Chúng ta là Phật tử của Đạo Phật ai cũng từng nghe qua câu
“Tùy duyên bất biến”. Phật Giáo phát tích từ Ấn Độ, nhưng khi truyền nhập vào
các nước Đông phương cũng như Tây phương với tinh thần tùy duyên của mình, Đạo
Phật đã hòa nhập và thích ứng với phong tục tập quán, văn hóa tín ngưỡng, lễ
chế… của từng quốc gia để đem ánh sáng chánh pháp đến cho dân tộc đó, và cũng
từ nhân duyên đó đã tạo nên nét đặc trưng riêng biệt Phật Giáo của mỗi quốc gia
nhưng vẫn giữ được cốt lõi của Đạo Phật là mang đến sự giác ngộ giải thoát và
an lạc đến cho mọi người.
Đức Phật xuất thân từ dòng dõi tôn quí trong xã hội Ấn Độ đó
là giai cấp Sát Đế Lợi, thế nên khi Đạo Phật được truyền vào các nước Trung
Quốc, Việt Nam, Nhật Bản, Hàn Quốc.v.v… đã được vua chúa triều đình quan lại
cùng nhân dân tôn trọng và kính ngưỡng, bằng tất cả lòng chí kính họ đã đem hết
thảy những lễ nghi cao cấp nhất của dân tộc mình để cúng dường lên Đức Phật và
Tăng Già. Đạo Phật tiếp nhận hết thảy
những lễ nghi ấy, và để thích ứng với phong tục tập quán, lễ nghi, văn
hóa mang đậm phong thái Nho gia, Tăng Già Phật Giáo lấy tinh thần tùy duyên của
Phật Giáo làm chủ đạo hòa quyện với văn hóa bản địa tạo thành một phong cách
mới trong Phật Giáo, được thể hiện qua đức hạnh oai nghi của Tăng già.
Phật Giáo buổi đầu du nhập vào Trung Quốc được Triều đình
vua quan quí tộc tiếp nhận, vì Đức Phật
là bậc chí tôn lại xuất thân từ hoàng tộc cho nên Phật Giáo được sử dụng hầu
hết lễ chế của triều đình phong kiến Trung Quốc cũng như những danh xưng của
các cơ quan của triều đình như “Tự” hoặc “Điện”, kể cả kiến trúc chùa chiền
cũng được xây dựng theo phong cách hoàng cung. “Điện” là nơi vua chỉ sử dụng
trong việc thiết triều nghị sự quan trọng, ngoài những việc này ra không được
tùy tiện vào Điện. Phật Giáo được phép xây dựng Điện để làm nơi thờ Phật được
gọi là Đại Điên, Chánh Điện hay Đại Hùng
Bảo Điện nên cũng phải tuân hành theo đúng phép tắc của cung điện triều đình,
Phật Điện của Phật Giáo cũng được tôn trọng cung kính đúng phép tắc như cung
điện của vua, cho nên trong chùa có câu nói về ý không được tự tiện lên chùa:
“vô sự bất đăng Tam Bảo Điện”.
Qua ý nghĩa quan trọng trên cùng với sự thể hiện lòng tôn
kính đối với Đức Phật, với Tam Bảo một Phật tử chúng ta cần học tập và tìm hiểu
phép tắc cần thiết cơ bản để hoàn thiện nhân cách của một người Phật tử tại gia
chí thành cung kính đối với Phật Pháp Tăng Tam Bảo.
Vào Chánh Điện phải có lễ nghi:
Theo 2 bên phải trái mà đi vào, không được đi chính giữa để
biểu thị sự cung kính. Nếu theo cửa bên trái đi vào thì phải bước chân trái vào
trước, nếu theo cửa bên phải vào thì phải bước chân phải vào trước.
Ngoại trừ Kinh Phật, Tượng Phật tất cả những vật khác không
được mang vào Điện.
Duy chỉ có tụng Kinh, lễ Phật, châm dầu đốt hương mới được
vào, không được xem Phật điện như đền miếu mặc ý tham quan du ngoạn.
