Từ ngàn xưa cho
đến ngày nay, con người khổ đau triền miên như vậy, cho nên đạo Phật gọi đời là
bể khổ. Trong nhiều kiếp trầm luân sanh tử, nước mắt của chúng sanh nhiều hơn
bốn biển lớn.
Trên phương diện tự do tư
tưởng, con người thường phát biểu nhiều ý kiến. Sống trên đời này, có nhiều ý
kiến mới tỏ ra mình là con người văn minh tiến bộ, thuộc giới trí thức, học cao
hiểu rộng, kiến thức uyên bác, đông tây kim cổ kinh sử lão thông, việc gì cũng
tỏ ra mình rành rọt cả sáu câu, thông suốt từ A đến Z. Cùng một sự việc, cùng
một vấn đề, mỗi người đều có ý kiến riêng của mình. “Không ai giống ai”. Không
ai chịu nhường bước ai. Không ai chịu nhìn nhận ý kiến của ai. Không ai thực sự
biết tôn trọng chân lý, cho nên thường đưa đến chỗ tranh cãi một cách quyết
liệt, đôi khi còn đi xa hơn!
Sách có câu: “Năm người
mười ý! “. Nghĩa là một người có ít ra là hai ý kiến trong cùng một vấn đề. Một
người có ý kiến thế này, nhưng một lúc sau hay một ngày sau, chính người đó lại
có ý kiến thế khác, thay đổi ý kiến của chính mình. Bởi thế cho nên con người
đấu tranh, cãi vã nhau để bênh vực ý kiến chủ quan “nhứt định là đúng không sai”
của mình, võ mồm võ miệng không xong thì xử dụng võ lực, nếu sống trong tình
trạng chậm tiến, kém phát triển. Còn nếu như sống trong thế giới văn minh hơn,
tiến bộ hơn, phát triển hơn ở các nước Âu Mỹ, con người thưa kiện nhau ra ba
tòa quan lớn, quan nhỏ để đòi bồi thường cho bằng được một đô la danh dự hão,
sau khi đã tiêu pha gần hết cơ nghiệp thực, đã vất vả gầy dựng bấy lâu nay
trong các chi phí kiện tụng.
Từ ngàn xưa cho đến ngày
nay, con người khổ đau triền miên như vậy, cho nên đạo Phật gọi đời là bể khổ.
Trong nhiều kiếp trầm luân sanh tử, nước mắt của chúng sanh nhiều hơn bốn biển
lớn. Tâm trạng con người thay đổi triền miên, nay thương mai ghét, nay ghét mai
lại thương. Thương thương ghét ghét như những sợi dây xích trói buộc con người
trong vòng phiền não khổ đau, như những lượn sóng cao ngất trời vùi dập con
người trong sinh tử triền miên. Biển khổ sông mê mênh mông, chuyện này chưa
dứt, chuyện khác xảy ra, như những đợt sóng vỗ, trùng trùng điệp điệp, tiếp nối
nhau, cao ngất trời, không biết đến bao giờ mới dứt. Bởi vậy, trong kinh sách
có câu: “Ái hà thiên xích lãng. Khổ hải vạn trùng ba”.
Tuy nhiên, đạo Phật không
dừng ở chỗ thế gian thường than trời trách đất, kêu khổ, khổ ơi là khổ đó. Ðạo
Phật chỉ dạy cho con người nhận định rõ ràng: Cuộc đời khổ nhiều vui ít, cuộc
đời sống nay chết mai, cuộc đời nay còn mai mất, không ai biết trước cuộc đời
ngày sau sẽ ra sao? Nhưng đạo Phật không có ý tiêu cực, bi quan, chán nản, yếm
thế. Ðạo Phật chỉ dẫn con đường giác ngộ và giải thoát, chứ không dẫn dắt con
người đến chỗ yếu đuối, bạc nhược, chỉ biết đặt đức tin vô căn cứ vào thượng đế
tưởng tượng, cầu nguyện van xin.
