HY
SINH BẰNG PHƯƠNG PHÁP BẤT BẠO ĐỘNG
Gần
đây sau biến cố 11/9/2001 nhà châm biếm chính trị Bill Maher đã xúc phạm mhữmg
người ủng hộ chương trình và trình bày trên ABC talk show của ông “sai lầm
chính trị,” đề tài này đã bị hủy bỏ bởi sự đồng ý với sự nhận xét của một thính
giả rằng những người đã tự nguyện chết vì mục đích của họ không thể gọi là kẻ
yếu hèn. Đúng hơn, cú đánh phóng ra từ một khoảng cách an toàn mới là hèn nhát,
Maher gợi ý. Trong cơn bão của việc đấu khẩu về lòng yêu nước đã dẫn đến nhiều
sự giận dữ dừờng như tập trung vào quan điểm rằng sự so sánh ở đây có thể là
giữa những cuộc tấn công tự sát (của chiến binh Hồi giáo) và quân đội Mỹ. Tuy
nhiên bằng mọi cách thì những sự lý giài có thể thực tiễn là giữa chính sách
khủng bố và sự đấu tranh có vũ khí hợp pháp (và điều này dường như khó hơn để
minh họa khi cuộc chiến mới làm lạc hướng sự phân biệt giữa thường dân và mục
đích quân sự), hoặc những bối cảnh khác biệt trong nhiệm vụ ôm bom tự sát từng
được thực hiện (Hamas không phải là Al- Qaeda), nó không dễ dàng để phủ nhận
rằng sự tự nguyện chết vì niềm tin thượng đế, tổ quốc hoặc chính trị là có ý
nghĩa quan trọng.
Sự tự nguyện này được xem như đã thừa nhận sự xung đột có vũ trang; Sự tự
nguyện đã từng được vinh danh xuyên qua những người bao gồm đấu tranh bất bạo
động; chẳng hạn như những công nhân trong cuộc đấu tranh U.S Civil
Rights; họ đối mặt với cuộc tấn công tàn bạo , trong vài trường hợp phải chết.
Điều này bao gồm cả những nhà lãnh đạo giống như Martin Lutherking,Jr., họ đã
nhận thấy được sự nguy hiểm có thể xảy ra đối với sự tử đạo của họ. Nó cũng gồm
có một số người lên án sự tử đạo- người kết liễu đời sống của chính mình, và
tạo ra sự tranh luận đối với người đã tự sát.
TỰ SÁT
Đặc biệt đối với tín đồ Cơ đốc, đa số các nhà hoạt động bất bạo động kết án bạo
lực tự hành hạ như là bạo lực nhắm đến người khác. Nhưng một số người trong khi
không từ bất kỳ hành động nào đó để có thể đem đến sự sống cho người khác; họ
đã chấp nhận có sự chủ ý kết thúc đời sống của chính mình vì lợi ích của
vấn đề. Một điển hình nổi tiếng hiện thời của sự tử đạo là sự tự thiêu của một
Tăng sĩ Việt Nam-Thích Quảng Đức vào ngày 11 tháng 6 năm 1963. Xuyên qua nhà Xã
hội học Michael Biggs, hành động này biến sự tự sát trở thành sự “phản kháng
toàn cầu.” (Biggs là tác giả của “Dying without Killing: Protest by
self-immolation,” một chương của quyển sách này dựa trên những sứ mệnh tự tử đã
được tái bản bởi Diego Gambetta, bây giờ đang được quan tâm bởi Oxford
University Presss). Thầy Quảng Đức tự thiêu ở ngã tư Sài Gòn để phản kháng sự
đàn áp Phật giáo của chính quyền Diệm được hỗ trợ bởi Hoa Kỳ.
“Ảnh hưởng của việc tự thiêu của Thầy Quảng Đức đã lan rộng và trực tiếp,”
Biggs viết, “trong phạm vi Việt nam, điều này đã dấy lên sự bất mãn của quần
chúng trong nhiều thành phố…thêm bốn Tăng sĩ và một Sư cô đã tự thiêu trước khi
Diệm bị lật đổ đầu tháng 11. Đây không phải đã kết thúc sự tự sát…rất nhiều
người đã chết vào năm 1966 để phản kháng chính quyển Hoa Kỳ đứng đằng sau chế
độ, quân lực và chiến tranh để tàn phá quê hương họ.