Trước khi vào Điện phải giữ thân tâm thanh tịnh, rửa tay
sạch, vào Điện không được ngó đông ngó tây, vào đến nơi sau khi lễ Phật chiêm ngưỡng
tôn dung, mặc niệm bài kệ: “ khi thấy tướng Phật, nguyện cho chúng sanh, được
mắt vô ngại, thấy tất cả Phật”.
Vào Điện Phật phải đi nhiễu theo bên phải không được đi bên
trái, để biểu thị chánh đạo. Khi cùng đại chúng nhiễu Phật không được dừng lại
nói chuyện, mắt luôn ngó thẳng phía trước.
Trong Điện không được bàn chuyện thế tục, càng không được
nói lớn tiếng, ngoài việc nghe Kinh Pháp, tọa Thiền không được ngồi trong Điện,
nếu nói chuyện Phật Pháp cũng không được lớn tiếng cười nói.
Trong Điện Phật không được dựa tay chân vào tường, bàn ghế,
chống cằm chống nạnh, càng không được mang nón gậy dựa vào vách điện và khạc
nhổ làm dơ bẩn, khi ngồi không được ngồi xoạc 2 chân, khi đứng nên thẳng tay
hoặc chấp tay đứng thẳng để biểu thị sự cung kính.
Trong đại Điện không được ợ ngáp khạc nhổ, hạ phong…nếu
không chịu được thì nên đi ra ngoài. Ợ ngáp nên lấy tay áo che miệng, khạc nhổ
thì nên dùng giấy rồi đựng trong giỏ, không nên ra ra vào vào làm ảnh hưởng đại
chúng.
Vì sao phải tôn kính tượng Phật:
Không được bình phẩm tượng Phật có trang nghiêm hay không,
tượng Phật không được để trong phòng ngủ.
Đi qua chỗ có tượng Phật, phải chỉnh sửa y phục chấp tay lễ
xá. Nếu ở chỗ tụng kinh, trước điện Phật phải lễ lạy, nếu thời gian không gian
không tiện có thể chấp tay xá.
Thấy tượng Phật có hư hoại nên để ở chỗ thích hợp không tùy
tiện vứt bỏ:
Tượng Phật bị hư hỏng hoặc không sạch, nên tận tâm chỉnh
sửa, như sơn thếp cho mới lại và làm cho sạch đẹp.
Nếu không còn sửa chữa được nên có tâm cung kính dùng giấy mà
đốt, rồi đem tro chôn ở nơi sạch sẽ. Tượng bằng đá, bằng gố sau khi đốt hoặc
phân giải phải mang rãi ra sông biển, chớ để ở nơi người ta có thể dẫm đạp.
Cách dâng hương:
Khi dâng hương dùng ngón tay cái và ngón trỏ cầm cho cây
hương đứng, còn 3 ngón tay kẹp lấy phía dưới, 2 tay cầm hương đưa ngang trán,
quán tưởng chư Phật Bồ tát hiển hiện trước mắt chúng ta, tiếp thọ hương cúng
dường, Nếu chỗ đông người nên cầm hương thẳng để khỏi đụng vào người khác sau
đó bước đến cách tượng Phật khoảng 3 bước dâng hương quán tưởng lễ bái.
Khi dâng hương 1 cây cũng được, nếu dâng 3 cây thì cắm 1 cây
ở giữa (miệng niệm thầm cúng dường Phật), cây thứ 2 cắm bên phải (thầm niệm
cúng dường Pháp), cây thứ 3 cắm bên trái (thầm niệm cúng dường Tăng). Sau đó
chấp tay (thầm niệm cúng dường nhứt thiết chúng sanh, nguyện hương hoa này biến
khắp mười phương, cúng dường nhứt thiết chư Phật, Tôn Pháp, chư Hiền Thánh).
Khi niêm hương không được dùng miệng thổi tắt lửa. Sau khi
cắm hương xong, lui khoảng nữa bước là được, đứng thẳng đầu hơi cúi đảnh lễ.
Nếu thấy tượng Phật hoặc Kinh sách để ở chỗ không sạch, nên
mang để ở chỗ sạch sẽ. Nếu thấy người không cung kính đối với tượng Phật, nên
khéo dùng lời khuyên họ.