Ðạo Phật chỉ dạy rất
nhiều phương pháp, gọi là vô lượng pháp môn, con người ứng dụng để tự giác ngộ
và giải thoát mọi phiền não và khổ đau của chính mình một cách tích cực, một
cách thiết thực, nhằm xây dựng cuộc đời an lạc hơn, hạnh phúc hơn. Trong vô
lượng pháp môn đó, có pháp môn gọi là “Bất Tùy Phân Biệt”. Pháp môn này được
Ðức Phật chỉ dạy trong bộ kinh Thủ Lăng Nghiêm, không những dành cho Phật Tử,
mà còn dành cho tất cả những ai trên đời muốn tìm hiểu cội gốc của phiền não và
khổ đau, cùng những phương pháp giải thoát khỏi các khổ đau và phiền não đó.
* * *
Trước hết, từ ngữ “bất
tùy” có nghĩa là: không theo. Còn hai chữ “phân biệt”, tùy theo chỗ dùng, được
tạm giải thích có nghĩa là: kỳ thị, so đo, suy lường, tính toán, hơn thua, phải
quấy, thị phi, cố chấp, thành kiến, định kiến, thường kiến, đoạn kiến, tà kiến,
ác kiến, thiên kiến, biên kiến. Vậy, “bất tùy phân biệt” có nghĩa là trong cuộc
sống, muốn được an lạc và hạnh phúc, chúng ta không nên để tâm niệm chạy theo
những tư tưởng tính toán, so đo, hơn thua, thị phi, phải quấy, không nên có đầu
óc kỳ thị, thiên lệch, thành kiến, nghiêng bên này hay bên kia, bênh vực con
mình gièm pha con người khác, không cố chấp một ý nghĩ cố định nào của mình là
chân lý tuyệt đối. Một hạt minh châu, hạt châu như ý, có thể phát ra nhiều sắc
sáng khác nhau, tùy theo góc cạnh nhìn của mỗi người.
Ở đây, xin nói ngay, “bất
tùy phân biệt” không có nghĩa là chúng ta không hiểu biết, không phân biệt được
thế nào là chánh tà, chơn ngụy, thiên viên, đại tiểu. Tức là không phải chúng
ta không có trí tuệ để có thể phân biệt được thế nào là đúng hay sai, thế nào
là thực hay giả, thế nào là thiên lệch hay viên mãn, thế nào là rộng lớn hay
nhỏ mọn. Trái lại, chúng ta đã hiểu biết một cách tường tận muôn sự muôn vật
đúng như thực tướng, không điên đảo, không sai sót. Hơn thế nữa, chúng ta còn
phải vượt qua trình độ hiểu biết căn bản đó, đạt được sự hiểu biết khá hơn,
giác ngộ cao siêu hơn, mới gọi là “bất tùy phân biệt” được.
Chúng ta hiểu biết rõ
ràng thế nào là chánh tà, chơn ngụy, thiên viên, đại tiểu, nhưng chúng ta không
hề cố chấp vào đó để đưa đến phiền não và khổ đau. Tại sao vậy? Bởi vì tâm phân
biệt, kỳ thị già trẻ, lớn bé, sang hèn, giàu nghèo, nam nữ, xuất xứ, học thức,
chủ tớ, thân sơ, thương ghét, màu da, dân tộc, địa phương, tôn giáo, không thể
nào đem lại an lạc và hạnh phúc, chỉ đưa chúng ta đến phiền não và khổ đau mà
thôi. Ở đời, chúng ta thường trách người khác có tâm phân biệt, nhưng ít khi
chịu phản quan tự kỷ, xét lại xem chính mình có tâm phân biệt như vậy hay
không? Bởi vì khi chúng ta nói người này, người kia có tâm phân biệt, tức là
chúng ta đã có tâm phân biệt rồi đó.