Nhiều người Mỹ-bao gồm hai tín đồ phái Giáo Hữu và một thành viên của Catholic
cũng đã hy sinh chính mình trong giai đoạn chiến tranh Việt nam
Trong khi một số nhà lãnh đạo vì hòa bình tại Mỹ tuyên bố chống đối việc tự sát
một cách cực lực, thì những nhà lãnh đạo Phật giáo Việt Nam ca ngợi điều này.
Một bức thư công khai vào năm 1965 với Martin Lutherking,Jr., và Thầy Thích
Nhất Hạnh đã xác nhận rằng “đây không phải là sự tự tử.”
“Những gì mà các vị tu sĩ nói trong những bức thư trước khi họ tự thiêu với mục
đích duy nhất là sự cảnh tĩnh, chuyển hóa trái tim của những kẻ áp bức, và nhắc
nhở lương tâm của thế giới đối với nỗi thống khổ đã đè nặng lên thân phận con
người Việt Nam,” ông ta viết. “Tôi tự đốt chính mình là để chứng minh rằng
những gì mà dân tộc tôi đang mong muốn là điều vô cùng quan trọng…vị Thầy tự
thiêu đã không mất đi lòng cam đảm và niềm hy vọng, và cũng không mất đi điều
mà ông ta ước ao không nên tồn tại…ông ta không nghĩ rằng ông ta đang hủy diệt
chính mình, ông ta tin tưởng hạnh nguyện tốt của hành động hy sinh vì mục đích
tha nhân” (Thich Nhat Hanh, Vietnam: Lotus in a Sea of Fire, Hill and Wang,
1967).
Biggs định nghĩa việc tự sát “như một hành động phản kháng của quần chúng; đó
là một người tự giết mình có ý thức-không phải là sự hãm hại của một ai
khác-nhân danh nguyện vọng quần chúng,” Biggs nói rằng, từ năm 1963 đã có hơn
một nghìn hành động tự sát toàn cầu (không phải bằng việc tự thiêu), những việc
tự sát này bao gồm sự phản đối của những người Tiệp Khắc về việc chiếm đóng của
quân đội Soviet tại quốc gia họ vào năm 1969; sự phản kháng của người Indian
vào năm 1990 về việc yêu cầu chính phủ quan tâm đến đặc quyền căn bản thực sự
của mọi nơi trên thế giới và trách nhiệm của chính phủ, và sự phản kháng của
người Kurds về việc chiếm đoạt Abdullah Ocalan của Thổ Nhĩ Kỳ vào năm 1999.
Trong sự phân tích của Biggs, động cơ thúc đẩy đối với những người tự sát tập
trung vào việc đề xuất mục đích của họ, kêu gọi kẻ áp bức thức tĩnh hoặc đưa ra
ý kiến bằng sự khuyến khích những người đồng cảm khác phản kháng dũng cảm hơn,
hoặc lời cầu xin bằng sự can thiệp thiêng liêng. Ông ta cũng ghi nhận vai trò tuyệt
vọng đối với những người cảm giác rằng tất cả con đường đã bị phong tỏa, và
trong một vài trường hợp, sự yêu cầu tránh xa sự bắt bớ và xét xử. Ông ta đề
cập-dù lảm giảm đi ý nghĩa quan trọng-cũng có khả năng của những động cơ ích kỷ
hoặc sự lung lạc về phân tích tâm lý.
Biggs nói rằng trong khi “hầu hết hành động tự sát không đáp ứng nhu cầu để
phát sinh sự hưởng ứng tập thể nào đó,” nhưng chỉ có một ít, “như sự tự thiêu
của Thầy Quảng Đức đã dẫn đến hàng chục nghìn người hoặc cả hàng trăm
nghìn người hợp tác để bày tỏ sự phẫn nộ, nỗi đau buồn và sự tham gia của họ,
ngay cả đến hôm nay, một đài tưởng niệm tại nơi Thầy Quảng Đức hy sinh luôn
luôn được đặt để nhiều bó hoa tưởng niệm,” Biggs viết.
NHỮNG
CUỘC TUYỆT THỰC VÀ ĐÌNH CÔNG
Biggs phân tích rằng sự tự tử từ tuyệt thực đình công cũng dựa trên nền tảng
đó; đối với việc tuyệt thực đình công việc chết không phải là dụng ý, ông ta
nói, những người tuyệt thực đình công hiếm thấy họ chết đói; ngoại trừ một cuộc
tuyệt thực đình công vào năm 1981 của mười tù nhân thuộc đảng Cộng hòa Ai-len.
Họ chết vì việc phản kháng sự khước từ của chính quyền Anh đối với tình trạng
của tù nhân chính trị. Gần đây hơn, 12 tù nhân Kurdish chết trong cuộc tuyệt
thực đình công vào năm 1966 vì tình trạng nhân đạo tại nhiều nhà tù Kurkish.
Nhiều người tuyệt thực đình công đã không kết hợp được với bất bạo động; ngoại
trừ chiến thuật tạm thời. Nhưng những sự tuyệt thực với chiều dài và cấp bực
khác nhau của cường độ, đã là một sự thực tập truyền thống của nhiều nhà lãnh
đạo bất bạo động. Hai nhà chính trị Mohandas Gandhi và Cesar Chavez đã tuyệt
thực để thỉnh cầu những người ủng hộ họ gia nhập sự đấu tranh với ý nghĩa bất
bạo động; cũng như đòi hỏi yêu sách với đối thủ của họ. Tại Washington D.C, nhà
hoạt động Chống vô gia cư Smith Snyder đã tuyệt thực 51 ngày vào năm 1984 để
gây áp lực cho chính quyền liên bang xuất tiền ngân quỹ nhằm cải tiến chỗ nương
náu cho người vô gia cư. (kết quả đã thành công, nhưng Sryder tham gia vào cuộc
tự sát vài năm sau đó). Nhà hoạt động Dick Gregory đã có những cuộc tuyệt thực
thường xuyên, và đã phục vụ như một người cố vấn cho một nhóm người phản kháng;
họ đã khởi đầu một cuộc tuyệt thực không giới hạn trong năm 1972 để gây sự chú
ý về sự liên lụy của người Mỹ tại Việt Nam. “Lúc đó lính Mỹ đã không còn nhiều,
nhưng có nhiều trận thả bomb vẫn tiếp tục,” Tom Lumpkin, một Mục sư Detroit
Catholic là một trong những người tuyệt thực nói. “Chúng tôi muốn tạo nên sự
đau khổ hiển hiện ngay tại đất nước Hoa Kỳ này.” Những người tham gia trong
cuộc tuyệt thực tin tưởng những gì nếu họ họ có thể chết, Lumpkin nói, nhưng
cuối cùng họ quyết định tuyệt thực, sau 40 ngày họ nhìn thấy được tia hy vọng
với việc tiến cử Tổng thống đảng dân chủ Ứng cử viên chống chiến tranh George McGovern.
NHỮNG
ĐỘI QUÂN HÒA BÌNH
Trong khi những nhà phản kháng bất bạo tại Hoa Kỳ đã dự liệu việc rủi ro trong
những hoàn cảnh của thời gian vào tù, như mất sở hữu hoặc sự quấy nhiễu cá
nhân; thì một hình thức mới của hành động bất động bất bạo động đã nảy lên
trong những năm gần đây; nó rõ ràng bao hàm sự rủi ro đối với sinh mạng. Khởi
đầu từ năm 1980 với những đại biểu Central America và tiếp tục đến hôm nay với
những đội quân hòa bình tại Irag và Isareal/Palestine, Americans và những đội
quân khác đã đi đến những vùng chiến tranh có một vài sự dính dáng với Hoa Kỳ;
mục tiêu của đội quân này là với tư cách nhân chứng và sự đoàn kết bất bạo động.
Vào ngày 16 tháng 3 năm nay, Rachel Corrie, một sinh viên trường Evergreen
Stathe College tại tiểu bang Olipia-Wash đã bị xô đẩy đến chết bởi một kẻ bắt
nạt trong quân đội Israeli tại Gaza khi cô ta đứng trên phần đất của nó với nỗ
lực ngăn cản sự phá hủy ngôi nhà của những người Palestine. Corrie là một tình
nguyện viên trong tổ chức Hành Động Liên Hợp Quốc Tế (ISM); kế hoạch của người
Palestine lôi cuốn nhiều tình nguyện viên quốc tế gia nhập vào hành động bất
bạo động trực tiếp đang thách thức sự chiếm đóng của Israeli.
“Corria là tình nguyện viên đầu tiên của ISM bị giết trong trường hợp này,” Một
ISM phát biểu với báo chí, “trên cơ sở bảo vệ quốc tế căn cứ vào sự thừa nhận
mà Israel không thể bào chữa đối với việc giết đi những thường dân quốc tế,
cũng như nó không thể giải thích được việc giết người Palesrine. Hôm nay sự đảm
bảo này đã bị thách thức.
Những bức thư của Corrie gởi về gia đình đã bày tỏ niềm tin của cô ta rằng: là
một người Mỹ cô ta có sự an toàn hơn với người Palestine; cô ta dấn than vì họ
trong sự sự phản kháng bất bạo động. Nhưng những tình nguyện viên của đội quân
hòa bình chẳng bao giờ đảm bảo được sự không ngờ này.
Bài diễn văn năm 1984 trước đại hội Mennorite World Conference đã đặt trên cơ
sở cho sư sáng tạo của những đội quân hòa giải Cơ đốc giáo. Nhà thần học cuảa
gío phái Mennonite-Ron Sider thông cáo rằng “chúng ta cần chuẩn bị để chết với
hàng ngàn người” trong sự can thiệp bất bạo động.
“Những gì sẽ xảy ra nếu tín hữu Cơ đốc đã được phát triển một lực lượng gìn giữ
hòa bình mới với 100,000 người sẵn sàng thay đổi những xung đột bạo lực và lập
trường hòa bình giữa những đảng phái chiến tranh tại Central American, Northern
Ireland, Poland, Southern, Africa, Trung Đông và Afghanistant?” Sider hỏi: “Mọi
người cho rằng vì mục đích hòa bình và nó là luân lý và chỉ có những người lính
đã bị chết với hàng trăm, hàng ngàn, ngay cả hàng triệu; chúng ta có nhiều sự
can đảm và niềm tin như những người lính đó không?”
Dầu một lực lượng 100,000 người vẫn chưa có thể bao quát được; nhiều đội quân
hòa bình dưới nhiều sự che chở đã hứa hẹn những kế hoạch ấn tượng để giảm bớt
sự chinh phục của bạo lực xung quanh thế giới. Vào tháng 11 vừa qua hội nghị
tại New Delhi phát động những gì có thể gọi là hoài bão lớn nhất chẳng
hạn như đặt kế hoạch thành lập một lực lượng hòa bình để can thiệp bằng hành vi
bất bạo động tại những nơi xung đột trên thế giới.
“Mục đích là tạo thành một quân đội với lập trường bất bạo động, nó là sự mơ
uớc của Gandhi,” Janet Chisholm, phó chủ tọa của nhóm Epicopa Peace Felloship,
người tham gia trong buổi họp nói. Kế hoạch đòi hỏi sự tuyển mộ ban đầu chừng
200 người làm việc cho hòa bình được trả lương đủ giờ; thành viên của nhóm này
sau này phát triển đến 2000 trong vòng 10 năm; cọng với những tình nguyện viên
dự bị tăng thêm lực lượng của họ. Sri Lanka-một quốc gia chịu sự xung đột gần
đây giữa Phật tử Sinhalese và phiến quân Tamil Hindus, đã được chọn lựa như một
vị trí của kế hoạch hàng không bắt đầu tháng 6. Lực lượng hòa bình sẽ “nỗ
lực tạo nên một nơi an toàn để người ta có cảm giác rằng họ có thể bắt đầu có
được sự chọn lựa.” Chisholm nói. “Nơi đó sẽ được cải tổ, và điều đó đã có thể
tạo ra sự xung đột lớn. Nó là thời gian khi những đảng phái khác biệt trong Sri
Lanka có thể có khả năng phát triển phương pháp hòa bình liên hợp.
Trong năm qua, sự rủi ro liên quan đến công tác của những đội quân hòa bình đã
có thể thấy rõ hơn bao giờ, như những hòa giải viên đã đi đến Irag.
Một tạp chí tháng hai của Elizabeth Roberts, thành viên của phái đoàn hòa bình
tại Irag (IPT) đã được hỗ trợ bởi các thành viên Voices in the Wildlness (www.iragpeaceteam.org)
đã phản ảnh những câu hỏi mà những người đại diện đã được hỏi để cân nhắc; câu
đầu là: “trong sự kiện chết, bạn có đồng ý rằng tử thi của bạn không được trả
về quê hương và bị vứt bỏ với những cách thích hợp?” Câu thẩm tra thứ hai nếu
họ đã viết xong những bức thư chưa gởi đi được cho những ngưởi thân yêu của họ
cũng trong trường hợp như vậy.
“Một số người ở đây nói rằng những sự xung đột còn lại dẫn đến vìệc các Hòa
giải viên Hoa Kỳ ở lại Irag bằng sự xâm lược khoảng chừng 30%,” Robert viết,
mục đích của đội quân hòa bình là cam kết được ở lại tại Irag trong thời gian
khủng hoảng.
Nhưng dù họ đã quan tâm việc sắp đặt chôn cất và thu thập “túi vải” (chai nước,
thức ăn khô, đèn pin, hộ chiếu, thẻ bài, dụng cụ băng vết thương) để dùng trong
cấp cứu, những tình nguyện viên IPT lau chùi nó sạch sẽ để dùng; nghĩa là họ
không muốn chết. Họ vứt đi nhãn hiệu “human shield” đã được xác nhận bởi những
đại biểu khác; họ cho rằng họ “từ chối xác nhập quân đội, ngôn từ hoặc tư tưởng
để diễn tả nhân chứng hòa bình của thành viên IPT.
TỰ DO
TOÀN DIỆN
Đối với người Cơ Đốc việc tự nguyện hy sinh tính mạng mình bắt nguồn từ cây cây
thập tự; nhà hoạt động bất bạo động và nhà thần học Bill Wylie-Kellermann nói
“sự yêu cầu đối với môn đệ là vác cây thập tự của bạn và đi theo tôi,” đây rõ
ràng là một câu hỏi rủi ro.
Danh từ “Sacrament” (lời nguyền) bắt nguồn từ Latin “sacramentum,” đó là lời
thề của quân đội La Mã với Caesar, Wylie-Kellerman nói, và chính quyền La Mã đã
hiểu những lời thề của tín đồi.
“Trong lễ rửa tội khi bạn chết-nó là sự rửa tội thành cái chết của chúa Giê Su
cũng như lễ phục sinh và trong nhiều cách nó tương tự như sự giới thiệu và đặt
tên đối với sự tự do này. Bạn đã thật sự chết, bạn tự do chết. Nó cũng có nghĩa
rằng bạn có khả năng đi vào trong bất cứ tình trạng nào-Bạn không chỉ được ủy
quyền nhưng bạn không còn ràng buộc.
“Tôi nghĩ đến những Tăng sĩ, người đã hy sinh chính mình và thực sự cẩn thận
trong việc chuẩn bị với sự tự hủy mà họ thực hiện, và điều này quả thực được
phát khởi từ lòng từ bi và tâm nguyện để chiếu sáng lên trang lịch sử và làm rõ
những nỗi đau khổ của người khác vì mục đích hòa bình. Tôi không cho rằng nó dễ
dàng trộn lẫn sự quyến rũ với cái chết bằng cách phô bày cái chết, hoặc một loại
tuyệt vọng với hành động mong muốn cuối cùng; và khi bạn bị thúc đẩy đến cuối
cùng, chúng nó là chủ đề với sự mơ hồ nhầm lẫn.”
Trong một vài cách, tự hy sinh trong hành động bất bạo động có thể được so sánh
với sự hy sinh của một chiến sĩ, Wylie-Kllermann nói. Những người dân đang ở
tại Irag hiện giờ đã phải đối mặt với viễn cảnh về những cái chết của họ, và họ
đã có sự chuẩn bị để nói lời goodbyes; những cách mà người lính đang nói khi
khởi hành đến Trung Đông. Có một loại tương tự giữa cái chết cho tôn giáo và sự
tự nguyện của những người lính chết ngoài chiến địa.
Nhưng cũng có một sự căn bản khác biệt, ông ta nói-chẳng hạn như giữa sự tư sát
bất bạo động và sự tự sát của người nổ bomb tự sát. Có một sự giải thoát tương
tự bao hàm một cách hiển nhiên và sư liên hệ đến những sức mạnh của chính trị
với những căn bản của sự nguy hiểm đó. Sự khác biệt lớn giữa người mang bomb tự
sát và tôn giáo bất bạo động giống như sự khác biệt giữa quân đội bất bạo động
và quân đội quân sự. Chỉ có một loại khác biệt giữa quyền tự do chết để giết và
quyền tự do chết ban tặng sự sống hoặc sự công bằng, hoặc đặt sự lọn chựa đối
với mọi người; chúng nó không phải giống nhau.
TN.Tịnh
Quang trích dịch
0 nhận xét:
Đăng nhận xét