Khi nói đến Vô
thường liền hiểu ngay đó là luật tuần hoàn của vũ trụ. Nơi nào có sự vận hành,
chuyển biến, đổi dời, nơi đó có Vô thường. Vì vậy Vô thường là một định luật
phổ biến, bao gồm cả vũ trụ và nhân sinh.
Vì
mang tính phổ biến nên Vô thường là một cuộc đại hóa, sự biến hóa cùng khắp,
bất cứ ở đâu và lúc nào. Dù đức Phật có xuất hiện hay không thì ngọn lửa Vô
thường vẫn cứ điềm nhiên âm ĩ thiêu đốt cả thế gian, không một phút tạm ngừng.
Vì thế, đứng về mặt tục đế hữu hình hữu hoại thì hẳn nhiên Vô thường là chân lý
bất di dịch.
Thân,
tâm và cảnh giới là một dòng chảy (quá, hiện, vị lai). Chánh báo và y baó của
một chúng sinh tạo thành dòng sông sinh mệnh, lực đẩy tạo thành dòng sông sinh
mệnh chính là sự khát ái vào những sở thuộc như sự nghiệp tài sản, danh vọng
nhằm củng cố cái Tôi (giả ngã) trong vòng luân hồi vô tận. Khi nào cái Tôi còn
bén rễ, khi nào ý thức chấp ngã còn bén rễ, khi nào ý thức chấp ngã còn xen vào
cuộc sống thì vòng luân hồi vẫn thường xoay chuyển.
Vô
thường có ba:
- Nhất
kỳ Vô thường - Tương tục Vô thường - Sát na sinh diệt Vô thường.
Nhất
kỳ là thô tướng nhất của Vô thường, chỉ cho sự kết thúc của một tiến trình, như
sự chết của một người, nhưng chết không có nghĩa là mất hẳn, mà chỉ là tạm vắng
ở nơi này, để chuẩn bị biểu hiện thành sự sống ở nơi khác.
-
Tương tục là sự sinh diệt, băng hoại thường xuyên trong lòng sự vật, là sự
chuyển biến không ngừng, nên sự tương tục ấy là tể tướng của Vô thường.
- Sát
na sinh diệt là sự vô thường ma mãnh nhất, nhỏ nhiệm nhất. Sát na là thuật ngữ
nhà Phật hay sử dụng, chỉ cho đơn vị ngắn nhất của thời gian. Một niệm thoáng
qua trong tâm thức có đến 90 sát na. Mỗi sát na là một tiểu niệm. Sự sinh diệt
nhỏ nhiệm của mỗi sát na chỉ có Phật trí mới thấy được. Ba phạm trù thuộc ba
phân loại Vô thường ở trên không chỉ có nơi các hiện tượng vật lý, mà thâu gồm
luôn trong các hiện tượng sinh lý và tâm lý nữa.
Kinh
Pháp Hoa, phẩm Thí Dụ. Phật dạy: "Chúng sanh bị chìm đắm trong vô số nạn
khổ, thế mà không biết lại hoan hỷ vui chơi, chẳng kinh chẳng sợ, chẳng hề biết
chán, chẳng chịu tầm cầu giải thoát. Ở trong nhà lửa tam giới cứ dong ruổi Đông
Tây. Tuy gặp đại khổ mà chẳng biết đó là nguy khốn".
Phật
nói Vô thường (nhà lửa) nhằm phá cái chấp thường của phàm phu, vì mê mờ điên
đảo, vọng nhận các pháp là thực hữu, bèn đem cái tâm Vô thường, dùng cái thân
Vô thường, nắm bắt các pháp Vô thường, cho đến mãn kiếp không bao giờ được thỏa
mãn tâm vọng cầu. Người lớn hay sống về quá khứ, tuổi trẻ hay mơ mộng về tương
lai, người tỉnh thức biết khéo sống nơi giây phút hiện tại. Mảnh đất lập thân
của người phàm là quá khứ vị lai. Nơi an thân và lập mệnh của người tỉnh thức
là hiện tại. Những kỷ niệm vui buồn quá khứ chỉ còn là những viễn ảnh mờ xa rơi
rớt lại trong ký ức. Những dự hướng tương lại chưa đến chỉ là những bóng ma của
hư tưởng. Một cuộc vui nào rồi cũng phải qua đi. Một nỗi buồn nào rồi cũng phải
nhạt theo năm tháng. Cổ Đức có dạy: "Thời gian tợ tên bắn, ngày tháng như
thoi đưa. Vô thường chóng qua mau, gắng gỗ chớ dần dà! Ngày tháng cứ thản nhiên
trôi qua, mạng sống cũng theo đó dần dần đoạn giảm, như cá thiếu nước, nào có
vui gì...".
(Quang
âm tợ tiễn, nhựt nguyệt như toa, Vô thường tấn tốc, thiết mạc ta đà!. Thị nhựt
dĩ quá, mạng diệc tùy giảm, như thiểu thủy ngư, tư hữu hà lạc...).
Trong
một giây có đến 125 triệu tế bào chết đi, nhường chỗ cho 125 triệu tế bào khác
sinh ra, trong ấy thực không thể tìm thấy cái Tôi. Theo đây, luật Vô thường
bình đẳng đối với tất cả chúng sanh (5 uẩn), dầu là kẻ sang người hèn, kẻ ngu
người trí. Quỷ Vô thường tuy không thấy hình dạng nhưng có khả năng làm mạng
căn con người chết dần mòn. Sự nhận diện thường trực nơi tất cả mọi đổi thay
chuyển dời của cuộc sống không phải để đi đến bi quan chán đời, mà là sự nhận
diện cần thiết nhằm thực hiện sự chuyển hóa nơi tâm thức, vốn là sự mê lầm cố
hữu đang đè nặng lên thân phận kiếp người, bình tâm mà nhận xét, vui thú thế
gian tuy tạm bợ mong manh nhưng vẫn có hấp lực phi thường, hấp lực đó cũng
chính là ma lực vô hình dẫn dắt chúng sanh trôi lăn theo sáu nẻo. Chúng sanh
chịu khổ sanh tử không khác nào con tằm mùa Xuân kéo tơ làm kén tự trói buộc
mình, cũng như con thiêu thân tự lao vào đèn chịu cái họa chết thiêu. Nếu như
không đủ phước duyên gặp minh sư dẫn dắt thì làm sao tỏ ngộ được chánh pháp.
Cổ đức
dạy: "Tuy sống một trăm năm như trong khoảng sát na, như lượn sóng rút về
biển Đông, như ánh sáng còn sót lại của buổi chiều tà, như đánh đá nhà lửa, như
ngựa câu thoáng qua khe cửa, như ngọn đèn trước gió, như giọt sương sớm mai
trên đầu ngọn cỏ. Nếu không gặp được chánh pháp, ắt phải chịu vĩnh kiếp trầm
luân!".
(Tuy
niên bách tuế du nhược, sát na, như đông thệ chi trường ba, tợ tây thùy chi tàn
chiếu, kích thạch chi tinh hỏa, sậu khích chi tấn câu, phong lý chi vi đăng,
thảo đầu chi triêu lộ. Nhược bất ngộ ư chánh pháp, tất vĩnh đọa ư ư đồ hỷ!).
Một tâm thức mê mờ quay cuồng trong cảnh sống say chết mộng thêu dệt nên hoàn
cảnh sống, trong đó mình là tác giả. Thế nên kinh Hoa Nghiêm cho rằng tâm chính
là một đại danh họa, họa ra thân năm uẩn và thế giới y báo:
"Tâm như người thợ vẽ
Vẽ mỗi mỗi ngũ uẩn
Trong tất cả thế giới
Đều do tâm tạo tác".
(Tâm như công họa sư
Hỏa chủng chủng ngũ uẩn
Nhất thiết thế giới trung
Giai do duy tâm tạo).
Vẽ mỗi mỗi ngũ uẩn
Trong tất cả thế giới
Đều do tâm tạo tác".
(Tâm như công họa sư
Hỏa chủng chủng ngũ uẩn
Nhất thiết thế giới trung
Giai do duy tâm tạo).
Vô
thường thuộc yếu tố thời gian, là một diễn trình đi từ nhân đến quả. Diễn trình
đó nơi chúng sanh hữu tình thì biểu hiện thành sinh, già, bệnh, chết; nơi các
pháp thì có sinh, trụ, dị, diệt; nơi thế giới thì có thành, trụ, hoại, không.
Sự thay đổi của bốn mùa, sự di chuyển của các hành tinh, vệ tinh cũng không ra
ngoài quy luật của diễn trình đó. Thế giới vĩ mô, thế giới vi mô và thế giới
trung bình cũng cùng một loại. Hễ có thành ắt có hoại, có hợp ắt có tan. Người
quán thông lý Vô thường thì liền dừng, ấy là người tỉnh, người giác. Cái thực
vĩnh cửu vốn vô hình vô tướng, còn cái hữu hình hữu tướng chỉ là giả tạm. Nhưng
sự sống vĩnh hằng cũng không thể tìm ngoài cái Vô thường ảo mộng. Hãy bình
thường trong mọi hoạt dụng của cuộc sống, và tìm cách giải thoát ngay trong
cảnh bình thường đó. Xin thay lời kết thúc bằng đoạn thơ của Thiền sư Thanh
Đàm, thuộc đời thứ 42, tông Tào Động, khoảng đầu thế kỷ thứ 19:
"Công danh cái thế màn sương sớm
Phú quý kinh nhân giấc mộng dài
Chẳng hiểu bản lai vô nhất vật
Công phu luống uổng một đời ai"
Phú quý kinh nhân giấc mộng dài
Chẳng hiểu bản lai vô nhất vật
Công phu luống uổng một đời ai"
0 nhận xét:
Đăng nhận xét