Lễ Phật như thế nào:
Lễ Phật không nhứt thiết phải đứng chính giữa hoặc đứng đối
diện với tượng Phật, Bồ tát, chỉ cần thành kính lễ bái là được, chư Phật không
điều gì mà không biết, cho nên chỉ cần phát khởi tâm chí thành, cung kính thì
dù ở vị trí nào đều cũng là chỗ tốt hết.
Bất luận là trong chùa có bao nhiêu tượng Phật, thông thường
vào điện lễ Phật chỉ 3 lạy là được, nếu tu hành lễ bái 1 mình thì làm theo ý
mình, còn khi vào điện cùng với đại chúng, thì phải theo đại chúng mà đứng,
chấp tay lễ bái là được, không được riêng 1 mình lễ lạy, để khỏi ảnh hưởng trật
tự của đại chúng, mà còn không hợp oai nghi nữa.
Hàm nghĩa của 3 lạy lễ Phật:
Tư thế chấp tay: 2 tay bằng nhau đưa ngang ngực, 5 ngón tay
hợp lại hướng lên trên.
- Chiết phục
tâm kiêu mạn.
- Thấy các
bậc Hiền Thánh mong đạt được như vậy.
- Sám trừ nghiệp chướng: cho nên nói “lễ Phật 1
lễ diệt hà sa tội” muốn diệt tội trước tiên oai nghi phải nghiêm túc, trong
ngoài oai nghi phải cụ túc mới có thể cảm ứng đến chư Phật, Bồ tát mà hộ trì
gia bị.
Phương pháp sám hối
Lạy thứ nhất: (chân thật phát lộ) đệ tử sám hối, nguyện cho
mọi người cùng tu sám hối.
Phát lộ sám hối – từ xưa đã tạo các nghiệp ác, đều do vô thỉ
tham sân si, từ thân miệng ý mà sanh ra,
tất cả con nay xin sám hối.
Chân thật sám hối – tội từ tâm khởi đem tâm sám, tâm được
diệt rồi tội cũng tiêu, tội tiêu tâm diệt thảy đều không, như vậy gọi là thật
sám hối.
Lạy thứ hai: Đệ tử phát nguyện tu đạo, nguyện cùng pháp giới
chung sanh đều tiêu hết phiền não 3 chướng, cùng được trí huệ hiểu chân thật,
nguyện cho tội chướng đều tiêu trừ, đời đời thường hành đạo Bồ tát
Lạy thứ ba: Đệ tử cùng hạnh Phổ Hiền hồi hướng – nguyện khắp
pháp giới chúng sanh đồng sanh về cực lạc, cùng chứng chơn thường. Con đem hạnh
Phổ Hiền thù thắng này, vô lượng phước báu đều hồi hướng, nguyện khắp chúng
sanh đang chìm đắm, vãng sanh về cõi Phật Di Đà.
Văn lễ Tam Bảo.
Đệ tử chúng con nguyện cùng đệ tử nhiều đời, Cha Mẹ hiện
tại, Sư trưởng, Tri thức, Đàn Việt, quyến thuộc đạo đời, oán thân trái chủ, cho
đến bốn ân ba cõi, pháp giới chúng sanh trượng thừa sức oai thần
Thân-Trí-Hạnh-Nguyện của Quán Âm Bồ tát, Phổ Hiền Bồ tát, 3 nghiệp thanh tịnh
phân thân vô số tận kiếp vị lai, nhất tâm đảnh lễ tận hư không giới vi trần sát
độ trung, Thập Phương Tam Thế Nhất Thiết Chư Phật.
Lễ Phật.
Năng lễ sở lễ tánh không tịch, cảm ứng đạo giao nan tư nghị,
ngã thử đạo tràng như đế châu, chư Phật Như Lai ảnh hiện trung, ngã thân ảnh
hiện chư Phật tiền, đầu diện tiếp túc qui mạng lễ.
Lễ Pháp.
Chân không Pháp tánh như hư không, thường trụ Pháp bảo nan
tư nghị, ngã thân ảnh hiện Pháp bảo tiền, nhất tâm như Pháp qui mạng lễ.
Lễ Tăng.
