
I. Dẫn:
Con người ta bị trôi lăn trong luân hồi cũng vì tạo tác những
nghiệp ác, những nghiệp ấy do từ hành động (thân), lời nói (khẩu), và tưởng
nghĩ (ý) mà sanh ra; để diệt trừ những nghiệp ác, đức Phật có nói Kinh Mười
Điều Thiện (Thập Thiện Nghiệp Đạo Kinh), nó là muôn gốc lành, sẽ được thân
tướng tốt đẹp, ở cõi thanh tịnh trang nghiêm, thành tựu viên mãn.
II. Mười Điều Thiện:
Phật nói Kinh Mười Điều Thiện nầy ở cung Ta Kiệt La Long
Vương. Trong pháp hội nầy, Phật gọi Ta Kiệt La Long Vương dạy rằng: "Tất
cả chúng sanh vì tâm sai khác nên tạo các hạnh nghiệp chẳng đồng ; do hạnh
nghiệp ấy, chúng sanh bị luân hồi trong 6 đường. Long Vương !Ngươi có thấy đại
chúng trong hội nầy và tất cả chúng sanh thân hình và sắc tướng của mỗi người
đều sai khác chăng ? Có những thân hình sắc tướng sai khác như vậy, là đều do
tâm tạo thân nghiệp, ngữ nghiệp và ý nghiệp hoặc lành, hoặc dữ mà gây ra. Những
người có trí tuệ, rõ biết lý nhân quả như vậy rồi, nên tu thiện nghiệp, bởi có
tu thiện nghiệp mới cảm được thân tướng tốt đẹp, quốc độ trang nghiêm.
Long Vương! Ngươi thử xem thân tướng của Như Lai và các vị
Bồ Tát có đủ các tướng tốt hào quang sáng chói như thế, đều do tu thiện nghiệp
mà được. Còn tất cả chúng sanh hình sắc hoặc xấu hoặc tốt, hoặc lớn hoặc nhỏ,
mỗi người đều do tự tâm tạo nghiệp chẳng lành gây ra. Bởi vậy nếu các ngươi
biết tu thiện nghiệp và dạy bảo mọi người hiểu lý nhân quả mà tu thiện nghiệp,
thời quyết định sẽ khỏi các quả báo xấu xa, được thân tướng tốt đẹp, quốc độ
trang nghiêm như chư Phật, Bồ Tát.
Long Vương! Ngươi phải biết Bồ Tát có một pháp có thể dứt
tất cả sự khổ não trong các đường dữ, là Bồ Tát luôn luôn quan sát tu tập thiện
pháp, làm các thiện pháp niệm niệm tăng trưởng; không một niệm ác xen lẫn, bởi
vậy các ác pháp bị dứt hẳn, các thiện pháp được viên mãn..."
Thiện pháp nghĩa là pháp lành: Tất cả đạo quả Thanh Văn,
Duyên Giác, Bồ Tát và Phật đều y vào pháp ấy mà thành tựu. Pháp ấy là mười
nghiệp lành gồm có:
Không giết hại.
Không tà dục.
Không trộm cắp.
Không nói dối.
Không nói thêu dệt.
Không nói lưỡi hai chiều.
Không nói lời hung ác.
Không tham muốn.
Không giận hờn.
Không si mê.
Mười nghiệp lành nầy nằm trong ba nghiệp: Thân Nghiệp, Khẩu
Nghiệp và Ý Nghiệp.
A) Thân Nghiệp: Những hành vi thuộc về thân có 3 :
a) Không giết hại: Có nghĩa là không hủy hoại cuộc sống của
mọi loài, không tự hủy hoại mình, không sai người khác giết hại, thấy người
khác giết hại không sanh lòng mừng vui; trái lại người Phật Tử phải tìm mọi
cách để cứu sống chúng sanh, chẳng hạn như mua chim, mua cá thả cho chúng sống
đời tự do, không bị cảnh cá chậu, chim lồng. Cá nuôi trong chậu, chim bị nhốt
trong lòng dù cho có được ăn uống đầy đủ nhưng nào có được tự do, khác chi với
cảnh con người bị tù đày, chúng ta không muốn bị tù đày tại sao chúng ta lại tù
đày chúng, chúng ta muốn luôn luôn được tự do, chúng ta nên mua chim, cá thả để
cho chúng tự do.
b) Không trộm cắp: Không chiếm đoạt về phần mình những của
cải của người khác từ đất đai, nhà cửa, ruộng vườn, xe cộ là những vật lớn cho
chí vật nhỏ như cây kim, sợi chỉ cũng không chiếm đoạt của người khác. Người ta
không thuận cho, tìm cách chiếm đoạt, tự tiện lấy dùng cũng thuộc về trộm cắp.