Ðối với một sự việc nào
đó, chúng ta thường không chịu suy xét một cách khách quan, mà hay có tâm phân
biệt già trẻ, lớn bé, sang hèn, giàu nghèo, nam nữ, xuất xứ, học thức, chủ tớ,
thân sơ, thương ghét, màu da, dân tộc, địa phương, tôn giáo, để đi đến kết luận
một cách thiên lệch, không đúng chơn lý, không đúng lẽ phải, không đúng sự
thực. Thí dụ như với người thân thích, chúng ta luôn luôn bênh vực, sao cũng
cho là đúng! Còn với tất cả những người khác, thế nào cũng cho là sai. Với
người đồng đạo hay cùng tổ chức, chúng ta luôn luôn bênh vực, cho là đúng, cái
gì cũng đúng! Nhưng với người khác đạo, khác tổ chức thì cho là sai, cái gì
cũng sai, tất cả đều sai! Tâm kỳ thị, tâm thiên lệch “phủ bênh phủ, huyện bênh
huyện”, thực ra đã có tự ngàn xưa. Ðó chính là tâm phân biệt của con người vậy.
Mục đích tối thượng của
đạo Phật còn chỉ dạy chúng ta một điều hết sức cao siêu, vi diệu. Ðó là ngoài
những hình tướng bên ngoài như già trẻ, lớn bé, sang hèn, giàu nghèo, nam nữ,
tất cả mọi người trên thế gian này đều có một điều giống nhau, một điều thật
giống nhau, một điều hết sức giống nhau, một điều muôn đời giống nhau, một điều
khắp nơi giống nhau. Dễ hiểu như là máu cùng đỏ, nước mắt cùng mặn, bộ xương
cùng trắng, lục phủ ngũ tạng không khác. Con người thuộc mọi sắc dân trên khắp
thế giới đều như vậy, thậm chí mọi loài súc sanh cũng đều như vậy. Ðiều giống
nhau, đồng nhau đó là cái gì?
Trong Kinh Kim Cang, Ðức
Phật có dạy:”Ly nhứt thiết tướng thị danh thực tướng”. Nghĩa là khi xa lìa tất
cả mọi hình tướng bên ngoài của con người, đừng cố chấp, đừng có tâm phân biệt
nam nữ, nghèo giàu, già trẻ, đẹp xấu, chúng ta mới có thể nhận ra rằng tất cả
mọi người trên thế gian này đều có một bản thể giống nhau, đồng nhau, tạm gọi
là “con người chân thật”. Muốn hiểu được, thấy được, giác ngộ được “con người
chân thật” của chính mình, chúng ta phải lắng lòng cho thanh tịnh, không tham
lam, không sân hận, không si mê. Cũng như mặt hồ nước có phẳng lặng mới có thể
soi thấy mặt trăng rằm trong đáy nước. Cũng như không có những đám mây tham sân
si che lấp, thì mặt trăng chân thật mới hiển lộ vậy.
Thế nào là “con người
chân thật”? Ðó là con người sáng suốt, có trí tuệ bát nhã, đủ năng lực giải
thoát mọi phiền não và khổ đau. Ðó là con người không tham lam, không sân hận,
không si mê, tâm địa lúc nào cũng sáng suốt, thanh tịnh, tỉnh thức. Ðó là con
người bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm. Ðó không phải
là cái thân xác nặng nề của chúng ta đang có hiện nay. Ðó cũng không phải là
cái tâm lăng xăng lộn xộn, suy nghĩ vớ vẫn vẫn vơ của chúng ta hiện nay. Thật
vậy, những lúc tâm chúng ta lăng xăng lộn xộn, lo lắng bất an, chúng ta không
thể sáng suốt suy nghĩ điều gì, nhớ điều gì cả. Chỉ khi nào chúng ta sống được
với “con người chân thật” thì khi đó mới thực sự có được an lạc và hạnh phúc
của cảnh giới thiên đàng, cảnh giới niết bàn mà thôi. “Con người chân thật”
chính là con người không có tâm phân biệt. Nói cách khác, con người có tâm “bất
tùy phân biệt” chính là “con người chân thật” vậy.
Tâm phân biệt, cố chấp,
thị phi, phải quấy, đúng sai, hơn thua, thường đưa đến phiền não và khổ đau.
Tại sao vậy? Bởi vì trên thế gian này có điều gì đúng hay sai tuyệt đối đâu.