Năng lễ sở lễ tánh không tịch, cảm ứng đạo giao nan tư nghị,
ngã thử đạo tràng như đế châu, thập phương Bồ tát ảnh hiện trung, ngã thân ảnh
hiện thánh Tăng tiền, đầu diện tiếp túc qui mạng lễ.
Khi lễ Phật trong tâm phải cung kính Tam Bảo, như lạy thứ
nhất niệm tán Phật kệ (thiên thượng thiên hạ vô như Phật…), lạy thứ hai niệm
khai kinh kệ (vô thượng thậm thâm vi diệu Pháp…), lạy thứ ba niệm Tăng bảo
không nghĩ bàn…, hoặc một lần lạy niệm Nam Mô Tận Hư Không Thập Phương Tam Thế
Nhất Thiết Phật, Pháp, Tăng…, cũng có thể 3 lạy đều niệm Nam Mô Bổn Sư Thích Ca
Mâu Ni Phật. Lễ Phật quan trọng là thành kính, cho nên khi quán tưởng hoặc niệm
tụng, thấy cá nhân tu hành có điều khác lạ đều không có nhất định.
Khi lễ Phật 2 chân không được di chuyển tránh dẫm lên áo
tràng, khi lạy mông phải sát chân không được quá cao, như vậy mới hợp lễ nghi.
Động tác không nhanh không chậm, trong tâm thì kiền thành, ngoài thì thể hiện
cung kính mới có thể cảm ứng đạo giao. Khi lễ Phật nên mặc niệm bài kệ: “thiên
thượng thiên hạ vô như Phật, thập phương thế giới diệc vô tỷ, thế gian sở hữu
ngã tận kiến, nhất thiết vô hữu như Phật giả” hoặc “ Pháp Vương Vô Thượng Tôn,
Tam Giới vô luân thất, Thiên Nhân chi Đạo Sư, Tứ Sanh chi Từ Phụ, ngã kim đắc
quy y, năng diệt tam kỳ nghiệp, xưng dương nhược tán thán, ức kiếp mạc năng
tận”
Khi có người đang lễ Phật, không được đi ngang qua phía
trước.
Nếu có các vị xuất gia đang lễ Phật, không được cùng các
thầy lễ, phải lễ sau các thầy.
Khi lễ Phật nhìn có vẻ cung kính, thật ra trong lòng ngã mạn
hoặc là muốn người khác khen mình tu hành, là giả hiện oai nghi.
Chính giữa chánh điện là nơi dành riêng cho vị trụ trì lễ
Phật.
Kính Pháp.
Như thế nào là thỉnh Kinh, trì kinh.
Khi thỉnh kinh phải cầm giữa hai tay, ngón tay cái và ngón
tay trỏ đặt trên mặt quyển kinh, 3 ngón còn lại đặt ở mặt dưới quyển kinh.
Khi cầm Kinh Tượng phải cầm bằng 2 tay và ngang ngực, không
được cầm 1 tay mang đi như cầm các vật khác, cũng không được đặt để tùy tiện
hoặc kẹp dưới nách.
Không được cuộn tròn quyển Kinh.
Tụng Kinh như thế nào:
Khi tụng đọc Kinh Luật Phật nên đốt hương ngồi ngay thẳng
cũng như đối trước Phật, không được ngồi duỗi chân dựa dẫm mất sự cung kính.
Muốn đọc kinh trước tiên ngồi tĩnh tọa một lúc rồi mặc niệm bài kệ: “vô thượng
thậm thâm vi diệu Pháp, bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ, ngã kim kiến văn đắc thọ
trì, nguyện giải Như Lai chơn thật nghĩa”. Lúc tụng kinh ngoài việc không duỗi
chân cũng không được vừa tụng kinh vừa ăn uống.
Khi tụng kinh mỗi chữ mỗi câu cần hiểu nghĩa lý tương ưng
với tâm, không được qua loa cho xong.
Kinh sách phải lấy đồ che trùm để khỏi dính bụi. Trên quyển
kinh nếu có bụi bám phải dùng khăn lau, không được dùng miệng thổi bụi, không
được để đồ và các sách vở của thế tục trên Kinh điển, phải kính Pháp như kính
Phật vậy.