Dùng sức mạnh để chiếm đoạt của người khác là tội cướp, dùng những phương tiện
xảo trá để lường gạt người, cho đến trốn thuế cũng thuộc về trộm cắp, tất cả
những việc sai trái như thế đều không làm, trái lại đem tiền của, phương tiện
của mình để giúp đỡ cho chúng sanh được an vui, ấm no đó là sự bố thí đáng làm.
c) Không tà dục: Nghĩa là không sống trác táng, ăn chơi, cờ
bạc, rượu chè, hút sách. Trái lại phải tu hạnh tiết dục thanh tịnh, tu sĩ cấm
hẳn tà dục, hàng cư sĩ lập gia đình phải tiết dục, chỉ sống một vợ một chồng,
trong sạch từ thể chất đến tinh thần. Tà dục là gốc sanh tử luần hồi, người tu
theo đạo Phật phải dứt bỏ dần dần tà dục, để trở nên người thanh khiết.
B) Khẩu Nghiệp: Thuộc về khẩu nghiệp là những lời nói thô,
có 4 cách :
a) Không nói dối: Nghĩa là không nói sai sự thật như :
Không thấy nói thấy, thấy nói không thấy.
Nghe nói không nghe, không nghe nói nghe.
Biết nói không biết, không biết nói biết.
Biết trái nói phải, biết phải nói trái.
Gặp trường hợp đặc biệt phải nói không đúng sự thật để cứu
mạng chúng sanh, buộc lòng phải nói, chẳng hạn như có một người đi săn đuổi
theo một con thú, ta thấy lối con thú ấy chạy, người thợ săn đến gặp ta, hỏi ta
có thấy con thú chạy lối nào không, để cứu con thú khỏi chết, ta có thể nói
không thấy. Như vậy, ta đã thực hành được hạnh Từ Bi. Việc nói chơi cũng không
nên nói, trong Kinh Di Giáo, Phật có cấm bất hý luận .
b) Không nói lời hung ác: Không nên chưởi rủa người, dù là
bậc trên trước, có quyền thế, như ông bà, cha mẹ cũng không nên ỷ vào quyền thế
ấy mắng chửi người hay con cháu, dù người đó có lầm lỗi, trái lại nên dùng lời
dịu dàng, chỉ dạy cho người ta thấy những lỗi lầm, để lần sau tránh.
c) Không nói thêu dệt: Không nên thêm bớt để chuyện không
nói có, chuyện có nói không, dùng lời lẻ làm cho câu chuyện sai với sự thật
trắng thành đen, đen thành trắng, hoặc dùng lời văn hoa, bóng bẩy để mê hoặc
làm hại người, những việc đó đều không nên làm, trái lại nên nói lời đúng đắn,
chơn thật với lòng mình.
d) Không nói lưỡi hai chiều: Không nên nói đòn xóc, đến bên
A nói xấu bên B, đến bên B nói xấu bên A , mục đích gây chia rẽ, làm cho hai
bên thù địch nhau. Trái lại nên dùng lời lẽ để hóa giải mọi sự thù nghịch.
C) Ý Nghiệp: Những suy nghĩ, tưởng tượng có 3 cách tạo thành
ý nghiệp :
a) Không tham muốn: Không tham muốn năm món dục lạc ở đời:
Sắc đẹp, của cải, danh vọng, ngủ nghỉ, ăn uống. Tham muốn sắc đẹp hao tốn tiền
của, nhiều khi phải dùng những mưu chước tồi tệ làm mất phẩm chất con người,
khi không thỏa mãn đâm ra ghen tương, thù hận giết chóc, tù đày. Tham của cải
phải đày đọa tấm thân làm cho có nhiều tiền của, nhiều khi phải dùng mưu sâu,
chước độc để hại người đoạt của. Tham danh vọng phải vào lòn ra cúi, nhiều khi
phải lao tâm cực trí để được cái danh hão huyền. Tham ăn cao lương mỹ vị làm
cho thân thể dễ sanh bệnh tật. Tham ngủ nghỉ làm cho trí não trở nên đần độn.