Chẳng hạn như chữ hiếu đối với dân tộc này là nuôi dưỡng cha mẹ già yếu cho đến
lúc mãn phần. Còn chữ hiếu đối với dân tộc khác là khi thấy cha mẹ già thì họ
cho leo lên cây, rồi con cháu xúm lại rung gốc cây. Nếu cha mẹ còn khỏe mạnh
leo trở xuống được, con cháu vui mừng tiếp tục nuôi dưỡng. Bởi lẽ họ quan niệm
rằng cha mẹ còn khỏe mạnh thì mới vui sống và yêu đời.
Cũng vậy, hiện nay vấn đề
phá thai là nhân đạo hay vô nhân đạo? Vấn đề bác sĩ có quyền giúp bệnh nhân nan
y, hết thuốc chữa, đau đớn thập phần, được chết theo ý muốn của họ hay không?
Ðâu là câu trả lời đúng nhất, hợp tình, hợp lý, hợp luật, hợp lệ nhất? Trong
nhiều vấn đề, chúng ta có thể chỉ đúng một phần thôi, hãy lắng nghe ý kiến của
người khác, như vậy mới đúng là tinh thần của người biết tôn trọng chân lý.
Trong Kinh Thủ Lăng
Nghiêm, Ðức Phật có dạy:”Tri kiến lập tri tức vô minh bổn. Tri kiến vô kiến tư
tức niết bàn”. Nghĩa là chúng ta ai ai cũng có tri kiến, tức là có sự hiểu
biết. Nhưng nếu chúng ta chấp chặt tri kiến của mình là đúng, là độc nhứt vô nhị,
sự chấp chặt đó là gốc của vô minh phiền não. Nếu không cố chấp như vậy, nhứt
định chúng ta sống trong cảnh giới niết bàn cực lạc không nghi. Sau đây, chúng
ta thử tìm hiểu Pháp Tứ Y, Ðức Phật dạy trong Kinh A Hàm, gồm có: Y pháp bất y
nhân, Y nghĩa bất y ngữ, Y trí bất y thức, Y liễu nghĩa bất y bất liễu nghĩa.
*1) Trong Pháp Tứ Y, Ðức Phật có dạy: “Y pháp bất y nhân”.
Nghĩa là chúng ta nên xét theo sự việc chứ không xét theo con người. Thí dụ như
một người ăn hiền ở lành đúng tiêu chuẩn, thì phải được lên thiên đàng, không
phân biệt, không chấp cứ người đó là có đạo nào hay ngoại đạo. Chứ lên thiên
đàng mà cũng phe đảng như vậy hay sao? Cũng vậy, Niết bàn không dành riêng cho
giới tu sĩ. Ðó chính là cảnh giới của tất cả những ai thực hành đúng theo lời
Ðức Phật đã dạy, không phân biệt là Phật Tử, hay không phải là Phật Tử.
Tâm phân biệt người
này thế này, người kia thế khác cũng dẫn con người đến phiền não và khổ đau.
Con người phân biệt màu áo tu sĩ với cư sĩ, phân biệt có đạo với ngoại đạo. Nếu
là tu sĩ thì lên Niết bàn, nếu là người có đạo thì lên thiên đàng. Còn số đông
đại chúng muôn vạn triệu triệu người, thì có chỗ dành sẵn dưới địa ngục! Hởi
ơi, đâu là lòng từ bi và bác ái trong những con người có tâm phân biệt như thế!
Chúng ta thường hay chấp chặt, tin ngay lập tức những gì giáo chủ dạy, những gì
người tự nhận đại diện thượng đế nói, mà không chịu xét xem những lời dạy đó,
những lời nói đó có đúng lẽ thực, có hợp chân lý hay không, cứ tin bừa bãi, tin
một cách mù quáng, hết sức mê tín dị đoan, gọi đó là đức tin! Như vậy, chúng ta
đã “y nhân”, dù là thượng đế, chứ không “y pháp”, dù là chân lý. Bởi vậy, cho
nên ở Âu Mỹ hiện nay, những trung tâm hướng dẫn thiền định thu hút rất nhiều
người đến thực tập, không phân biệt sắc dân hay tôn giáo gì cả. Ở những nơi đó,
con người tư duy chân lý, quán sát lẽ thực, thực hành Chánh Pháp. Người nào
thực tập đúng pháp môn thiền định thì đạt được cảnh giới an lạc và hạnh phúc
đó, một cách bất tùy phân biệt! Như vậy chính là “y pháp bất y nhân”.
*2) Trong Pháp Tứ Y, Ðức Phật có dạy: “Y nghĩa bất y ngữ”.
Nghĩa là đừng chấp những lời nói, ngôn ngữ, bài viết không có ý nghĩa gì, chúng
ta sẽ không phiền não và khổ đau. Thí dụ như có người hỏi chúng ta rằng: Sao
dạo này anh chị mất uy tín quá vậy? Câu hỏi đó không có ý nghĩa gì cả, chỉ nhằm
mục đích chọc tức chúng ta mà thôi. Chúng ta nghe rồi thì thôi, hoặc có thể lờ
đi như không nghe thấy, bởi vì chúng ta hiểu tường tận thế nào là “vô ngã”,
không thấy có “bản ngã”, nên không thu nhận câu đó vào trong tâm trí. Như vậy
chúng ta sẽ không thấy phiền não và khổ đau. Hoặc giả khiêm nhường hơn, chúng
ta có thể từ tốn đáp: Chúng tôi có uy tín hồi nào đâu để mất cơ chứ! Thí dụ như
có người mắng chúng ta giống như con bò. Nếu chúng ta thu nhận câu đó vào tâm
trí, rồi sanh phiền não giận tức, quả thực chúng ta không được thông minh cho
lắm. Câu nói đó không căn cứ vào đâu cả, chúng ta giận làm gì cho mệt. Hoặc là,
có người phê bình chúng ta nóng tánh mà chúng ta tức giận lên tiếng cãi chánh,
quả thực người đó nói chẳng sai, chứ còn gì nữa! Thậm chí, nếu có người viết
bài phê phán, chỉ trích, miệt thị, mạ lỵ, chưởi bới, vu khống, sỉ vả, khiêu
khích, lăng nhục, bôi lọ, chụp mũ, bịa chuyện, mà chúng ta chỉ “y nghĩa bất y
ngữ”, thì họ làm gì có thể xúc phạm, làm sao có khả năng gây phiền não và khổ
đau cho chúng ta được, phải không thưa quí vị!
Người ta đưa lửa tới đốt,
nếu chúng ta không đáp ứng, không đưa thân đưa tâm ra lãnh đủ, thì họ chỉ đốt
“hư không” mà thôi, chẳng nhằm nhò gì chúng ta cả. Chửi bới hồi lâu, không thấy
ép phê, không thấy hiệu quả, không thấy động đậy gì về phía chúng ta, họ cũng
chán nản, cảm thấy hao hơi tổn sức, rồi tự ngưng thôi. Còn nếu chúng ta phản
ứng, lên tiếng cãi chánh, thanh-minh-thanh-nga, biện bạch, cũng giống như chúng
ta thổi hơi vào lửa đỏ, cho bùng thêm lên, hà hơi tiếp sức, gây cảm hứng, tạo
duyên cớ cho họ làm tới mà thôi. Lúc Ðức Phật còn tại thế, khi Ngài bị người
ngoại đạo theo quấy rầy, Ngài vẫn thản nhiên cất bước, như không có chuyện gì
xảy ra cả. Người đó thấy Ðức Phật cứ tiếp tục lặng thinh, bèn chặn lại hỏi: Này
ông Cồ Ðàm, có chịu thua chưa? Lúc đó, Ðức Phật từ tốn nói bài kệ như sau:
“Người hơn thì thêm oán. Kẻ thua ngủ chẳng yên. Hơn thua đều xả hết. Giấc ngủ
được an lành” .
Như vậy, nếu chúng ta
không chấp những lời nói vô nghĩa, những câu văn, ngôn ngữ xuất phát từ lòng
hận thù, ganh tị, đố kỵ, ghen ghét, chắc chắn chúng ta sẽ không nhức đầu nhói
tim, khỏi uống thuốc chẳng cần dầu cù là, nghĩa là chúng ta không phiền não và
khổ đau. Chẳng hạn như khi chúng ta đi dự tiệc, mãn tiệc ra về, chủ nhà gói quà
biếu tặng, nếu chúng ta không nhận thì chủ nhà phải giữ món quà đó lại. Cũng
vậy, người đời thường tặng chúng ta những lời khen, tiếng chê đầu môi chót
lưỡi, chúng ta không nhận thì sẽ được ăn ngon ngủ yên.
Trong Kinh Pháp Bảo Ðàn,
Ðức Lục Tổ Huệ Năng có dạy: “Tắng ái bất quan tâm. Trường thân lưỡng cước
ngọa”. Nghĩa là những chuyện thương thương ghét ghét, chẳng làm bận lòng, chúng
ta sẽ nằm thẳng hai chân mà an giấc ngủ, khỏi phải trằn trọc trăn trở, nằm đếm
một hai, cho đến trăm ngàn! Khỏe re! Như vậy chính là “y nghĩa bất y ngữ”.
*3) Trong Pháp Tứ Y, Ðức Phật có dạy: “Y trí bất y thức”. Nghĩa
là chúng ta nên xét sự việc theo trí tuệ bát nhã, chứ không xét theo tình thức,
tình cảm thiên lệch của con người. Tâm phân biệt sắc tướng đẹp hay xấu, tiếng
nói dễ nghe hay khó nghe, mùi hương dễ chịu hay khó chịu, món ăn ngon hay dở,
bài văn khen tặng hết lời hay phê phán nặng lời, thường dẫn con người đến phiền
não và khổ đau. Tại sao vậy? Bởi vì sắc tướng đẹp hay xấu thực sự không có tiêu
chuẩn nhứt định, tùy người đối diện, tùy cảm tình của con người mà thôi. Món ăn
ngon hay dở cũng không có tiêu chuẩn nhứt định, tùy theo con người đang đói
bụng hay không mà thôi. Khi đói lòng, một củ khoai cũng thấy ngon, nhưng khi no
đủ quá rồi thì sơn hào hải vị cũng chẳng ngon bằng một lọ tương! Khen tặng hay
phê phán cũng không có tiêu chuẩn nhứt định, tùy theo con người đang nịnh bợ,
tâng bốc để thủ lợi, hay đang quạu quọ vì không còn hưởng lợi, như lời giao kết
trước đây nữa mà thôi.
Người nào hiểu được như
vậy, thực tập đúng pháp môn thiền định, không để cho những tình thức phân biệt
dẫn dắt đến chỗ sai lạc, đến chỗ phiền não và khổ đau, người đó đạt được “trí
tuệ bát nhã”. Nói cách khác, trí tuệ bát nhã là trí tuệ phát sanh do tâm “bất
tùy phân biệt”, do công phu trì giới, tu tập thiền định mà hiện ra. Trí tuệ bát
nhã khác với trí tuệ của thế gian do công phu học tập trong học đường mà đạt
được, thể hiện qua các bằng cấp cao thấp. Trí tuệ bát nhã là trí tuệ sẵn có nơi
tất cả mọi con người, không phân biệt già trẻ, lớn bé, nghèo giàu, nam nữ, xuất
xứ, học thức, thân sơ, thương ghét, dân tộc hay tôn giáo gì cả. Do sự lắng lòng
cho thanh tịnh, không tham lam, không sân hận, không si mê, chúng ta sẽ đạt
được “trí tuệ bát nhã”. Như vậy chính là “y trí bất y thức”.
*4) Trong Pháp Tứ Y, Ðức Phật có dạy: “Y liễu nghĩa, bất y bất
liễu nghĩa”. Nghĩa là chúng ta chỉ nên căn cứ theo những sự việc có ý nghĩa,
những điều nào rõ ràng, minh bạch, chứ đừng chạy theo những sự việc mơ mơ hồ
hồ, những chuyện không có căn cứ vào đâu cả. Thí dụ như chúng ta thường nghe
một câu chuyện truyền miệng, rồi vội vàng kết luận là người này tốt, người kia
xấu, người này phải, người kia quấy. Hoặc những tin đồn dĩa bay xuất hiện, thần
thánh hiện ra nơi này nơi khác, có người thi triển thần thông phép lạ chữa hết
bệnh nan y, không thể kiểm chứng được, chúng ta không cần quan tâm. Vã lại,
những câu chuyện như vậy không có ích lợi gì cho việc tu tâm dưỡng tánh, chỉ
làm loạn tâm chúng ta mà thôi.
Ðối với những chuyện thị
phi trên thế gian này, chúng ta không có thời gian, không có khả năng, không có
hoàn cảnh, không có điều kiện, để tìm hiểu sự thực, đã vội vàng kết luận, nhứt
định không đúng vậy. Ðối với những sách gọi là kinh Phật, chúng ta cũng cần nên
dè dặt. Kinh Phật liễu nghĩa có nội dung giảng dạy 37 phẩm trợ đạo, để giúp con
người tiến bước trên con đường giác ngộ và giải thoát. Kinh Phật liễu nghĩa có
nội dung giảng dạy lý nhân quả, lý vô thường, vô ngã, chơn không diệu hữu, để
giúp con người thoát ly phiền não và khổ đau. Những cuốn sách có nội dung: cúng
sao giải hạn, cầu gì được nấy, bói toán mê tín, tin tưởng thánh thần, cầu
nguyện van xin, tình duyên gia đạo, coi phong thủy, xem nhà cửa, chọn đất đai,
đều không phải là kinh điển ghi lời Ðức Phật dạy. Vấn đề này còn có phần tế
nhị, bởi vì Ðức Phật thuyết pháp tùy theo căn tánh của chúng sanh, cho nên kinh
điển có quyền có thực, có hiển có mật. Kinh Phật vô lượng nghĩa, không có cao
thấp, tùy theo công phu tu học đến đâu, con người hiểu kinh Phật đến đó.
* * *
Tóm lại, để kết thúc bài
này, chúng tôi ghi lại hai câu sau đây của Thiền sư Hoàng Bá:
Nhược bất nhứt phiên hàn triệt cốt
Tranh đắc mai hoa phốc tỷ hương.
Nghĩa là:”Nếu không một
phen sương thấm lạnh. Hoa mai đâu nở ngát hương thơm”. Sau khi trải qua một mùa
đông lạnh thấu xương, hoa mai mới hội đủ thời tiết nhân duyên để nở rộ và tỏa
mùi hương thơm ngát khắp nơi nơi. Cũng vậy, chúng ta cần phải trải qua những
thử thách cam go của cuộc đời, mới có được bài học nhẫn nhục, nhẫn mà không
thấy nhục. Cổ nhân có dạy: “Một sự nhịn chín sự lành”. Hiểu đạo rồi, chúng ta
có thể nói: “Một sự nhịn muôn vạn sự lành”. Con người chỉ học được và nếm được
chút hương vị từ bi sau khi trải qua những giai đoạn khổ đau của cuộc đời. Khi
nào bắt đầu thấy được giữa tuyết trắng và bùn nhơ không khác, không có cái gì
xấu, không có cái gì đẹp, lúc đó con người bắt đầu biết nhìn sự vật với tâm bất
tùy phân biệt, cũng là lúc con người hiểu được và hành được tâm đại bi. Người
có tâm đại bi tức là không có tâm phân biệt, không có tả không có hữu, không có
bạn không có thù, không có thân không có sơ, không có thị không có phi, không
có thương không có ghét. Tuy nhiên tâm đại bi không phải là vô tri, mà chính là
sức mạnh mầu nhiệm đem lại an lạc và hạnh phúc cho cuộc đời.
Hiểu được rõ ràng thế nào
là “vô ngã”, thế nào là “con người chân thật”, chúng ta mới tìm được an lạc và
hạnh phúc trên cõi đời này. Hơn thế nữa, chúng ta cần phải trải qua nhiều thăng
trầm của cuộc đời, mới nhận thấy được những lời dạy của đức Phật không dành
riêng cho bất cứ ai sống trên đời này. Không phân biệt tôn giáo, không phân
biệt sắc tộc, bất cứ người nào thực tâm lắng nghe, lắng lòng suy nghĩ, đem
những lời dạy quí báu đó áp dụng trong cuộc sống. Nhứt định người đó sẽ sống
một cuộc đời an lạc và hạnh phúc với “con người chân thật” của chính mình vậy.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét