Đặc tính thứ hai của tứ diệu đế là nguyên tắc chỉ đạo. Đó là
phương pháp hướng dẫn về con đường thực tập.
Tu tập là nhận
diện sự thật, là đối diện với sự thật tức là nhìn thẳng vào sự sống đang có mặt
trong ta và quanh ta. Có đau khổ thì biết là ta đang có đau khổ. Có hạnh phúc
thì biết ta đang có hạnh phúc. Mỗi khi buồn giận biết ta đang buồn giận. Lúc
nào tự ái biết ta đang tự ái. Có tham đắm thì biết ta đang có tham đắm. Có tự
do thì biết ta đang có tự do. Nhìn cảnh bình minh rực rỡ mà cảm thấy hạnh phúc
thì biết ta đang có hạnh phúc. Có bình an trong nội tâm thì biết ta đang có sự
bình an. Đây là con đường tắc. Biết là con đường chim bay, như cánh hạc bay vào
khung trời thênh thang của hạnh phúc. Tu tập như thế thật là thảnh thơi và
thoải mái vô cùng! Cho nên, ta không cần phải che đậy, trốn chạy hay sợ hãi bất
cứ một vấn đề gì.
Tứ diệu đế có
tính cách phổ biến, bao trùm tất cả giáo lý của Bụt. Bởi vậy, bất cứ kinh điển
nào thiếu nền tảng và bản chất của tứ diệu đế, tức là nhận diện về khổ đau đang
hiện thực, tình trạng đưa tới khổ đau và con đường đưa tới hiểu biết, tình
thương và giải thoát thì nó không phải là Phật pháp chánh thống. Muốn xây căn
nhà, biệt thự, tòa cao ốc, người xây dựng phải đặt nền móng cho vững chắc, bởi
vì không xây như thế thì ngôi nhà ấy sẽ dễ bị sụp đổ. Tứ diệu đế là nền móng
của ngôi tòa Phật Pháp đó. Tứ diệu đế là ‘nhựa sống’ của cây cổ thụ Phật giáo
đã sống cách đây trên hai ngàn năm, và nó đã sinh ra không biết bao nhiêu cây
con. Cố nhiên, cây phải cần có “nhựa” mới có thể sống còn một cách mạnh khỏe và
xanh tươi. Thiếu nhựa sống, cây sẽ bị ốm yếu và không thể nào sinh ra được lá
xanh và hoa thắm. Cho nên, Tâm kinh Bát Nhã, kinh Bảo tích, Hoa nghiêm, Pháp
Hoa đều nói về khổ đau và những phương pháp tu tập chuyển hóa thành an lạc.
Bốn sự thật cao
quí là con mắt tinh khôi và tình yêu thủy chung của Bụt. Người bắt đầu chuyển
bánh xe chánh pháp bằng bốn sự thật vi diệu và tám sự hành trì chân chánh; tới
khi gần nhập diệt, Bụt cũng nói về bài pháp này cho vị đệ tử xuất gia cuối cùng
là tôn giả Subadha.
Cái nhìn khoa học
Đặc tính thứ
ba của tứ diệu đế là nguyên tắc y khoa, tức là cái thấy phù hợp với nền văn
minh y khoa hiện đại. Lời tuyên bố này chính do Bụt nói ra trong kinh Tạp A Hàm
số 389.
“Có bốn phương
pháp thành tựu gọi là vua của bác sĩ, xứng đáng được ngôi vua. Những gì là
bốn? Thứ nhất là khéo biết bệnh, thứ hai
là khéo biết nguyên nhân của bệnh, thứ ba là khéo biết cách đối trị cơn bệnh,
thứ tư là biết trị bệnh để về sau nó không còn tái phát nữa.”
Bác sĩ phải
biết xét nghiệm, điều trị và chữa lành cho bệnh nhân theo nguyên tắc y khoa,
cho nên bác sĩ biết rõ cơn bệnh như đau bụng, cảm lạnh, ho, sốt, nhiễm trùng,
ung thư... Bác sĩ thẩm xét kỹ lưỡng để biết rõ nguyên nhân của cơn bệnh như do
trúng gió, sổ mũi, khí lạnh, thời tiết, vi trùng, nhiễm trùng… Từ đó, bác sĩ
mới tìm ra được phương thuốc đối trị cơn bệnh ấy, nên thoa thuốc, cho mửa, cho
xổ, nhỏ mũi, xông, toát mồ hôi... Đau
bụng này là loại bệnh gì ? Do nguyên nhân đầy hơi, không tiêu, tiêu chảy, giun
sán hay vi khuẩn. Các bệnh khác cũng phải chẩn đoán và khám nghiệm như thế. Trị
bệnh bằng cách nào? Bệnh cảm trị bằng Tylenol, sốt nóng trị bằng paracetamol,
hơi trong bụng trị bằng carbomango, nhiễm trùng cổ, họng, da trị bằng thuốc
Cefuroxim, ung thư điều trị bằng điện xạ (electric radiation) hay điều trị hóa
học (chemal theraphy)…
Cũng như trên,
ta nhận diện nỗi khổ này là là loại gì? Nó là cơn giận, tự ái, chán nản, sợ hãi
hay đam mê. Nó thuộc về thân thể hay tâm ý, cảm thọ hay bệnh tật. Cơn giận là
ngọn lửa thiêu đốt thân tâm, tạo ra cảm thọ bất an và khó chịu, thường chi phối
suy tư và tình cảm của ta. Cho nên, ta phải biết nhận diện, gọi tên cơn giận ấy
cho tường tận. Giận biết giận, buồn biết buồn, thương biết thương, ghét biết
ghét... là phương pháp thực tập đơn sơ mà tuyệt diệu vô cùng gọi là nhận diện đơn
thuần (pure recognition). Từ đó, ta thực tập hơi thở ý thức, bước chân thiền
hành, tọa thiền tĩnh tâm, quán chiếu nhìn sâu để làm lắng dịu cơn cảm xúc giận
hờn và thấy đâu là nguyên nhân chính tạo thành ngọn lửa sân hận.
Theo lời Bụt
dạy, cơn giận bắt nguồn từ hạt giống sân hận ở trong tàng thức mà ta đã tiếp
nhận từ cha mẹ, ông bà và tổ tiên. Chính hạt giống này mới có khả năng bùng nổ
để trở thành khối lửa sân hận. Cũng giống như hạt cải được ấp ủ trong lòng đất
ẩm ướt với độ nóng đúng mức thì nó mới có thể nẩy mầm trở thành cây cải con,
không có hạt cải thì không thể nào có được cây cải con, đất không có khả năng
cung cấp cây cải con mà chỉ làm điều kiện thuận lợi nuôi dưỡng cho hạt cải nẩy
mầm và lớn lên. Cũng như thế, cơn giận không thể tự nhiên mà bùng nổ, không thể
do từ bên ngoài đưa tới, không phải do trời đất hay bất cứ ai đưa tới. Nó phát
khởi từ hạt giống giận hờn trong tâm thức do sự tác động bởi lời nói, hành động
hoặc ý kiến từ bên ngoài. Thấy rõ nguyên nhân chính của nó, ta không còn trách
móc, đổ lỗi, hiềm hận người kia nữa, nhờ vậy, ngọn lửa sân hận trong tâm từ từ
yếu dần rồi dập tắc, đưa tới sự hiểu biết, tha thứ và thương yêu.
Những trường
hợp khác cũng vậy, tức là nhận diện và quán chiếu vào bản chất của chúng để
thấy nguyên nhân chính tạo thành niềm đau nỗi khổ. Lạnh thì mặc thêm áo, nóng
thì bớt áo, giận thì đừng nói, đau bụng thì đừng nên ăn, cảm thì phải tránh
nước…
Thấy và thực
tập như thế tức là đi đúng nguyên tắc y khoa, phương pháp thực hành của bốn sự
thật mầu nhiệm.
Lang


07:59
ĐẠO PHẬT CHÂN CHÍNH
Posted in:

0 nhận xét:
Đăng nhận xét