Triết lý Duyên
khởi (Paticcasamuppàda) và tính Không (Sunyàta) là hai điểm giáo lý then chốt
của Phật giáo được trình bày xuyên suốt trong các kinh điển, từ Nikaya, Agama
cho đến các kinh điển thuộc văn hệ Đại thừa (Mahayàna).
I. Tổng quan về Duyên khởi và tính Không
Triết lý Duyên khởi
(Paticcasamuppàda) và tính Không (Sunyàta) là hai điểm giáo lý then chốt của
Phật giáo được trình bày xuyên suốt trong các kinh điển, từ Nikaya, Agama cho
đến các kinh điển thuộc văn hệ Đại thừa (Mahayàna). Đây cũng là phần giáo lý độc
nhất vô nhị của Phật giáo, mà không hề tìm thấy trong bất kỳ hệ thống giáo lý
nào khác trong lịch sử của tôn giáo và triết học, trước cũng như sau thời Đức
Phật. Đứng trên góc độ lịch sử-tư tưởng, Duyên khởi được xem như là phần triết
lý nền tảng của cả hai hệ thống Nam tạng và Bắc tạng, từ thời kỳ Phật giáo
Nguyên thủy (Theravàda) đến Phật giáo Phát triển sau này. Riêng về triết học
tính Không, sự phát triển của nó bắt nguồn từ khởi điểm của Phật giáo Mahayàna
(Phật giáo Phát triển) và nội dung như đã được trình bày cụ thể trong kinh Bát
Nhã (Prajanaparamita Sùtra), một bộ kinh đầu tiên thuộc văn hệ Đại thừa. Mặc
dầu vậy, về nội dung triết lý, giữa Duyên khởi và tính Không không có sự khác
biệt về bản chất. Trên phương diện logic học, mối quan hệ giữa Duyên khởi và
tính Không được xem như là "một dòng vận hành tất yếu", như nước trăm
sông cùng đổ về biển cả; nó vừa là nguyên nhân, lại vừa là kết quả sinh khởi
nên vạn hữu trong vũ trụ vô biên này. Sự thể như thế nào sẽ được trình bày ở
phần nội dung.
II. Nội dung của Duyên khởi và tính Không
1- Duyên khởi
Nếu như thế giới bao la
mênh mông này được chia thành hai loại: hữu tình chúng sinh (tức những loài có
tri giác như động vật, con người) và vô tình chúng sinh (tức những loài vô tri
như cỏ cây hoa lá, sông suối, đá đồi v.v...), thì Duyên khởi, ở một góc độ nào
đó, cũng có thể chia thành hai loại: một loại tập chú vào sự hiện hữu của con
người được Đức Phật dạy qua 12 Nhân duyên, và một loại khác chỉ đến sự tương
duyên, tương tác trong sự hình thành và hiện hữu của thế giới khách quan, tự
nhiên được dạy qua định thức tổng quát về Duyên khởi. Tuy nhiên, cả hai đều
trình bày về sự thật Duyên khởi - nguyên lý tương tác, sinh khởi và vận hành
của vũ trụ nhân sinh. Ở đây, phạm vi của bài viết chỉ đề cập đến Duyên khởi qua
định thức tổng quát.
Kinh Phật Tự Thuyết (Tiểu
Bộ I, tr.291), Đức Phật đã trình bày tóm tắt về nguyên lý Duyên khởi như sau:
"Do A hiện hữu nên B hiện hữu
Do A sinh khởi nên B sinh khởi
Do A không hiện hữu nên B không hiện hữu
Do A đoạn diệt nên B đoạn diệt"
Do A sinh khởi nên B sinh khởi
Do A không hiện hữu nên B không hiện hữu
Do A đoạn diệt nên B đoạn diệt"
Nguyên lý này bảo rằng,
tất cả hiện hữu trong thế giới bao la mênh mông này, không một hiện hữu (sự
vật, hiện tượng) nào có thể tồn tại một cách độc lập mà không nương tựa vào
nhau. Sự nương tựa và tùy thuộc nhau để hình thành và tồn tại v.v... là nguyên
lý vận hành của vũ trụ nhân sinh này; tương tự như thế đối với hằng hà sa thế
giới. Do đó, Đức Phật bảo rằng: "Do A hiện hữu nên B hiện hữu... Do A đoạn
diệt nên B đoạn diệt". Có thể lấy tỷ dụ như nước và sóng gió, do có nước
và gió nên mới có sóng cuộn nhấp nhô. Nếu không có nước thì sẽ không bao giờ có
sóng. Sóng có mặt là do nương vào nước và gió v.v... Rồi tiếp tục suy luận như
thế, bản thân của nước cũng không phải do đơn độc hình thành, mà cơ cấu của
nước là H2O. Vì thế, qua đôi mắt bình thường, nước là nước; nhưng
qua lăng kính khoa học, nước không phải là nước, mà nước là hợp chất của hydro
và oxy v.v... Tương tự như thế đối với tất cả hiện tượng, sự vật, cả hữu tình
(động vật) và vô tình (thực vật - hay vật vô tri). Sự có mặt của mỗi hiện hữu
luôn luôn bao gồm trong nó hàng loạt các giá trị của nhân và duyên. Đây là nội
dung cơ bản của định thức tổng quát về Duyên khởi.
2- Tính Không
Tính Không (Sunyàta)
không phải là một khái niệm đối lập với Có, mà Không ở đây là thực tính của các
pháp (những gì có mặt trong cuộc đời). Tính Không cũng không phải là chủ nghĩa
hư vô không tận; nó vốn thoát ly mọi đối ngẫu phân biệt giữa hữu-vô, sanh-diệt,
thường-đoạn, khứ-lai, siêu việt lên trên tất cả mọi phạm trù đối lập của thế
giới nhị nguyên. Do đó, mọi khái niệm về Không được xây cất trên tư duy logic
đều không phải là thực tại - tính Không; trái lại, ở đây đòi hỏi một sự thể
nhập trực tiếp vào thế giới thực tại sau khi mọi ý niệm tự ngã được buông bỏ.
Như thế, khi con người còn đầy ắp những tập khí, cảm nhiễm, những khát vọng,
mong cầu được thiết lập trên cơ sở của ý niệm về tự ngã, thì sự bàn bạc về tính
Không chẳng khác nào dã tràng xe cát.
Tuy nhiên, trên mặt hiện
tượng, tính Không được nhận thức như một hệ quả tất yếu trong tiến trình Duyên
khởi mà ngài Nàgàrjuna, qua Trung Quán luận, gọi là "Duyên khởi tức
Không". Điều đó cho thấy rằng, nếu thế giới vũ trụ này được hình thành
theo cơ cấu trật tự của Duyên khởi, thì đương nhiên nó cũng hoại diệt theo cơ
cấu hoàn diệt của Duyên khởi. Vì lẽ, một sự thể nếu được hình thành từ nhiều
nhân duyên (theo như định lý Duyên khởi nói) thì chính sự thể ấy đã loại trừ
cái mà gọi là thực thể (entity) đơn nhất ngay nơi tự thân của nó. Do đó, trên
bình diện công ước, tính Không đã khước từ và phủ định hoàn toàn mọi ngã thể,
nếu ngã thể ấy được xem như là một thực thể độc lập bất biến hay thường tại
vĩnh hằng. Ở đây, cần ghi nhận rằng tính Không không phải là sự đồng hóa hay
đánh mất mọi bản sắc cá biệt của hiện tượng giới (the world of phenomena). Mà
trái lại, cội nguồn của "Duyên khởi tức Không" giải trình hiện tượng
giới qua ba tính chất đặc thù của một sự thể, đó là: Giả danh, Không và Trung
đạo.
a)- Giả danh: Thông
thường, tất cả sự vật, hiện tượng đều được định danh bởi một tên gọi khác nhau,
như nước, mây, mưa, hơi nước v.v... Nhưng các tên gọi đó chỉ là giả danh, vì
chúng tạm thời mà có. Như nước gặp sức nóng-hút của ánh sáng mặt trời thì gọi
là hơi, hơi ngưng tụ thì gọi là mây, mây rơi xuống thì gọi là mưa, mưa đọng lại
thì gọi là nước v.v... Vì thế, các tên gọi mây, mưa, hơi nước... đều là tên gọi
tạm thời được hình thành trên bề mặt của mỗi mỗi sự vật, hiện tượng. Và cái mà
gọi là bản sắc cá biệt của hiện tượng giới chính là hiện thân của tác dụng và
tên gọi tạm thời đó.
b)- Không: Một sự thể,
như đã đề cập, xuất hiện là do các nhân duyên hình thành, và các nhân duyên đó
luôn luôn điều kiện hóa lẫn nhau. Trong khi đó, thực tính của các nhân duyên
đều là Duyên khởi; và, như đã nói, Duyên khởi tức Không, thế có nghĩa Không là
tự tính vô tính của Duyên khởi và là thực tính như tính của Duyên khởi. Tỷ dụ,
nếu phân tích bản chất của nước, hơi nước, mây, mưa, ta sẽ không nắm bắt được
gì ngoài hydro và oxy - công thức là H2O. Và nếu tiếp tục phân tích cho đến độ
không thể phân tích được nữa, thì tự thân của hydro và oxy cũng là Duyên khởi
của một dạng thức năng lượng không hình thù, không màu sắc và không biên giới.