Năm món dục lạc làm cho con người bị tù đày, tội lỗi, là nguyên nhân chính trói
buộc người ta trong sanh tử luân hồi. Chẳng những người tu phải biết tiết dục
mà còn biết tri túc, tức là hạn chế dần lòng khát khao ham muốn, chỉ nên sống
cuộc sống tạm đủ, không đua chen với đời, nhiều người tu cơm ăn chỉ cần đủ no,
áo mặc chỉ cần đủ ấm, nơi ở chỉ cần có chỗ nằm tránh mưa, tránh nắng, tránh
luồng gió độc mà thôi, những người đó không bị vật chất ràng buộc, họ sẽ được
mau giải thoát.
b) Không giận hờn: Giận hờn là một tánh xấu, rất tai hại, nó
như một ngọn lửa mạnh, đốt cháy cả mọi vật chung quanh cả mình lẫn người. Trong
kinh Phật có dạy: Một niệm giận hờn nổi lên, thì trăm nghìn cửa nghiệp chướng
đều mở. Lữa tức giận một phen phát ra, liền đốt tất cả rừng công đức" .
Trong kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo, người nào không giận tức, sẽ được tám món tâm
pháp sau đây:
Không tâm khổ não.
Không tâm giận hờn.
Không tâm tranh giành.
Tâm nhu hòa ngay thẳng.
Tâm từ bi như Phật.
Thường làm lợi ích yên ổn cho các chúng sanh.
Thân tướng trang nghiêm, chúng sinh tôn kính.
Có đức tính nhẫn nhục được mau sanh lên cõi Phạm Thiên.
Nhờ quán từ bi, tâm sanh lòng từ bi, chúng ta mới không giận
hờn khi có người làm cho chúng ta giận hờn, những người làm để cho ta sanh tâm
giận hờn, vì sự ít hiểu biết nên họ mới làm như thế, chúng ta nên thương họ,
chỉ có tấm lòng từ mới bao dung, tha thứ được lầm lỗi của kẻ khác.
c) Không si mê: Si mê là nguồn gốc của mọi tội lỗi, vì si mê
người ta không phân biệt phải trái, không nhận định rõ đúng sai, chấp theo sự
hiểu biết của riêng mình nó che lấp sự thật, chơn lý. Người không si mê là
người có trí huệ, tu tập thiện nghiệp, nên quán nhân duyên sanh tử để diệt trừ
vô minh, tinh tấn trên đường giải thoát.
III. Kết Luận:
Phật dạy Kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo để cho chúng ta dứt bỏ
những tội lỗi, nhen nhúm và tăng trưởng dần dần những nghiệp lành, để giải
thoát dần những ràng buộc trong sanh tử luân hồi, tiến dần lên Phật quả.
Hành mười điều thiện, chúng ta làm được những lợi ích sau
đây:
Cải tạo thân tâm: Trước nhất chúng ta cải tạo thân tâm của
chúng ta, nếu một người dốc lòng chí nguyện thì trong vòng 7 năm, thân tâm
người ấy sẽ hoàn toàn thay đổi.
Cải tạo hoàn cảnh: Một người thực hành theo mười điều thiện,
người ấy sẽ cảm hóa được những người chung quanh, người ấy ăn hiền, ở lành sẽ
được những người khác yêu mến, không có những cuộc tranh đua, hóa giải những tị
hiềm, đố kỵ, tạo ra sự an lạc cho mọi người.
Chánh nhân thiên giới: Tu theo mười điều thiện là gieo nhân
chân chánh, để kiếp sau sẽ sanh về cõi Trời, hưởng phúc lạc đầy đủ, tốt đẹp.
Căn bản Phật quả: Ba đời mười phương chư Phật đều phải trải
qua công hạnh tu tập theo mười điều thiện, nó là cửa ngỏ dẫn người ta đi dần
lên Phật quả.
Vì vô minh che lấp trí huệ nên thân, khẩu, ý tạo tác ra
nhiều điều ác, những điều ác trong thế gian quy thành mười loại nghiệp ác, muốn
trừ nó, chúng ta đừng làm ác, đương nhiên là chúng ta tạo được nghiệp lành,
hiện tại làm lợi ích cho chúng sanh, được mọi người kính yêu, tạo được hoàn
cảnh yên vui, tránh khỏi bị đọa tam đồ khổ, lại còn được hưởng phước báo ở cõi
Người, Trời và cõi Niết Bàn.
Tu theo mười điều thiện được lợi ích trước mắt như thế,
chẳng những cho ta mà còn cho chúng sanh, kiếp nầy cũng như mai sau, người tu
nên theo con đường quan trọng do Phật đã chỉ bày.
Phúc Trung
Sách tham khảo:
1. Minh Châu, Thiên Ân, Chơn Trí, Đức Tâm. "Phật
Pháp". Sài gòn, 1951.
2. Thích Thiện Hoa. "Phật Học Phổ Thông, Khóa I &
II". Sài gòn, 1989.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét