phật khái quát nguyên nhân nỗi
khổ thành “Thập kết sử” (mười điều cốt lõi làm cho con người bị khổ đau), đó
là: tham (tham lam), sân (giận dữ), si (si mê), mạn (kiêu ngạo), nghi (nghi
ngờ), thân kiến (chấp ngã), biên kiến (hiểu biết không đầy đủ, cực đoan), tà
kiến (hiểu không đúng, mê tín dị đoan…), kiến thủ (bảo thủ về ý kiến của mình),
giới cấm thủ (làm theo lời răn cấm của tà giáo). 10 điều này đều có thể ở chính
ngay trong con người và gây nên đau khổ, tuy nhiên Đức Phật nhấn mạnh đến 3
điều: Tham - Sân - Si, Phật giáo gọi là “Tam độc” là nguyên nhân chính của sự
khổ đau.
- Diệt đế: Đức Phật chỉ ra kết quả an vui,
hạnh phúc đạt được khi con người diệt trừ hết những nỗi khổ, muốn diệt khổ phải
diệt tận gốc, đó là diệt cái nguyên nhân gây ra đau khổ.
- Đạo đế: là những phương
pháp Đức Phật hướng dẫn để chúng sinh thực hành diệt khổ, được vui. Đây là phần
quan trọng nhất trong Tứ diệu đế, vì khi biết rõ đau khổ, nguyên nhân của đau
khổ, mong muốn được thoát khổ để đạt đến cảnh giới an vui nhưng nếu không có phương
pháp hiệu nghiệm để thực hiện ý muốn ấy thì không giải quyết được vấn đề và
càng thêm đau khổ. Do đó, Đạo đế đã được Đức Phật rất chú trọng, quan tâm để
tuỳ căn cơ của chúng sinh mà phân tích cụ thể để hướng dẫn mọi người thực hiện
cho phù hợp với bản thân mình.
Đạo đế có 37 phẩm chia làm 7 loại, đó là:
- Tứ niệm
xứ (bốn điều mà người tu hành thường xuyên nghĩ đến): quán thân bất tịnh; quán
tâm vô thường; quán pháp vô ngã; quán thọ thị khổ.
- Tứ chánh
cần (bốn phép siêng năng chân chính để tinh tấn tu hành): tinh tấn ngăn ngừa
những điều ác chưa phát sinh; tinh tấn dứt trừ những điều ác đã phát sinh; tinh
tấn phát triển những điều lành chưa phát sinh; tinh tấn tiếp tục phát triển
những điều lành đã phát sinh.
- Tứ như ý túc (bốn
phép thiền định để việc tu hành được phát triển): Dục như ý túc, tinh tấn như ý
túc, nhất tâm như ý túc và quán như ý túc.
- Ngũ căn
(năm điều căn bản giúp người tu hành đạt chính quả): Tín căn, tấn căn, niệm
căn, định căn, huệ căn.
- Ngũ lực (năm
năng lực để cùng ngũ căn giúp người tu hành đạt chính quả): Tín lực, tấn lực,
niệm lực, định lực và huệ lực.
- Thất bồ đề phần (bảy pháp tu tập giúp người tu hành thành tựu đạo quả đại
giác): Trạch pháp, tinh tấn, hỷ, khinh an, niệm, định, xả.
- Bát chính
đạo (8 con đường chân chính hợp với chân lý Tứ đế để tiến tới đạo Niết bàn,
thoát khỏi khổ đau, đó là: Chính kiến, chính tư duy, chính ngữ, chính nghiệp,
chính mạng, chính tinh tiến, chính niệm và chính định). Trong 37 nội dung trợ
đạo như đã nói ở trên, Bát chính đạo được coi là pháp môn chính quan trọng
nhất, nó phù hợp với mọi căn cơ, nhận thức, mọi thời đại và mọi người. Giá trị
của Bát chính đạo là giúp người ta tu dưỡng thân tâm, cải thiện hoàn cảnh,
thoát khỏi khổ đau, phiền não, bước lên con đường giải thoát, an vui, tự tại.
* Giáo luật
Giáo luật Phật giáo được Đức Phật chế ra xuất phát từ thực tế
trong khi điều hành Tăng đoàn với những điều quy định, cấm nhằm duy trì tổ chức
tăng đoàn, hướng mọi người tới chân - thiện - mỹ, phát triển hạnh từ bi, hỷ xả,
vô ngã, vị tha, biết làm lành lánh dữ để đạt tới giác ngộ và giải thoát.
Cốt lõi của giáo luật Phật giáo là “Ngũ giới” và “Thập thiện”.
- Ngũ giới là 5 giới cấm:
+ Không sát sinh;
+ Không nói sai sự thật;
+ Không tà dâm;
+ Không trộm cắp;
+ Không uống rượu.
- Thập thiện là mười điều thiện nên làm, trong đó:
+ Ba điều thiện về thân: không sát sinh, không trộm cắp,
không tà dâm;
+ Bốn điều thiện về khẩu: không nói dối, không nói hai
chiều, không nói điều ác, không nói thêu dệt;
+ Ba điều thiện về ý: không tham lam, không giận dữ, không
tà kiến.
Trên cơ sở của quy định Ngũ giới và Thập thiện, Phật giáo đã quy
định chi tiết và cụ thể đối với từng loại xuất gia.
- Đối với hàng đệ tử xuất gia đã thụ giới Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni:
Theo
Luật Tứ phận thì kinh Giới bản quy định:
+ Tỳ kheo phải giữ 250 giới.
+ Tỳ kheo Ni phải giữ 348 giới.
Theo Nam truyền Luật tạng thì:
+ Tỳ kheo phải giữ 227 giới
- Đối với
hàng đệ tử xuất gia còn ở bậc Sa di phải giữ 10 giới. Ngoài ngũ giới như đã nói
ở trên, người tu ở bậc Sa di còn phải giữ thêm 5 giới nữa là:
+
Không trang điểm, không bôi nước hoa hay xức dầu thơm.
+
Không nằm giường đệm cao sang, giường rộng dùng cho hai người.
+
Không xem ca hát nhảy múa và cũng không được ca hát nhảy múa.
+
Không giữ vàng bạc.
+
Không ăn phi thời (quá giờ quy định).
Tăng Ni
phải nương vào giới luật để làm mực thước sinh hoạt hàng ngày.
- Đối
với Phật tử tại gia:
Sau khi thụ
Tam quy (quy Phật, quy Pháp, quy Tăng) người Phật tử cần trì Ngũ giới để ngăn
cấm những tưởng niệm ác, hành động bất chính, gieo lòng từ bi, bình đẳng trong
chúng sinh giúp họ được tiến trên con đường giải thoát, an lạc.
Ngoài ra người
Phật tử tuỳ căn cơ, sở nguyện có thể thụ Bát quan trai giới (8 giới). Nội dung
Bát quan trai giới gồm có Ngũ giới và thêm 3 điều quy định nữa:
+
Không trang điểm
+
Không dùng đồ sang trọng (giường cao rộng; không ca múa hát xướng và cũng không
xem nghe ...).
+
Không ăn uống không đúng giờ.
- Đạo Phật
cũng đưa ra những lời khuyên, hướng dẫn mọi người trong cách sống chung, tu
hành cùng giữ trọn vẹn hòa khí, ví dụ như tinh thần Lục hòa (6 điều hòa hợp):
+
Thân hòa đồng trụ
+ Giới hòa đồng tu
+
Khẩu hòa vô tranh
+ Ý
hòa đồng duyệt
+
Kiến hoà đồng giải
+
Lợi hòa đồng quân
Có thể nói,
giáo luật của Phật giáo có nhiều điểm tương đồng với truyền thống văn hoá của
các dân tộc, đặc biệt là ở các nước phương Đông, trong đó có Việt Nam. Giáo
luật của Phật giáo đã có đóng góp không nhỏ vào việc điều chỉnh hành vi, hình
thành nhân cách, đạo đức lối sống của một bộ phận đông đảo nhân dân Việt Nam.
* Lễ nghi
Lễ nghi của
Phật giáo thể hiện sự trang nghiêm, tôn kính tới người sáng lập (đức Bổn sư).
Ban đầu, lễ nghi của Phật giáo khá đơn giản và đồng nhất, song cùng với quá
trình phát triển, Phật giáo phân chia thành nhiều tông phái và du nhập vào các
dân tộc khác nhau, hoà đồng cùng với tín ngưỡng của người dân bản địa, lễ nghi
của Phật giáo dần có sự khác biệt giữa các khu vực, vùng miền…
Một số ngày
lễ, kỷ niệm lớn trong năm của Phật giáo (tính theo ngày âm lịch):
- Tết Nguyên đán
- Rằm tháng giêng: lễ Thượng nguyên
- Ngày 08/02 : Đức Phật Thích Ca xuất gia
- Ngày 15/02: Đức Phật Thích Ca nhập Niết bàn
- Ngày 19/02: Khánh đản Đức Quán Thế Âm Bồ tát
- Ngày 21/02: Khánh đản Đức Phổ Hiền Bồ tát
- Ngày 16/3: Khánh đản Đức Chuẩn Đề Bồ tát
- Ngày 04/4: Khánh đản Đức Văn Thù Bồ tát
- Ngày 15/4: Đức Phật Thích Ca đản sinh
- Ngày 13/7: Khánh đản Đức Đại Thế Chí Bồ tát
- Ngày 14/7: Lễ Tự tứ
- Ngày 15/7 : Lễ Vu lan
- Ngày 30/7: Khánh đản Đức Địa Tạng Bồ tát
- Ngày 30/9: Khánh đản Đức Phật Dược sư
- Ngày 17/11: Khánh đản Đức Phật A Di Đà
- Ngày 08/12: Đức Phật Thích Ca thành đạo
Đối với Phật giáo Nam tông Khmer còn có một số ngày lễ theo truyền
thống người Khmer, như:
- Ngày 13 - 15/4 dương lịch: Lễ mừng năm mới (CholChơnam
Thmây - Tết dân tộc của người Khmer);
- Ngày 30/8 dương lịch: Lễ cúng ông bà tổ tiên (lễ Donta)…
- Đầu tháng 9 hoặc tháng 10 âm lịch (sau khi kết thúc khoá
hạ): Lễ Dâng Y (hay lễ Dâng Bông);
- Ngày 15/10 âm lịch: Lễ cúng trăng (Okcombok).
Với những
giá trị đạo đức, văn hóa, tư tưởng hòa bình, đoàn kết, hữu nghị mà Phật giáo
đóng góp cho xã hội, năm 1999, tại phiên họp thứ 54 Đại hội đồng Liên hợp quốc
đã công nhận Đại lễ Phật đản, tên gọi theo truyền thống của Việt Nam (hay Đại
lễ Vesak, Đại lễ Tam hợp Đức Phật - theo tên gọi quốc tế để kỷ niệm ngày Phật
đản sinh, ngày Phật thành đạo và ngày Phật nhập Niết bàn) là lễ hội văn hoá -
tôn giáo quốc tế của Liên hợp quốc. Lễ hội này được tổ chức hàng năm tại trụ sở
Liên hợp quốc và các trung tâm Liên hợp quốc trên thế giới.
TỔ CHỨC CỦA PHẬT GIÁO
Phật giáo
chủ trương không có giáo quyền, không công nhận thần quyền, không có tổ chức
theo hệ thống thế giới. Ban đầu Phật giáo chỉ có những nhóm người cùng nhau đi
truyền giáo, gọi là Tăng già hoặc Tăng đoàn hay Giáo đoàn. Tăng già có từ 4
người trở lên. Thành phần của đoàn thể Tăng già có thể bao gồm cả 2 chúng
xuất gia và 2 chúng tại gia.
Đứng đầu
đoàn thể Tăng già là một vị Trưởng lão đạo cao đức trọng nhất trong đoàn thể
được tập thể các sư suy tôn để quản lý, điều hành Tăng đoàn. Ngoài ra còn một
số vị trong hàng Trưởng lão có đạo hạnh và tài năng đứng ra giúp việc.
Tuy nhiên,
sau này trong quá trình du nhập và phát triển đến các quốc gia, Phật giáo đã
theo tinh thần Khế lý - Khế cơ để có những hình thức tổ chức, sinh hoạt tăng
đoàn cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cũng như truyền thống, văn hoá của
mỗi nơi.
HỆ PHÁI, TÔNG PHÁI PHẬT GIÁO
* Hệ phái Phật giáo
Trong 49 năm thuyết pháp, Đức Phật đã tuỳ theo căn cơ, đối tượng
người nghe; tuỳ vào từng vấn đề; tuỳ vào phạm vi thời gian, không gian, điều
kiện, hoàn cảnh… mà thuyết giảng. Sau khi Phật nhập Niết bàn, các vị Bồ tát,
Thánh tăng đã tổ chức 4 lần kết tập kinh điển để lưu truyền giáo lý của Phật về
sau cho các hàng đệ tử có điều kiện tiếp cận, tìm hiểu, nghiên cứu và thực hành.
- Kết tập kinh điển thứ nhất được tổ chức tại thành Vương Xá sau
khi Phật nhập diệt 7 ngày (có sách nói là 3 tháng) tập trung vào việc các Đại
đệ tử của Phật tổng hợp và tụng lại các phần Kinh – Luật – Luận, tuy nhiên kết
tập kinh điển lần này chỉ là sự tổng hợp và truyền tụng lại cho nhau qua lời
nói, chưa có điều kiện để lưu lại trên văn tự.
- Kết tập kinh điển thứ hai được tổ chức tại thành Tỳ Xá Ly sau
khi Phật nhập diệt hơn 100 năm để luận giải kinh điển, thực hành giới luật và
tranh luận về 10 điều luật mới một bộ phận Tỳ kheo trẻ đưa ra.
- Kết tập kinh điển lần thứ ba được tổ chức tại Thành Hoa Thị sau
khi Phật nhập diệt 236 năm và cho đến lúc này cả 3 tạng Kinh – Luật – Luận mới
chính thức được ghi chép bằng văn tự Pa li vào các lá bối.
- Kết tập kinh điển lần thứ tư được tổ chức tại thành Ca Thấp Di
La sau khi Phật nhập diệt khoảng 600 năm. 3 tạng Kinh – Luật – Luận thời kỳ này
đã được khắc bằng chữ Phạn vào các lá đồng dát mỏng rồi được lưu giữ tại một
ngôi tháp lớn ở nước Kế Tân.
Sự phân chia hệ phái trong Phật giáo xuất hiện từ lần kết tập kinh
điển thứ 2. Trong 10 điều luật mới một bộ phận tỳ kheo trẻ đưa ra và cho là hợp
chính pháp, đó là: giáo diêm tịnh (được đem muối đựng trong sừng để bỏ vào các
món ăn khi không đủ muối); lưỡng chỉ sao thực tịnh (bóng nắng quá ngọ 2 ngón
tay vẫn được ăn); tụ lạc gian tịnh (trước ngọ ăn rồi nhưng đến làng khác vẫn
được phép ăn); trụ xứ tịnh (ở đâu thì làm lễ Bá tát ngay ở đấy); tuỳ ý tịnh
(quyết nghị đã được Đại hội dù ít dù nhiều cho thông qua đều có giá trị thi
hành); cửu trú tịnh (noi theo điều lệ, tập quán); sinh hoà hợp tịnh (được uống
sữa pha nước sau giờ ngọ); thuỷ tịnh (rượu mới lên men được pha với nước uống
trị bệnh); bất ích lũ Ni sư đàn tịnh (được dùng tọa cụ không viền, kích thước
lớn hơn mẫu định); thụ súc kim ngân tiến định (được nhận tiền vàng bạc cúng
dàng). Các vị tỳ kheo lớn tuổi không chấp nhận và cho đó là 10 điều phi pháp. Các vị tỳ
kheo trẻ không chịu, tách ra thành lập một đoàn thể riêng với chủ trương hành
đạo theo tinh thần "Khế lý - khế cơ", phù hợp với căn cơ, hoàn cảnh
từng thời kỳ, từng vùng, miền của chúng sinh. Vì các vị chiếm số đông nên gọi
là phái Đại chúng bộ. Các vị cao tăng với chủ trương giữ y giới luật như ngày
Đức Phật còn tại thế, đa số là những người đạo cao, đức trọng nên gọi là phái
Thượng toạ bộ.
Phái Thượng toạ bộ truyền sang phía Nam qua Tích Lan, Miến Điện,
Thái Lan, Lào, Campuchia nên gọi là hệ phái Phật giáo “Nam truyền” hay “Nam
tông”. Phái Thượng toạ bộ chủ trương tôn trọng lối truyền thừa và chủ trương tự
độ, tự giác.
Phái Đại chúng truyền sang Trung Quốc rồi truyền vào Việt Nam và
Triều Tiên, Nhật Bản ... được gọi là hệ phái Phật giáo “Bắc truyền” hay “Bắc
tông”. Phái này chủ trương linh động, khoan dung trong giới luật, không cố chấp
vào từng chữ trong kinh để rút ra những bài học về triết lý thực hành với tinh
thần nhập thế, phổ độ chúng sinh, làm cho chúng sinh cùng giác ngộ như mình, có
nghĩa là: Tự độ, độ tha; Tự giác, giác tha.
* Tông phái Phật giáo
Cùng với sự phân chia hệ phái của Phật giáo và với cách tiếp cận,
nhìn nhận khác nhau về giáo lý Phật giáo, với tinh thần khế lý - khế cơ, từ hai
phái lớn của Phật giáo lại được phân thành nhiều tông phái khác nhau. Có thể
nói, sự hình thành các tông phái không phải là sự phân liệt, tranh chấp trong
Phật giáo về quyền lợi, địa vị của Tăng chúng, cũng không phải là sự phủ định
lẫn nhau mà đây chính là sự phát triển làm cho Phật giáo trở nên vững chắc.
Trước đây, Phật giáo có nhiều tông phái, sau này phần nhiều các
tông phái có cùng khuynh hướng sát nhập lại với nhau, còn lại 10 tông phái:
1. Câu Xá tông
2. Thành Thật tông
3. Tam Luận tông
4. Pháp Tướng tông
5. Thiên Thai tông
6. Hoa Nghiêm tông
7. Luật tông
8. Thiền tông
9. Tịnh độ tông
10. Mật tông
Chín tông phái (từ 1 đến 9) thuộc loại bộ Hiển giáo. Trong Hiển
giáo lại được chia ra Nam tông (1,2) và Bắc tông (từ 3 đến 9). Hiển giáo là thứ
giáo lý có thể dùng ngôn ngữ để phát biểu, diễn đạt được. Hiển giáo là do Báo
thân và Ứng thân Phật thuyết pháp.
Đối với Mật
tông thuộc loại bộ Mật giáo, là thứ giáo lý không thể dùng ngôn ngữ diễn đạt.
Mật giáo là do Pháp thân Phật thuyết pháp, do đó giáo phái này còn được gọi là
Chân Ngôn hay Chân Ngôn tông.
QUÁ TRÌNH TRUYỀN BÁ ĐẠO PHẬT VÀO VIỆT NAM
Theo sử
sách Phật giáo Việt Nam còn ghi lại, đạo Phật du nhập vào Việt Nam cả 2 hệ
phái: Phật giáo Nam tông (từ phía Nam truyền xuống) và Phật giáo Bắc tông (từ
phía Bắc truyền sang) qua 2 con đường:
- Đường bộ:
năm 198 Phật giáo chính thức được truyền vào Việt Nam qua đường bộ từ
Trung Quốc xuống với tên tuổi của các danh Tăng nổi tiếng như: Ma Ha Kỳ Vực,
Khâu Đà La...
- Đường
thuỷ: đạo Phật được truyền vào Việt Nam từ 2 hướng:
+ Thế kỷ XIII, đạo Phật được truyền từ Srilanca vào “Thuỷ Chân
Lạp”, nay là khu vực Đồng bằng sông Cửu Long.
+ Khoảng giữa thế kỷ XVI, vào thời nhà Thanh ở Trung Quốc, khi đời
sống xã hội bất ổn, một số thiền sư thuộc Thiền phái Lâm Tế đã đi theo các tàu
buôn sang lánh nạn ở Việt Nam và địa phương nơi tiếp nhận phái thiền này đầu
tiên là khu vực tỉnh Bình Định ngày nay.
Có một số nhà nghiên cứu cho rằng có dấu hiệu đạo Phật du nhập vào
Việt Nam từ thế kỷ thứ III (trước công nguyên) tại khu vực Đồ Sơn (thành phố
Hải Phòng) do một số Tăng sĩ Ấn Độ đi cùng các thương nhân đến buôn bán ở Việt
Nam. Như vậy, có thể nói dù đạo Phật truyền vào Việt Nam thời gian nào thì cũng
phải khẳng định đạo Phật là một tôn giáo được du nhập vào Việt Nam từ rất sớm
so với các tôn giáo khác và có sự gắn bó, hoà đồng với truyền thống, văn hoá,
bản sắc của dân tộc Việt, được người Việt chấp nhận để có thể tồn tại và phát
triển đến ngày nay.
Phật giáo khi truyền vào Việt Nam lúc đầu phát triển theo đơn vị
gia cư, mỗi cơ sở Phật giáo như là một gia đình, gọi là “Trụ xứ tòng lâm”, từ
đó lại phát triển ra nhiều chùa theo một sư tổ, thành một dòng họ và được gọi
thành tên khác nhau ở mỗi miền: ở miền Bắc gọi là “Sơn môn”, ở miền Trung gọi
là “Môn phái” và miền Nam gọi là “Môn phong”.
ĐÓNG GÓP CỦA PHẬT GIÁO VIỆT NAM VỚI ĐẤT NƯỚC QUA CÁC THỜI KỲ
Trải qua
các triều đại phong kiến, thời nhà Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần và qua 2 cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, Phật giáo Việt Nam đều có
những đóng góp to lớn trong công cuộc hộ quốc, an dân. Công lao của Phật giáo
Việt Nam đã được các triều đại, nhà nước và lịch sử Việt Nam ghi nhận. Thời nhà
Đinh có Thiền sư Ngô Chân Lưu (933 – 1011) được vua Đinh Tiên Hoàng phong làm
Khuông Việt Đại sư và phong chức Tăng thống đứng đầu Phật giáo cả nước vì những
đóng góp quan trọng trong công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước. Thời nhà Lý có
Thiền sư Vạn Hạnh được vua Lý Công Uẩn phong làm Quốc sư vì đã có nhiều cống
hiến để xây dựng nên sự thịnh vượng của vương triều Lý; ngoài ra còn có các vị
Thiền sư: Đa Bảo, Sùng Phạm, Không Lộ, Mãn Giác, Viên Thông ... là những danh
tăng đã hết lòng phù trợ triều đình để xây dựng đất nước phát triển rực rỡ
trong một thời gian dài... Thời nhà Trần, đạo Phật tuy không trực tiếp tham gia
vào các công việc triều chính như thời kỳ trước nhưng lại có đóng góp rất to
lớn về các mặt tư tưởng, văn hoá, xã hội. Các Thiền sư, Hoàng đế thời Trần đã
lập nên một hệ tư tưởng cho Phật giáo Việt Nam, đó là Thiền phái Trúc Lâm và
tiêu biểu là Đức vua Trần Nhân Tông sau khi rời bỏ ngai vàng đã khai sáng ra
phái thiền Trúc Lâm Yên Tử.
Trong 2
cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ của dân tộc ta, nhiều Tăng Ni, Cư sĩ,
Phật tử Phật giáo Việt Nam đã tham gia đoàn quân cứu nước và nhiều vị đã anh
dũng hy sinh thân mình cho Tổ quốc. Nhiều ngôi chùa Phật giáo Việt Nam đã trở
thành cơ sở cách mạng, nuôi giấu cán bộ, dự trữ lương thảo, quân nhu ... phục
vụ quân đội trong suốt những năm tháng chiến tranh.
Đánh giá về công lao của Phật giáo đối với dân tộc Việt Nam, Chủ
tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Văn Đồng đã phát biểu trong buổi tiếp các đại biểu
của Hội nghị Thống nhất Phật giáo Việt Nam: “Trong quá khứ, Phật giáo Việt
Nam đã gắn chặt với dân tộc trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Lịch sử đã
xác nhận Phật giáo Việt Nam là một tôn giáo mà từ bản chất, bản sắc từ trong
thực tiễn hoạt động của mình đã biểu hiện truyền thống yêu nước, gắn bó chặt
chẽ với dân tộc, với Tổ quốc”.
GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM
* Lịch sử hình thành GHPGVN
Từ khi du
nhập vào Việt Nam, đạo Phật tồn tại và phát triển theo truyền thống sơn môn.
Các sơn môn sinh hoạt độc lập, ít có sự liên hệ và chịu sự chi phối của các sơn
môn khác.
Khi thực dân Pháp đem quân xâm lược nước ta, cũng là lúc Pháp mang
theo văn hoá, tín ngưỡng, tôn giáo phương Tây truyền bá vào Việt Nam, mặt khác
ra sức kỳ thị, chèn ép Phật giáo với mưu đồ xoá dần tín ngưỡng, tôn giáo, văn
hoá truyền thống của người dân Việt. Trong nước, Phật giáo không còn được sự
ủng hộ như trước đây ... Bản thân Phật giáo lúc này nặng về tín ngưỡng hơn tư
duy. Từ bối cảnh đó, một số Tăng Ni, Cư sĩ có tâm huyết và tinh thần đạo pháp,
dân tộc đã quyết tâm chỉnh đốn lại bằng cách mở trường Phật học, dịch kinh điển
sang chữ quốc ngữ cho Tăng Ni, Phật tử dễ học, dễ hiểu, xây dựng các cơ sở xã
hội, ra các tờ tạp chí với mục đích giúp đỡ nhau cùng học Phật và hoằng pháp,
nêu cao tinh thần dân tộc. Chương trình học văn hoá cũng được đưa vào giáo dục
cho Tăng Ni.
Phong trào
“Chấn hưng Phật giáo” ở cả 3 miền Trung - Nam - Bắc trong những thập niên 30,
40 của thế kỷ XX đã thổi bùng lên truyền thống yêu nước và ý thức trách nhiệm
đối với Dân tộc và Đạo pháp của Tăng Ni, Phật tử, nhất là sau khi Cách mạng
tháng Tám thành công. Cùng với các tổ chức cứu quốc khác, Phật giáo cứu quốc ra
đời…
Phật giáo Việt Nam đã ý thức được rằng muốn có sức mạnh thật sự
phải cùng nhau đoàn kết, tập hợp nhau trong một tổ chức để chấn hưng đạo pháp,
bảo vệ văn hoá truyền thống, góp phần đấu tranh giải phóng dân tộc. Đó là lý do
để Phật giáo tiến hành các cuộc vận động thống nhất Phật giáo trong cả
nước:Cuộc vận động thống nhất Phật giáo lần thứ nhất (năm 1951) với sự tham dự
của 6 đoàn thể Phật giáo ở 3 miền; Cuộc vận động thành lập Hội Phật giáo thống
nhất Việt Nam ở các tỉnh, thành phố phía Bắc (năm 1957, 1958); Cuộc vận động
thống nhất Phật giáo năm 1964 tại miền Nam để thành lập nên "Giáo hội Phật
giáo Việt Nam Thống nhất". Tuy nhiên, sự thống nhất của 3 cuộc vận động
này chưa được trọn vẹn vì đây không phải là sự thống nhất của Phật giáo trên
toàn quốc mà chỉ là sự thống nhất của một số tổ chức Phật giáo hay của một
miền.
Cuộc
vận động thống nhất Phật giáo cả nước, thành lập GHPGVN
Đầu năm
1980, thể theo nguyện vọng của toàn thể Tăng Ni, Cư sĩ, Phật tử, các vị Giáo
phẩm đại diện cho các tổ chức hệ phái lớn của Phật giáo họp tại thành phố Hồ
Chí Minh và quyết định thành lập “Ban Vận động thống nhất Phật giáo”
để xúc tiến cuộc vận động trong phạm vi cả nước, bao gồm đại diện của 9 tổ
chức, hệ phái:
- Hội Phật giáo thống nhất Việt Nam (ở miền Bắc);
- Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất (Ấn Quang);
- Ban Liên lạc Phật giáo yêu nước thành phố Hồ Chí Minh;
- Giáo hội Phật giáo cổ truyền Việt Nam;
- Giáo hội Tăng già nguyên thuỷ Việt Nam;
- Hội đoàn kết sư sãi yêu nước Tây Nam bộ (Phật giáo Khmer);
- Giáo phái Khất sĩ Việt Nam;
- Giáo hội Thiên Thai giáo quán tông;
- Hội Phật học Nam Việt.
Tháng 11/1981 Đại hội thống nhất Phật giáo đã được tổ chức tại chùa
Quán Sứ, Hà Nội với sự tham dự của 168 vị Giáo phẩm, Tăng Ni, Cư sĩ đại diện
cho 9 tổ chức, hệ phái nói trên để thành lập nên một tổ chức chung của Phật
giáo cả nước lấy tên là "Giáo
hội Phật giáo Việt Nam" (GHPGVN).
Tại Lời nói đầu của Hiến chương, GHPGVN đã khẳng định: Sự thống nhất Phật giáo
Việt Nam đặt trên nguyên tắc: “Thống nhất ý chí và hành động, thống nhất
lãnh đạo và tổ chức, tuy nhiên, các truyền thống hệ phái và phương tiện tu hành
đúng chính pháp vẫn được duy trì”, và
xác định “Phương châm hoạt
động của GHPGVN là: Đạo pháp - Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội”, “GHPGVN là tổ chức
Giáo hội duy nhất đại diện cho Tăng Ni, Phật tử Việt Nam trong và ngoài nước”. Hiến chương GHPGVN đã khẳng
định: "Mục đích của
GHPGVN là điều hoà, hợp nhất các tổ chức, hệ phái Phật giáo Việt Nam cả nước để
hộ trì hoằng dương Phật pháp và tham gia xây dựng bảo vệ Tổ quốc, phục vụ dân
tộc, góp phần xây dựng hoà bình, an lạc cho thế giới”.
* Các kỳ Đại hội của GHPGVN
GHPGVN ra đời đã
đáp ứng được nguyện vọng đoàn kết, thống nhất Phật giáo Việt Nam của đông đảo
Tăng Ni, Phật tử Phật giáo Việt Nam để thực hiện sự nghiệp truyền bá và
duy trì giáo lý Phật giáo, đóng góp công sức cho sự nghiệp xây dựng đất nước.
Đến nay, GHPGVN đã trải qua 6 kỳ Đại hội.
- Đại hội lần thứ I (nhiệm kỳ 1981 - 1987) của GHPGVN chính là Đại
hội thống nhất Phật giáo Việt Nam tổ chức vào tháng 11/1981. Đây được coi là
thời kỳ xây dựng nền móng cho GHPGVN. Về hệ thống tổ chức GHPGVN có 2 cấp: cấp
TW và cấp tỉnh dưới sự lãnh đạo của 2 Hội đồng: Hội đồng Chứng minh (HĐCM) và
Hội đồng Trị sự (HĐTS); giúp việc cho TW Giáo hội có 2 Văn phòng: Văn phòng I
(đặt tại Hà Nội) và Văn phòng II (đặt tại thành phố Hồ Chí Minh) và 6 ban hoạt
động (Ban Tăng sự; Ban Giáo dục Tăng Ni; Ban Hướng dẫn nam nữ Cư sĩ Phật
tử; Ban Hoằng pháp; Ban Nghi lễ; Ban Văn hóa), thành lập được 28 Ban Trị
sự Phật giáo cấp tỉnh.
- Đại hội
lần thứ II (nhiệm kỳ 1987 - 1992) GHPGVN tổ chức vào tháng 10/1987. Đây là giai
đoạn phát triển các mặt hoạt động theo chương trình nội dung 6 điểm của Giáo
hội trong thời kỳ đổi mới của xã hội và đất nước, số lượng Ban Trị sự được
thành lập lên tới 33 đơn vị và bổ sung thêm 2 ban ngành hoạt động (Ban Kinh
tế nhà chùa và Từ thiện xã hội; Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam) thành 8 ban chuyên môn.
- Đại hội
lần thứ III (nhiệm kỳ 1992 - 1997) GHPGVN tổ chức vào tháng 11/1992. Đây là
giai đoạn tiếp tục phát triển và hoàn chỉnh các mặt hoạt động của Giáo hội.
Giáo hội đã có 10 ban, viện hoạt động và được duy trì cho tới ngày nay (thành
lập thêm Ban Phật giáo Quốc tế và tách Ban Kinh tế nhà chùa và Từ thiện xã hội
thành 2 ban: Ban Kinh tế Tài chính và Ban Từ thiện xã hội) và 41 Ban Trị sự Phật giáo.
- Đại hội
lần thứ IV (nhiệm kỳ 1997 - 2002) GHPGVN tổ chức vào tháng 11/1997. Giáo hội đã
thành lập được 45 đơn vị tỉnh, thành hội Phật giáo trong cả nước với 10
ban, viện hoạt động.
- Đại hội
lần thứ V (nhiệm kỳ 2002 - 2007) GHPGVN tổ chức vào tháng 12/2002. Đây là nhiệm
kỳ GHPGVN củng cố các ban, viện. Kết thúc nhiệm kỳ, GHPGVN đã có 54 Ban Trị sự
(Ban Đại diện) Phật giáo.
- Đại hội
lần thứ VI (nhiệm kỳ 2007 - 2012) GHPGVN tổ chức vào tháng 12/2007. Đại hội
được coi là một bước thay đổi lớn trong quá trình phát triển của GHPGVN, nổi
bật là cải tiến về vấn đề nhân sự tham gia vào bộ máy lãnh đạo của Phật giáo ở
các cấp, đặc biệt quan tâm đến sự kế thừa trong Giáo hội, ưu tiên trọng dụng
đội ngũ Tăng Ni trẻ có trình độ và uy tín, năng lực. Đại hội cũng đã thông qua
bản Hiến chương sửa đổi có quy định về Đạo kỳ, Đạo ca và hệ thống tổ chức được
nâng lên 3 cấp thay vì 2 cấp như trước đây: cấp TW - cấp tỉnh - cấp huyện; tăng
số lượng thành viên tham gia HĐCM, HĐTS và Ban Trị sự Phật giáo.
Trên cơ sở hệ thống giáo lý, giáo luật, giáo lễ của Đạo Phật và
các quy định của pháp luật Việt Nam đối với hoạt động tôn giáo, GHPGVN đã trải
qua 6 kỳ Đại hội với 4 lần sửa đổi Hiến chương (tại Đại hội lần thứ II, III, IV
và VI) và đã có những điều chỉnh kịp thời trong từng giai đoạn nhất định cho
phù hợp với yêu cầu và thực tế khách quan để củng cố tổ chức và đáp ứng được
yêu cầu đề ra.
* Về số lượng: Tính đến tháng 6/2010, GHPGVN có 56/63 Ban
Trị sự (Ban Đại diện) Phật giáo cấp tỉnh, 01/63 Ban Đại diện Phật giáo cấp thị
xã (chưa có tổ chức bộ máy Phật giáo cấp tỉnh); 14.775 cơ sở thờ tự, 44.498
Tăng Ni[1] (trong
đó Bắc tông có 32.165 vị, Nam tông có 9.379 vị, Khất sĩ có 2.954 vị) và trên
10.000.000 tín đồ được phân bố trên phạm vi toàn quốc.
* Thành phần tham gia GHPGVN
Thành phần của GHPGVN gồm các tổ chức, hệ phái Phật giáo Việt Nam,
Tăng Ni và Cư sĩ thuộc các tổ chức, hệ phái Phật giáo Việt Nam đã hợp nhất,
hình thành GHPGVN và chấp nhận Hiến chương của GHPGVN.
Thành phần Tăng, Ni trong GHPGVN gồm 2 thành phần: giáo phẩm và
đại chúng.
- Thành phần giáo phẩm
+ Giáo phẩm
Tăng: Hoà thượng, Thượng tọa
+ Giáo phẩm
Ni: Ni trưởng, Ni sư
- Thành phần đại chúng: gồm những Tăng, Ni đã thụ giới Tỳ kheo
(Đại đức), Tỳ kheo Ni (Sư cô), Thức xoa Ma na, Sa di, Sa di Ni.
* Cơ cấu tổ chức
- Cấp Trung ương
+ HĐCM: gồm các vị Hoà thượng tiêu biểu của các tổ chức, hệ phái
Phật giáo Việt Nam có 70 tuổi đời, 50 tuổi đạo trở lên, không giới hạn số lượng
và được Đại hội Phật giáo toàn quốc suy tôn. HĐCM suy cử một Ban thường trực do
một vị Hoà thượng Pháp chủ đứng đầu. Ban thường trực HĐCM có nhiệm vụ: Chứng minh
các Hội nghị Trung ương và Đại hội GHPGVN; Hướng dẫn và giám sát các hoạt động
của Giáo hội về mặt đạo pháp và giới luật; Phê chuẩn tấn phong chức vị giáo
phẩm Hoà thượng, Thượng toạ, Ni trưởng, Ni sư của GHPGVN; Ban hành Thông điệp
về Phật đản, Thư chúc tết và tình hình GHPGVN trong những tình huống đặc biệt.
+ HĐTS: gồm các vị Hoà thượng, Thượng toạ, Đại đức, Tăng Ni và Cư
sĩ của Giáo hội do Ban thường trực HĐTS tiền nhiệm đề cử và Đại hội đại biểu
GHPGVN suy cử. HĐTS là cấp điều hành cao nhất của Giáo hội về các mặt hoạt động
của Giáo hội giữa hai kỳ Đại hội, ấn định chương trình hoạt động hàng năm của
Giáo hội theo đúng Nghị quyết của Đại hội đại biểu GHPGVN và đôn đốc, kiểm soát
việc thực hiện chương trình đó. HĐTS có nhiệm vụ suy cử một vị Hoà thượng Chủ
tịch đứng đầu và suy cử Ban thường trực để Ban này thay mặt HĐTS điều hành hoạt
động của GHPGVN theo nội quy của mình và có đệ trình để HĐCM biết.
Bộ máy giúp việc cho hoạt động ở cấp TW gồm có 9 ban, 1 viện (Ban Tăng sự, Ban Giáo dục Tăng
Ni, Ban Hướng dẫn Phật tử (gồm 2 phân ban: Cư sĩ Phật tử và Gia đình Phật tử),
Ban Hoằng pháp, Ban Nghi lễ, Ban Văn hóa, Ban Kinh tế - Tài chính, Ban Từ thiện
xã hội, Ban Phật giáo Quốc tế, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam (có 1 phân
viện đặt tại Hà Nội)) và 4
vị ủy viên kiểm soát, 2 ủy viên pháp chế, 2 văn phòng.
Các ban, viện hoạt động trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn của Ban. Chương trình hoạt động phải phù hợp với Nội quy hoạt động của Ban
thường trực HĐTS và được Ban thường trực HĐTS thông qua mới được thực hiện. Các
ban, viện có thể thành lập các phân ban, phân viện để phụ trách các chuyên
ngành hoạt động theo nội quy riêng được Ban thường trực HĐTS chuẩn y. Việc sửa
đổi, bổ sung nội quy do từng ban, ngành, viện đề xuất và được Ban thường trực
HĐTS GHPGVN xét duyệt, chấp thuận.
Hai văn phòng GHPGVN: có trách nhiệm giúp việc cho HĐCM, HĐTS và
phối hợp với các ban, viện triển khai công tác Phật sự trong lĩnh vực hành
chính, văn phòng.
Nhiệm kỳ hoạt động của Ban thường trực HĐCM, HĐTS và các ban,
viện, ủy viên, văn phòng là 5 năm, tương ứng với nhiệm kỳ Đại hội.
- Cấp tỉnh: Ban Trị sự (Ban Đại diện) Phật giáo có
trách nhiệm điều hành hoạt động của Phật giáo địa phương theo đúng Hiến chương
của Giáo hội và phù hợp với pháp luật Việt Nam, đồng thời triển khai các công
việc Phật sự theo sự chỉ đạo của HĐTS GHPGVN.
- Cấp huyện: Ban Đại diện Phật giáo là cơ quan giúp
việc cho Ban Trị sự (Ban Đại diện) Phật giáo cấp tỉnh, thực hiện các công việc
Phật sự ở địa phương mình theo chức năng, quyền hạn và nhiệm vụ theo nội quy do
Giáo hội ban hành.
Những phường xã, thị trấn có nhiều cơ sở thờ tự và Tăng Ni, Cư sĩ,
Phật tử thì Ban Đại diện Phật giáo giới thiệu để Ban Trị sự Phật giáo cấp tỉnh
bổ nhiệm một đại diện phường, xã, thị trấn hay liên phường, xã, thị trấn tại
địa phương làm đầu mối để giúp Ban Đại diện Phật giáo cấp huyện liên hệ với các
cơ sở của Giáo hội về mặt sinh hoạt tín ngưỡng.
* Một số hoạt động cơ bản của GHPGVN
- Hoạt động Tăng sự: Hàng năm, Ban Tăng sự đều triển khai các
công tác: Thống kê Tăng Ni, Tự Viện để bổ sung vào danh bộ của Giáo hội; cấp
Giấy chứng nhận cho Tăng Ni để công nhận là nhà sư thuộc GHPGVN; tổ chức An cư
Kiết hạ để chấn chỉnh quy củ sinh hoạt và nề nếp của Tăng Ni, đồng thời giúp
cho Tăng Ni có thời gian và điều kiện học tập, trau dồi đạo hạnh, trí tuệ; tổ
chức các Giới đàn thụ giới Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni, Thức xoa Ma na, Sa di, Sa di Ni
và thụ Thập thiện và Bồ Tát giới cho hàng Phật tử tại gia, đây là sự ghi nhận
về sự tăng trưởng đạo pháp của GHPGVN đối với hàng đệ tử xuất gia và tại gia,
đồng thời cũng hướng cho họ tu học theo đúng chính pháp; bổ nhiệm sư trụ trì
tại các cơ sở thờ tự của GHPGVN để quản lý và phục vụ tín ngưỡng Phật giáo cho
nhân dân; bồi dưỡng hành chính và trụ trì cho Tăng Ni để trang bị kiến thức cho
các vị thực hiện mọi hoạt động tuân thủ Hiến chương của Giáo hội và pháp luật
của Nhà nước.
Công tác Tăng sự của GHPGVN đã góp phần quan trọng trong việc ổn
định sinh hoạt Phật giáo ở TW cũng như địa phương, giúp cho HĐTS GHPGVN quản lý
tổng thể và tương đối toàn diện về sự phát triển (trên cả 2 mặt: số lượng và
chất lượng) của Giáo hội để đề ra những chủ trương, phương hướng hoạt động
trong từng giai đoạn cụ thể, phù hợp với phương châm Giáo hội đã đề ra.
- Hoạt động giáo dục Tăng Ni: Ngay từ sau khi thành lập, GHPGVN đã mở
trường Cao cấp Phật học Việt Nam (đến ngày 23/6/1997 đổi tên thành “Học viện
Phật giáo Việt Nam”) cơ sở 1, đặt tại Hà Nội và khai giảng khoá I vào tháng
12/1981; cơ sở 2 đặt tại thành phố Hồ Chí Minh và khai giảng khoá I vào tháng
10/1984. Đến nay, GHPGVN đã có 4 Học viện Phật giáo, 8 lớp Cao đẳng Phật giáo
(tháng 8/2009, Trường Trung cấp Phật học thành phố Hải Phòng được Chính phủ
chấp thuận cho nâng cấp lên thành Trường Trung - Cao đẳng Phật học) và 32
trường Trung cấp, hàng trăm lớp sơ cấp Phật học và thường xuyên tổ chức các
khoá bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho Tăng Ni, Cư sĩ thuộc thành viên Ban Giáo
dục Tăng Ni, Ban Giảng huấn các trường tham dự… GHPGVN đã đào tạo được hàng
ngàn Tăng Ni có trình độ Cử nhân Phật học và Cao đẳng Phật học, hàng vạn Tăng
Ni có trình độ Trung cấp Phật học. Ngoài ra, GHPGVN còn cử hàng trăm Tăng Ni đi
du học làm Nghiên cứu sinh, Thạc sĩ Phật học và rất nhiều Tăng Ni đi học Phật
học cũng như thế học, ngôn ngữ ở nước ngoài. Hiện nay đã có trên 200 Tăng Ni về
nước tham gia các ban, viện TW, Ban Trị sự (Ban Đại diện) Phật giáo địa phương
và các cơ sở giáo dục Phật giáo...
- Hoạt động hoằng pháp: Công tác hoằng pháp được đặt ra ngay từ
khi thành lập GHPGVN. Hàng năm Ban Hoằng pháp TW tổ chức các khoá đào tạo, bồi
dưỡng, hội thảo nghiệp vụ cho Giảng sư đoàn TW cũng như đoàn Giảng sư các tỉnh;
tổ chức các Hội thi giáo lý cho Cư sĩ, Phật tử; thuyết giảng tại các đạo tràng,
hướng dẫn Phật tử tu tập Bát quan trai...
Trong những năm qua công tác hoằng pháp của GHPGVN đã hướng dẫn
được đông đảo Phật tử tu học theo đúng chính pháp của Đức Phật, góp phần nâng
cao nhận thức giáo lý Phật giáo cho Phật tử, bài trừ tệ nạn lợi dụng tín ngưỡng
Phật giáo để hành nghề mê tín dị đoan và giữ gìn sự đoàn kết, ổn định trong một
bộ phận xã hội.
- Hoạt động hướng dẫn Phật tử: Công tác hướng dẫn Phật tử được chia thành
2 phần chính: hướng dẫn Cư sĩ, Phật tử và hướng dẫn Gia đình Phật tử. Công tác
hướng dẫn Cư sĩ, Phật tử nổi bật nhất là thông qua hướng dẫn hoạt động của các
đạo tràng như: Pháp Hoa, Dược sư, Tịnh độ, tu Thiền… cho các giới nam, nữ Phật
tử tại các cơ sở tự viện của GHPGVN trong toàn quốc. Công tác hướng dẫn Gia
đình Phật tử sinh hoạt trong các nhà chùa cũng được quan tâm.
- Hoạt động văn hoá: Đến tháng 6/2010, GHPGVN đã có
6 ấn phẩm Phật giáo được phép xuất bản, đó là: Tạp chí Nghiên cứu Phật học, Tạp
chí Văn hoá Phật giáo, Tạp chí Khuông Việt, Tạp chí Nguyên Thuỷ, Tuần báo Giác
Ngộ và Nguyệt san Giác Ngộ. Bên cạnh đó, hàng năm GHPGVN ở TW và địa phương đã
xin xuất bản hàng trăm đầu kinh sách và băng, đĩa để đáp ứng nhu cầu nghiên
cứu, đọc tụng, học tập, nâng cao sự hiểu biết về văn hoá Phật giáo gắn với văn
hoá dân tộc cho Tăng Ni, Phật tử trong và ngoài nước.
-
Hoạt động kinh tế tài chính: GHPGVN với chủ trương tự chủ về kinh phí
hoạt động và góp phần xây dựng đất nước, do đó kinh phí được Giáo hội huy động
tập trung từ một số nguồn cơ bản: vận động các cơ sở thờ tự tạo nguồn kinh tế
nhà chùa; thành lập Công ty kinh doanh các ấn phẩm Phật giáo và tổ chức các
tour du lịch Phật giáo trong và ngoài nước; vận động Tăng Ni, Tự viện đóng góp…
và thực tế đã chứng minh, trong gần 3 thập kỷ qua GHPGVN đã tồn tại, phát triển
và có nhiều đóng góp cho đất nước trong các công tác từ thiện, nhân đạo … bằng
chính nội lực của mình.
-
Hoạt động từ thiện xã hội: Công tác từ thiện xã hội là những hoạt
động Phật sự mang tinh thần nhân đạo, thể hiện sự nhập thế của Phật giáo Việt
Nam, là một trong những công tác trọng tâm của Giáo hội. GHPGVN hiện có 126 Tuệ
Tĩnh đường và phòng phát thuốc từ thiện; hàng trăm phòng thuốc chẩn trị y học
dân tộc; trên 1000 lớp học tình thương; nhiều cơ sở nuôi dạy trẻ mẫu giáo bán
trú, trẻ mồ côi, khuyết tật; nhiều trường dạy nghề miễn phí, hàng chục cơ sở
chăm sóc người nhiễm HIV/AIDS… và rất nhiều các hoạt động khác. Chỉ riêng nhiệm
kỳ V (2002 - 2007), GHPGVN đã tổ chức cứu trợ đồng bào bị thiên tai, dịch bệnh
và các hoạt động nhân đạo từ thiện khác với tổng số kinh phí trên 400 tỷ
đồng. Bên cạnh đó, GHPGVN còn tham gia các hoạt động ủng hộ, cứu trợ nhân dân
thế giới bị ảnh hưởng bởi các cuộc thiên tai, bão lũ …
-
Hoạt động Phật giáo quốc tế: Trong xu thế toàn cầu hoá, với tinh thần
hoà bình, hữu nghị, hợp tác với Phật giáo các nước trên thế giới, hoạt động
Phật giáo quốc tế của GHPGVN đã ngày càng phát triển và đạt được nhiều kết quả
tốt đẹp. GHPGVN luôn tích cực tham gia các tổ chức và hoạt động Phật giáo tiến
bộ trên thế giới, như:
+ Tham gia là thành viên của tổ chức ABCP (Asian Buddhist
Confrence for Peace - Tổ chức Phật giáo Châu Á vì hoà bình). Mục tiêu của ABCP
là đấu tranh vì hoà bình, hạnh phúc cho con người, chống chiến tranh.
+ GHPGVN tham gia các kỳ Đại lễ Vesak (ngày tam hợp đức Phật: ngày
Phật sinh, ngày Phật thành đạo và ngày Phật nhập Niết bàn). Đại Hội đồng Liên
hợp quốc tại phiên họp thứ 54, mục 174 của chương trình nghị sự (ngày 15 tháng
12 năm 1999) đã chính thức công nhận Đại lễ Vesak là một lễ hội văn hóa,
tôn giáo quốc tế của Liên hợp quốc, tôn vinh giá trị đạo đức, văn hóa, tư tưởng
hòa bình, đoàn kết hữu nghị của Đức Phật. Năm 2008, Chính phủ Việt Nam đã đăng
cai và tổ chức thành công Đại lễ Vesak Liên Hợp quốc với sự tham gia của Phật
giáo 74 quốc gia và vùng lãnh thổ.
+ Tham gia tổ chức Ni giới thế giới: Đây là tổ chức hoạt động nhằm
khẳng định quyền bình đẳng nam nữ, tạo cơ hội cho nữ giới trong các hệ phái
Phật giáo tu học, hoạt động vì mục tiêu hòa bình và công bằng xã hội. GHPGVN đã
đăng cai tổ chức Hội nghị Ni giới thế giới lần thứ 11 tại Việt Nam (vào tháng
12/2009) đạt kết quả tốt.
+ Tham gia là thành viên của Hội nghị Thượng đỉnh Phật giáo thế
giới (tên đầy đủ là Hội Phật
giáo Thế giới truyền bá chánh pháp).
Ngoài ra, GHPGVN có quan hệ ngoại giao, thân hữu với rất nhiều
nước có Phật giáo như: Srilanca, Thái Lan, Myanmar, Campuchia, Lào, Trung Quốc,
Ấn Độ, Pháp, Đức, Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ, Singapore, Indonesia... Tăng Ni
GHPGVN còn có các quan hệ cá nhân hoặc trong sơn môn, pháp phái với Tăng Ni,
Phật tử người Việt Nam đang định cư ở nước ngoài, tập trung ở một số nước như:
Mỹ, Pháp, Canada, Ba Lan, Ucraina, ...
Hiện nay đã có trên 300 ngôi chùa Việt Nam ở gần 30 nước trên thế
giới.
- Hoạt động nghiên cứu Phật học: Tập trung vào một số lĩnh vực: nghiên cứu,
phiên dịch và xuất bản kinh sách, Tạp chí Phật học; tổ chức và tham dự các
cuộc hội thảo, hội nghị, các hoạt động Phật giáo trong nước và quốc tế (ví dụ:
giới thiệu về lịch sử Phật giáo và Phật giáo Việt Nam; phối hợp với Viện Nghiên
cứu Tôn giáo thuộc Viện Khoa học Xã hội Việt Nam tổ chức hội thảo về các vị
danh tăng thuộc Phật giáo Việt Nam có công với đạo Pháp và dân tộc …); tổ chức
các thư viện, phòng đọc sách phục vụ nhu cầu nghiên cứu và học tập của Tăng Ni,
Phật tử;…
Hoạt động nghiên cứu Phật học của GHPGVN đã góp phần vào làm phong
phú kho tàng tri thức của Phật giáo Việt Nam và có những đóng góp nhất định vào
sự tìm hiểu mối tương quan giữa văn hoá Phật giáo với văn hoá dân tộc Việt Nam.
- Hoạt động nghi lễ của GHPGVN: GHPGVN được hợp thành bởi 9 tổ chức, hệ
phái Phật giáo khác nhau và mỗi tổ chức, hệ phái lại có những đặc thù và truyền
thống riêng, do đó với tinh thần tôn trọng sự biệt truyền của từng hệ phái
GHPGVN khó có thể đưa ra một quy định nghi lễ thống nhất trong toàn Giáo hội,
tuy nhiên GHPGVN đã có hướng dẫn các địa phương, các hệ phái tổ chức những ngày
lễ trọng của Phật giáo (như: Lễ Phật đản, Lễ Vu Lan Báo hiếu, Lễ Tưởng niệm …)
trên tinh thần chung là bảo tồn nét văn hoá truyền thống của Phật giáo Việt
Nam, đó là đoàn kết, trang nghiêm, đảm bảo nếp sống văn hoá mới, giữ gìn an
ninh trật tự và không trái với quy định của luật pháp nhà nước. Thực tế những
năm qua cho thấy, các nghi lễ trong lễ hội Phật giáo cũng như các hoạt động
khác của Giáo hội đã góp phần làm phong phú thêm cuộc sống tinh thần của một bộ
phận đồng bào theo đạo, đồng thời có những đóng góp vào truyền thống văn hoá
của dân tộc Việt Nam.
Ngoài các hoạt động nêu trên, GHPGVN còn có rất nhiều hoạt động
khác để “dưỡng đạo”, “hành đạo” và “quản đạo”, không ngừng củng cố tổ chức Phật
giáo từ TW đến các địa phương; tổ chức các kỳ Hội nghị, Đại hội; phong chức,
phong phẩm, bổ nhiệm, thuyên chuyển … chức sắc tôn giáo; xây, sửa cơ sở thờ tự;…
*
*
*
Gần hai ngàn năm có mặt ở Việt Nam, đạo Phật đã trải qua nhiều
thăng trầm cùng với lịch sử dân tộc, song thời nào Phật giáo cũng lấy đức Từ bi
để giáo hoá chúng sinh, lấy trí tuệ làm sự nghiệp. Phật giáo Việt Nam đã xây
dựng cho mình truyền thống yêu nước, gắn bó, đồng hành cùng dân tộc.
Tiếp nối truyền thống đó của Phật giáo Việt Nam, GHPGVN đã
và đang viết tiếp vào trang sử vàng của Phật giáo Việt Nam, tiếp tục khẳng định
chỗ đứng của Phật giáo trong lòng dân tộc. Với bản chất từ bi, yêu tự do, yêu
hoà bình, tôn trọng sự sống, GHPGVN hôm nay với phương châm hoạt động “Đạo pháp - Dân tộc - Chủ
nghĩa xã hội” luôn tích
cực trong các phong trào tương thân tương ái, giúp đỡ cộng đồng, góp phần xây
dựng khối đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo, xây dựng xã hội bình đẳng và
văn minh, xứng đáng là một tôn giáo “Hộ quốc - An dân”./.
Minh Nga
Phó Vụ trưởng Vụ Phật giáo
Ban Tôn giáo Chính phủ
0 nhận xét:
Đăng nhận xét