Tụng niệm một mình nếu không trở ngại người khác thì được,
nên tùy theo đại chúng mà tụng niệm. Khi tụng niệm cùng chúng phải hòa hợp theo
nhịp mõ không nhanh không chậm, hoặc tụng quá lớn tiếng ảnh hưởng đến đại
chúng.
Tụng Kinh dừng ở trang nào nên làm dấu để nhớ, không được bỏ
qua trang.
Kinh sách là dùng để tụng đọc không được viết chữ lên, vạn
bất đắc dĩ thì dùng viết chì (ghi chú) để nhớ, sau khi thuộc nhớ rồi phải tẩy
sạch. Nếu giảng Kinh không được làm tiêu mất những chỗ bút ký trong quyển kinh.
Trong lúc tụng Kinh có người tới thăm hoặc hỏi han, có thể
chấp tay đáp lễ hoặc làm dấu ghi nhớ, xếp Kinh điển lại, đứng dậy tiếp khách,
chưa xếp cất Kinh điển mà còn nói chuyện bàn luận chuyện thế gian, hoặc cười
giởn… đây là hành vi bất kính xem thường Pháp bảo. Nếu ho phải lấy tay áo che
miệng. Tụng Kinh chưa xong không được sanh tâm phiền não, nên biết rằng: mục
đích của tụng kinh là khai mở trí huệ. Mục đích niệm Phật là vì bồi dưỡng tín tâm
nguyện lực. Mục đích ăn chay là vì bồi dưỡng tâm từ bi.
Trong lúc tụng (đọc) kinh nếu có sinh tạp niệm, nên gấp Kinh
lại đợi tạp niệm tiêu hết mới tiếp tục tụng (đọc).
Khi thỉnh mua kinh sách phải ngồi nghiêm túc ngay thẳng. Đối
với Kinh sách, Ca Sa, Y Bát, Tích Trượng, Chuỗi, Phất Trần, tất cả những pháp
khí đều phải có thái độ cung kính.
Kinh sách có hư hoại nên tu bổ sửa sang, nếu như không biết
sửa thì có thể đem đốt, rồi mang tro rãi ở nơi sạch sẻ, tránh chỗ có người giẫm
đạp.
Kính Tăng.
Tăng có 5 đức nên cung kính
Phát tâm ly tục: Nghĩa là người xuất gia phát tâm dõng mãnh
thoát ly phàm tục, tu tập giác ngộ là phước điền của thế gian.
Hủy bỏ hình tướng tốt đẹp: nghĩa là người xuất gia cạo bỏ
râu tóc, hủy bỏ tướng đẹp, cởi bỏ y phục thế tục mặc Pháp phục của Như Lai, đầy
đủ oai nghi là Phật điền của thế gian.
Dứt đoạn tình cảm người thân: Người xuất gia cắt dứt tình
cảm yêu thương cha mẹ mà nhứt tâm siêng năng tu đạo, để báo đức sanh thành của
cha mẹ, là phước điền của thế gian.
Vất bỏ thân mạng: nghĩa
là người xuất gia xả bỏ không tiếc thân mạng chỉ có một tâm nguyện cầu chứng
Phật đạo, là phước điền của thế gian.
Chí cầu Đại Thừa: nghĩa là người xuất gia luôn mang tâm
nguyện cứu giúp muôn loài, quyết chí chuyên cần cầu pháp Đại Thừa để độ thoát
tất cả hữu tình, là phước điền của thế gian.
Với những điều phép tắc cơ bản trên chúng tôi lược dịch ngắn
gọn kính gởi đến quý Phật tử, chỉ một tâm nguyện góp phần công đức xiển dương
Phật Pháp, mang lại lợi ích cho hàng Phật tử tại gia có được những kiến thức cơ
bản trong tu tập để hoàn thiện phong cách của người Phật tử chánh tín, kính tin
Tam Bảo, hộ trì Phật Pháp, và quan trọng hơn hết là khi quý Phật tử đến chùa
tụng Kinh, lễ Phật…sẽ được vô lượng an lạc thập phần công đức.
Nguồn: Chùa Minh Thành
0 nhận xét:
Đăng nhận xét