Sắc
thân, cảnh vật, cảm xúc, nhận thức, suy tư và phân biệt chỉ có trong một giai
đoạn nào đó của hợp duyên qua lộ trình nhân quả sinh trụ dị diệt mà thôi nên
gọi là không thực ngã, không thực tánh.
Trên đỉnh cao của tâm thức suy tư quán triệt về thân phận con
người và thế giới ngoại tại vẫn còn triền miên mỗi ngày càng mở rộng, mỗi ngày
một khám phá mới.
Nhận thức xưa nay về con người qua cái nhìn tổng thể, như một tổng
hợp của "ngũ uẩn" (sắc thọ tưởng hành thức). Sắc như thế giới ngoại
tại và tự thân con người bao gồm đất nước gió lữa không, còn thọ tưởng hành
thức như tính sinh động con người gồm buồn vui, tư tưởng, vận hành tâm tư và
nhận thức.
Khi còn nhận thức trong thế giới đối đải có không, sanh diệt, dơ
sạch, tăng giảm v.v. . là còn sống trong khổ dau muôn màu.
Vậy nhận thức như thế nào về có và không để nhận diện và vượt qua
khổ ách trùng trùng miên viễn hiện hữu trên hành tinh này ?
Vô thường là lẽ hiển nhiên : con người sanh lão bệnh tử. Thế
giới chung quanh và vạn vật thành trụ hoại không hay sanh trụ dị diệt . Tất cả
đều theo diễn biến bởi duyên mà thay đổi theo định luật nhân quả nên con người
hiện hữu theo nghiệp lực ở trong giai đoạn định hạn của chu trình nhân quả qua
hợp duyên, nên không có thực ngã còn gọi là vô ngã, cũng thế ở thọ tưởng hành
thức sinh động phát khởi cũng không có thực tánh.
Ngài Quan Thế Âm tham thiền thẩm thầu phát sinh trí tuệ nhận thức
chính thân này do hợp duyên và cảm xúc, tư tưởng, hành hoạt tâm tư cùng nhận
thức cũng theo một tiến trình bởi nhân quả duyên sanh nên Ngài vượt qua uẩn
khúc của có và không.
Thể nghiệm tự thể bản Tâm kinh đã chứng minh hùng hồn, từ hạ tầng
đến thượng tầng của cảnh vật và tâm thức qua lộ trình chứng nghiệm rất rõ
ràng :
Sắc thân, cảnh vật, cảm xúc, nhận thức, suy tư và phân biệt chỉ có
trong một giai đoạn nào đó của hợp duyên qua lộ trình nhân quả sinh trụ dị diệt
mà thôi nên gọi là không thực ngã, không thực tánh.
Ranh giới và định vị của mắt tai mũi lưỡi thân nhận thức tiếp xúc
cảnh vật, âm thanh, hương vị, chạm xúc, cảnh tượng phát sinh phân biệt của sáu
thức cũng trong chu trình giai đoạn bởi duyên sinh nên có hạn định, nên gọi
không thực thể, không thực tánh.
Biến chuyển thay đổi yếu tố và diều kiện của mỗi vật thể đều có
tương quan tương duyên tương tức lẫn nhau cái này có trong cái kia trong trắng
có đen trong đen có trắng, trong tăng có giảm, trong sinh có diệt, trong sạch
có dơ hoặc ngược lại. Sự tương duyên tương sinh tương tức này qua lộ trình
thành trụ hoại không, nên gọi là không thực thể, không thực tướng.
Tứ Đế là đạo lý căn bản khổ tập diệt đạo nghe mà ngộ đạo của hàng
Thanh văn : đây là khổ, đây là nguyên nhân gây ra đau khổ của con người,
để thăng tiến qua đoạn đường trầm luân này Tứ Đế đưa ra niềm an vui cảnh giải
thoát cần phải hành trì để đạt đến an lạc thật sự. Kinh Pháp Hoa ví đây
là phương tiện huyền xão, vậy đạt rồi thì không bám víu.
Thập nhị nhân duyên là giáo lý cho hàng Duyên Giác nghe mà tự quán
triệt từ vô minh đến sinh lão tử diệt là bước tiến không dừng chân, bởi đây là
duyên khởi hay duyên diệt nên quá trình tu tập còn vi tế pháp chấp cũng cần cỡi
bỏ vượt qua.
Con đường Lục độ, Trí huệ cuối cùng để đạt được là lý tưởng của Bồ
tát đạo qua một quá trình tới đỉnh để vượt qua, chỉ còn nhảy hay phóng khỏi
đỉnh của Trí huệ để về được đến Nhà.
Thong dong tự tại trên thuyền Bát nhã quán sát không thời gian ảnh
hiện không có thực tánh toàn triệt mà đợi chờ rơi rụng không e dè hay ngại ngùn
đến khi công thành danh toại dù phải đợi chờ đến khi Phật Di Lặc ra đời dưới
cội Long Hoa cũng nên đợi chờ, còn không thì im lặng mĩm cười như đức Thế Tôn
giơ cành hoa sen mà trong đạo tràng hội Linh sơn không một ai hiểu chỉ trừ ngài
Ca Diếp thấu triệt mĩm cười : "Phật yên lặng trao y bát pháp
tạng cho Ngàỉ".
Quá siêu việt nên ví như thần chú lớn cho hành giả mới phát tâm bồ
tát mà giữ tâm không cho vọng tưởng điên đảo thất thoái đạo nghiệp. Ví như bản
văn trong sáng cho hành giả nghe pháp căn bản hướng đến an vui giải thoát. Ví
như pháp tu cao cả khi quán triệt toàn thể pháp duyên sinh hướng đến an vui
giải thoát tự thân và ví như sự im lặng không còn gì để so sánh như bậc Bồ tát
thệ nguyện chưa độ hết chúng sanh thệ không thành Phật như Bồ tát Địa
Tạng hay lòng từ bi lớn của Bồ tát Quan âm lắng nghe cứu khổ chúng sanh.
Chỉ khi nào nhận thức "Tánh Không" toàn
triệt thì mới thật hết khổ :
"Là lời chân
thật không ngoa
Hãy nghe rõ hãy
nghĩ xa không này
Hãy hành pháp tạng
không đây
Hãy cùng thể
nghiệm không này vượt qua"
0 nhận xét:
Đăng nhận xét