Năng lượng là vô biên, hiện diện ở mọi lúc, mọi nơi. Ngay tại đây, chính năng
lượng hiển thị bản tính Không; nó xóa nhòa mọi khuôn khổ, chiều kích trong từng
mỗi bản sắc cá biệt của hiện tượng giới. Do vậy, sự thể vốn không.
c)- Trung đạo: Trung đạo,
trên mặt triết lý, là lối dẫn vào thực tại tính Không - Niết bàn vô thượng;
trên mặt nhận thức, là sự phủ dẫm mọi định kiến về hữu-vô, sinh-diệt,
thường-đoạn, khứ-lai... Do đó, có thể nói Trung đạo là con đường dắt dẫn mọi
sinh linh một phen đi vào "đô thị tính Không", một cảnh giới Niết bàn
vô thượng hiển hiện ngay trên mặt đất gồ ghề của trần thế này. Trung luận viết
rằng: "Nếu không y vào chân lý công ước (chân lý của kẻ còn vô minh) thì
không thể đạt đến chân lý tuyệt đối; nếu không đạt đến chân lý tuyệt đối (chân
đế), thì không thể hiểu được Phật pháp". Như thế, với Trung đạo, một sự
thể không thể nói là có hay là không, mà chỉ có thể nói nó là Duyên khởi.
III. Duyên khởi & Không qua phương trình E = MC2
Trước năm 1905, Einstein
đã phát biểu công thức E = MC2 trong
thuyết Tương đối hẹp. Mặc dầu công thức này không được in thành sách, nhưng
Paul Langeoin đã giảng dạy nó cho sinh viên. Công thức E = MC2 nói lên một sự
thật Duyên khởi trong thế giới sự vật, hiện tượng qua lăng kính của vật lý học.
Ở đây, E biểu thị cho năng lượng, M biểu thị cho khối lượng vật chất và C biểu
thị cho vận tốc ánh sáng trong chân không.
Về năng lượng (E), được
ví như những làn sóng vô hình mà con người không thể thấy, nghe hay sờ mó được.
Năng lượng E là cội nguồn của tất cả hiện hữu (thế giới thực tại khách quan và
con người); vì thiếu nó, thì mỗi mỗi sự thể M (hay khối lượng vật chất) không
thể hình thành. Cho đến sự vận hành của tâm thức cũng được xem là một dòng năng
lượng đặc biệt (năng lượng tâm thức). Thông qua công thức E = MC2,
ta có thể thấy rằng vật chất chính là năng lượng được cô đọng lại, và năng
lượng chính là vật chất được phân tỏa đến độ tan biến vào hư không vô biên, như
hạt muối được bỏ vào dòng sông. Từ chi tiết này cho thấy rằng, thế giới sum la
vạn tượng này, mỗi hiện hữu, sự thể đều được tạo nên bởi một bản sắc cá biệt,
như: cây, củi, than, tro..., nhưng bản chất của nó thật sự là chân không -
Duyên khởi. Và, mỗi mỗi bản sắc cá biệt đó luôn luôn mang tính cách lâm thời mà
không phải là vĩnh hằng.
Cũng từ công thức E = MC2,
thí nghiệm cho biết rằng khi một điện tử âm mà khối lượng là M = 0,90 x 10-30kg
gặp một điện tử dương mà khối lượng cũng là M, thì cả hai đều biến mất, để cho
một tia gama mà năng lượng E = 1,01 mega-electron-volt. Đổi năng lượng này ra
joule rồi chia cho 2M để được C2 ,
trong đó C là vận tốc ánh sáng trong chân không (300.000km/s). Và nếu đảo lại,
một tia gama mà năng lượng E = 1,10 mega-electron-volt có thể biến đi để cho
hai điện tử: một âm, một dương. Đây là sự trao đổi năng lượng hai chiều giữa
bức xạ và vật chất. Công thức E = MC2 trong vật lý vi mô, như vừa trình bày,
cũng tương tự với công thức W = MC2 trong ngành vật lý vĩ mô (thiên văn).
Từ một vài dữ kiện được
trưng dẫn qua phương trình E = MC2, hiện hữu chung quanh con người -
tức thế giới thực tại khách quan của vô số sự vật, hiện tượng - được nhìn nhận
không gì khác / ngoài nguyên lý Duyên khởi. Và tất nhiên, chân lý đằng sau
Duyên khởi chính là thế giới thực tại - tính Không, mà Bồ tát Mã Minh, trong
Mahàyàna-sradhotspàda-Sàstra, gọi là Chân như - Duyên khởi.
Công thức: Chân như =
Duyên khởi; và đảo ngược: Duyên khởi = Chân như.
Công thức này sẽ trả lời
cho người trần một câu hỏi vĩ đại, rằng tại sao Chân như lại Duyên khởi? Và nó
cũng hiển thị cho thấy tính chất bất khả phân ly của thực tại - hiện hữu:
Sóng về xóa dấu chân không
Bỗng dưng thuyền đã bên dòng chân như" -- (Sakya T.Th)
Bỗng dưng thuyền đã bên dòng chân như" -- (Sakya T.Th)
0 nhận xét:
Đăng nhận xét